Du Ký Hành Tinh Cô Đơn Của Crispin Hershey-2015-1 Tháng Năm 2015
Thần mưa xứ Wales đái tồ tồ lên nóc nhà, lên đám lều bạt hội hè và mớ dù đi mưa ở Hay-on-Wye, lên cả Crispin Hershey khi chàng thả bước dọc theo con ngõ rào rào tiếng mưa đổ xuống máng xối, đến hiệu sách Old Cinema và chui vào tận sâu bên trong, rồi đứng đấy mà xé tan tác Tạp chí Piccadilly tuần đó. Richard Cheeseman, cái tay cao kều, chuyên mặc nhung kẻ, râu ria lún phún, cả đời chỉ biết chọc đít thiên hạ ấy, hắn nghĩ mình là ai kia chứ? Tôi nhắm mắt lại nhưng câu chữ của hắn cứ chòng chọc lượn qua, như dòng Tin mới nhận trên tivi: “Tôi đã cố hết sức tìm một điều gì đó, bất kỳ điều gì, trong cuốn tiểu thuyết từ lâu đã được chờ đón của Crispin Hershey, hòng cứu vớt thứ văn chương dở tệ như tra tấn ấy.” Làm sao cái tay thối tha gớm ghiếc ấy lại có thể viết những dòng đấy, nhất là khi đã từng đàn đúm tiệc tùng với tôi ở Hội Văn Chương Hoàng Gia? “Thời trai trẻ ở Cambridge, tôi từng đấu tay đôi chỉ để bảo vệ tác phẩm Phôi thai tan tác, kiệt tác thời đầu của Hershey, đến nay tôi vẫn tự hào với vết sẹo chiến tích trên tai.” Ai đã đứng ra bảo lãnh để hắn nộp đơn vào Hội nhà văn English PEN? Là tôi. Chính tôi đấy! Rồi hắn cảm ơn tôi ra sao? “Nếu nói Tiếng Vọng Phải Chết là ‘thứ văn chương lèm bèm đến phát sốc, vừa trẻ con vừa rắm rít’ thì khác gì xúc phạm trẻ con, rắm và sốc.” Tôi giẫm chân lên mớ tạp chí vụn, thở hổn hển, tức tối…
Thực lòng, thưa độc giả quý mến, tôi muốn khóc. Kingsley Amis từng huênh hoang rằng một bài bình sách bất lợi có thể khiến bữa sáng của ông ta mất ngon, nhưng không thể nào phá đến bữa trưa. Kingsley Amis sống ở thời tiền-Twitter, thời đó các tay bình sách còn bỏ công đọc sách và suy nghĩ độc lập. Ngày nay chúng chỉ chăm chăm lên Google, tìm một quan điểm sẵn có, và nhờ đao búa tàn khốc của Richard Cheeseman, chúng sẽ đọc được những dòng này: “Vậy tại sao Tiếng Vọng Phải Chết bốc mùi vô đối? Một: Hershey làm mọi cách để tránh bị sáo, đến nỗi câu cú vặn vẹo, khổ sở, bị tra tấn tàn nhẫn như một kẻ tố giác chính quyền ở Mỹ. Hai: cốt truyện huyền ảo song song xung đột chan chát với những kỳ vọng đương đại của cuốn sách, đến là nhức cả mắt. Ba: một nhà văn viết về một nhân vật nhà văn, liệu còn dấu hiệu nào rõ hơn thế cho thấy anh ta đã cạn vốn?” Richard Cheese đã tròng tấm bảng “TỰ DO ĐẤM ĐÁ” vào cổ cuốn Tiếng Vọng Phải Chết, ngay đúng lúc tôi cần hồi sinh doanh số. Đâu phải như thời những năm 1990 nữa, hồi đó người đại diện của tôi- Hal “linh cẩu” Grundy có thể ra giá 500 ngàn bảng, dễ như móc ráy từ cái mũi khoằm tướng của hắn. Thời nay đã là Thập kỷ Chết chóc của Sách. Mỗi năm tôi phải rút ruột 40 ngàn bảng tiền học cho con gái, rồi quả căn hộ pied à terre ở khu Outremont giàu có tại Montreal đúng là đã khiến Zoë mỉm cười trở lại, nhưng cũng có nghĩa là tôi không còn rủng rỉnh nữa, lần đầu tiên như thế kể từ khi Hal Linh cẩu ký được hợp đồng cuốn Phôi thai tan tác. iPhone rung. Đúng là nhắc Tào Tháo, tin nhắn từ Hal.
45 phút nữa bắt đầu. Chàng hỡi đang nơi đâu?
Bọn linh cẩu đã hú hét. Cờ đến tay, lại phất nào.
Maeve Munro, chủ xị dày dặn của chương trình nghệ thuật hàng đầu trên BBC gật đầu ra dấu được-rồi-đấy với tay phụ trách hậu đài. Tôi đứng đợi trong cánh gà, mic cài sẵn. Gái chân gỗ mải xem tin nhắn trên điện thoại. Phụ trách hậu đài nhắc tôi tắt di động. Tôi kiểm tra máy, thấy có hai tin nhắn mới: một của hàng không Qantas, một nhắc nhở đổ rác. Thời còn ngọt ngào, bà Zoë Legrange-Hershey thường gởi tin nhắn kiểu Cho tụi nó biết mùi lễ độ đi, thiên tài mỗi khi tôi có sô, nhưng bây giờ nàng còn chẳng thèm hỏi tôi đi nước nào. Hai đứa con gái cũng không nhắn gì cả. Juno chắc đang chơi trên máy với bạn học - hoặc bọn cà chớn giả vờ làm bạn học - hẳn đang chơi trò Tunnel Town, hay lại trò gì mới nổi nữa, còn Anaïs chắc đang đọc sách của Michael Morpurgo. Tại sao tôi không viết sách cho trẻ con nhỉ, viết về trẻ con cô đơn kết bạn với động vật chẳng hạn? Bởi vì hai thập kỷ qua tôi là Kẻ Nổi Loạn trên Văn đàn Anh quốc, vì thế đấy. Trong ngạch xuất bản, thay đổi cơ thể mình còn dễ hơn là thay đổi thể loại sáng tác.
Đèn trong nhà mờ dần, đèn sân khấu sáng dần, khán giả im bặt. Gương mặt ăn ảnh của Maeve Munro rạng rỡ, chất giọng du dương xứ đảo Orkney vang khắp lều. “Xin chào, tôi là Maeve Munro, trực tiếp từ Lễ hội Hay, 2015. Kể từ tác phẩm đầu tay Wanda bằng sơn dầu, xuất bản khi tác giả vẫn còn là sinh viên, Crispin Hershey đã có tiếng là một bậc thầy về phong cách, một thư ký sắc sảo của thời đại chúng ta. Giải thưởng được khao khát nhất - giải Brittan, chẳng hiểu sao cứ né tránh nhà văn, nhưng nhiều người tin rằng năm 2015 có thể là năm của Hershey. Vậy thì còn chờ gì nữa, sau đây là trích đoạn từ Tiếng Vọng Phải Chết, tiểu thuyết đầu tiên trong vòng năm năm qua của nhà văn, xin hãy cùng tôi và nhà tài trợ Ngân hàng FutureNow hoan nghênh… Crispin Hershey!”
Vỗ tay như sấm. Tôi tiến đến bục. Khán phòng đông kín. Còn chả kín nữa - chúng chuyển tôi từ tận địa điểm PowerGen, sáu trăm chỗ ngồi, đến chỗ này để “có không gian thân mật ấm cúng”. Biên tập viên Oliver ngồi hàng đầu với Hal Linh cẩu, cùng với khách hàng mới nhất của hắn và Nick Greek, Cây Bút Trẻ Mới Nổi Ở Mỹ. Im lặng buông xuống. Mưa gõ trống trên mái lều. Phần lớn các nhà văn lúc này sẽ cảm ơn khán giả đã nhọc công đến dự trong một đêm mưa gió thế này, nhưng Hershey thì khác, ta càng kiêu chúng càng xiêu, nên tôi mở Tiếng Vọng Phải Chết ngay trang một.
Tôi hắng giọng. “Vậy tôi sẽ đọc luôn…”
… đọc xong dòng cuối cùng, tôi trở lại ghế ngồi. Vỗ tay vang dội: không đến nỗi tệ, với một đám hưu trí thành thị vừa ních đầy bụng kẹo bơ thủ công và rượu táo hữu cơ. Chúng hô hố thích thú khi nhân vật chính Trevor Upward bị cột bằng băng dính lên nóc tàu Eurostar, chợn chạo khi Titus Hurt tìm thấy một ngón tay người trong chiếc bánh bao Cornwall và gật gù ngâm nga theo hồi kết trong quán Cambridge - hồi kết vang lên nhịp nhàng như thơ Auden khi đọc thành tiếng ở các dịp lễ hội. Maeve Munron nhìn tôi, vẻ mặt ra ý được-đấy-chứ: tôi nhìn lại, ra ý tại-sao-không-chứ? Hershey vốn lớn lên giữa dân kịch nghệ, từ nhỏ chàng và anh trai đã bị cụ thân sinh suốt ngày bỉ bôi là cái thứ ăn không nên đọi, nói không nên lời; chính nhờ thế mà mồm miệng mới được như ngày nay. Như trong hồi ký của tôi đã kể, ông cụ đến lúc trăn trối vẫn còn mắng mỏ, sửa từng câu chữ của con cái…
“Để bắt đầu phần hỏi đáp,” Maeve Munro nói trong lều, “tôi sẽ hỏi trước. Sau đó mic sẽ được chuyền xuống bên dưới. Vậy, Crispin, trong chương trình Bình sách Bản tin tối thứ Sáu rồi, nhà phê bình xuất sắc Aphra Booth có mô tả Tiếng Vọng Phải Chết là ‘một tiểu thuyết điển hình của đàn ông khủng hoảng tuổi trung niên’. Ông thấy sao?”
“Ồ, tôi thấy cô ấy nói đúng hoàn toàn,” tôi chậm rãi hớp một ngụm nước, “ấy là, nếu cũng như Aphra Booth, đọc sách với cô có nghĩa là lướt mắt qua bìa sách trong nhà vệ sinh ở phòng đợi trước khi lên sóng.”
Maeve Munro trả lời câu đùa của tôi bằng một cái mỉm cười giả tạo, ai chẳng biết ả vẫn thường cặp kè đàn đúm với Aphra Booth ở Câu lạc bộ Mistletoe. “À… vậy còn với bài bình sách không lấy gì ưu ái của Richard Cheeseman…”
“Có lễ rửa tội nào hoàn chỉnh nếu thiếu đi lời nguyền của bà tiên ganh ghét?”
Tiếng cười hô hố, những cú giật mình há hốc; Twitter lại sắp nổi bão. Báo Telegraph kiểu gì cũng sẽ đăng nguyên câu đấy trên trang nhất trong mục văn học nghệ thuật; Richard Cheeseman sẽ vận động hội đấu tranh đồng tính của hắn tặng tôi giải Mặt Mốc Của Năm; Linh cẩu Hal nghĩ ngay Tiếng tăm: $$$ốt dẻo, trong khi đó Nick Greek, Chúa phù hộ hắn, ngồi đấy mà ngơ hết cả ngác. Dân viết lách ở Mỹ vốn quá tử tế với nhau, hết cùng bù khú trong những căn hộ Brooklyn, rồi viết thư giới thiệu cho nhau vào biên chế giáo sư. “Tiếp tục nhé,” Maeve Munro lên tiếng, giọng có phần bớt du dương, “khi ta đang có đà.”
“Điều gì khiến cô nghĩ cô đang ‘có đà’, Maeve?”
Ả khẽ mỉm cười. “Nhân vật chính trong Tiếng Vọng Phải Chết, cũng như ông, là một tiểu thuyết gia, vậy mà trong hồi ký Còn Tiếp, ông từng gọi tiểu thuyết viết về nhà văn là ‘sặc mùi loạn luân’. Vậy Trevor Upward là cú quay đầu của tác giả, hay giờ đây loạn luân nghe cũng không đến nỗi tệ lắm?”
Tôi dựa người ra sau, mỉm cười, trong khi đám con nhang đệ tử của ả nhà báo đang gật gù gừ-hừ bên dưới. “Tôi lấy tư cách gì mà đi giảng về loạn luân cho một người xứ đảo Orkney, hả Maeve, nhưng tôi vẫn cho rằng nếu không thay đổi quan điểm thì nhà văn chỉ có thể viết đi viết lại một cuốn sách mà thôi. Hoặc chuyển ngành dạy món ‘dziết dzăng’ ở một trường đại học cho con nhà giàu phía bắc New York chẳng hạn.”
“Thế nhưng…” Maeve Munro như vừa bị chạm nọc. “…một chính trị gia mà cứ đổi ý thì lại mang tiếng là kẻ lá mặt lá trái.”
“F.W. de Klerk đổi ý về Nelson Mandela, không nghĩ ông ấy là khủng bố nữa,” tôi phản pháo, “Gerry Adams và Ian Paisley đổi ý về bạo lực ở Ulster. Lá mặt lá trái cũng tốt đấy chứ”
“Để tôi hỏi ông câu này. Trong chừng mực nào, thì Trevor Upward, một nhân vật có đạo đức dễ lay chuyển, được xây dựng dựa trên chính tác giả?”
“Trevor Upward là một tên đểu cáng căm ghét phụ nữ và nhận được một kết quả đích đáng ở trang cuối. Vậy thì Maeve thân mến, làm sao một kẻ trời ơi đất hỡi như Trevor Upward lại có thể…” tôi mỉm cười, vờ vĩnh ngây thơ, “được xây dựng dựa trên một người đàn ông như Crispin Hershey chứ?”
Rừng cây mờ mịt và những ngọn đồi Herefordshire ẩn hiện trong nhập nhoạng mù sương. Không khí ẩm ướt chặm lên chân mày tôi như khăn mặt trong khoang hạng thương gia. Tôi, tên gia nô, gái chân gỗ và biên tập viên Oliver rảo bước trên lối đi lót ván gỗ, trên mặt đất ướt nhẹp, qua những gian hàng bán bánh bông lan không có gluten, pin mặt trời, miếng xốp tự nhiên, các nàng tiên cá bằng sứ, chuông gió rung cùng nhịp với khí huyết của bạn, cà-ri xanh với nguyên liệu không biến đổi gien đựng trong khay bằng vật liệu tự hủy, sách điện tử và chăn Hawaii thủ công. Hershey bước đi, cố vác mặt lên trời, để tránh phải xã giao xã giết, nhưng thẳm sâu trong lòng chàng, một giọng nho nhỏ đang cất lên véo von: Họ biết ngươi đấy, họ nhận ra cả đấy, giờ lại vác mặt về đây, mà thực ra có bỏ đi bao giờ đâu… Khi đến bàn ký ở lều bán sách, cả bốn người dừng lại, kinh ngạc. “Lạy Chúa tôi, Crispin,” biên tập viên Oliver thốt lên, đập lưng tôi.
Tên gia nô cảm thán, “Đến Tony Blair cũng không được thế này.”
Gái chân gỗ lên tiếng, “Ôi, tuyệt vời ông mặt giời.”
Dân tình đứng chen chúc, mấy tay vệ sĩ phải dọn đường, thu vén thành một hàng vòng vèo như rắn, toàn fan ruột của Crispin Hershey. Nhìn đây, Richard Cheeseman, thấy chưa, cho ngươi mở mắt ra! Đến cuối tuần người ta sẽ tái bản Tiếng Vọng Phải Chết và tiền sẽ bay vèo vèo vào nhà Hershey! Tôi hiên ngang đến bàn, ngồi xuống, nốc cạn ly vang trắng tên gia nô vừa mang đến, rút cây bút Sharpe như rút kiếm…
…và nhận ra những người này không phải đến đây vì tôi, thật hết đường khốn, mà là vì một phụ nữ đang ngồi ở bàn cách đó mười bước. Hàng độc giả của tôi chỉ độ mười lăm người. Hoặc mười người. Rơi rụng, chứ có đâu mà rộn ràng. Biên tập viên Oliver tái mét, sắc diện như thịt gà ôi, vậy là tôi cau có nhìn gái chân gỗ, đòi giải thích. “Đó… ừm… là Holly Sykes.”
Oliver tươi tỉnh trở lại. “Holly Sykes đó sao? Lạy Chúa.”
Tôi rền, “Thế cái cô Holey Spikes này ở đâu ra thế?”
“Holly Sykes chứ,” Gái chân gỗ lên tiếng, vẫn ngơ ngác ngờ ngạc. “Bà ấy viết một cuốn tự truyện tâm linh, tựa là Người Trên Đài. Trên chương trình thực tế Tôi là người nổi tiếng… Cho tôi ra khỏi đây! người ta quay được cảnh nghệ sĩ Prudence Hanson đang đọc cuốn đấy, vậy là doanh số sách tăng chóng mặt. Giám đốc Lễ hội Hay-on-Wye dàn xếp được một sô ở phút cuối cho bà ấy, khán phòng Ngân hàng FutureNow cháy vé trong vòng bốn mươi phút.”
“Hay gớm, đúng là Nhạc hội Woodstock của Trí tuệ đỉnh cao, nhỉ.” Tôi soi người đàn bà tên Sykes: gầy guộc, thật thà, đã có nếp nhăn; chừng bốn lăm, tóc đen ngả bạc. Cô ta có vẻ tử tế với đám độc giả: mỗi người được thêm một lời đề tặng, chứng tỏ vẫn chưa ký bao nhiêu sách. Ghen tị? Không. Nếu cô ta tin vào mấy trò ngoại cảm ngoại kiếc thì rõ là đồ ngốc nghếch mù quáng. Còn nếu bịa ra toàn tập, thì khác gì giống lang băm bịp bợm. Việc quái gì phải ghen?
Gái chân gỗ hỏi tôi đã sẵn sàng ký sách chưa. Tôi gật đầu. Tên gia nô hỏi tôi có muốn thêm đồ uống không. “Không,” tôi đáp. Tôi sẽ không ở đây lâu. Khách hàng đầu tiên tiến đến. Hắn ta mặc complet màu nâu nhàu nhĩ, chắc là của ông cụ quá cố để lại, hàm răng ngả vàng như đường cháy. “Tôi hâm mộ ông cực kỳ, cực kỳ, cực kỳ luôn đấy, thưa ông Hershey, thân mẫu quá cố của tôi…”
Giết tôi đi. “Cho một ly G&T”, tôi gọi gia nô. “G nhiều hơn T.”
Khách hàng cuối cùng, một mụ Volumnia, đến từ Coventry, chưa gì đã đại diện cho câu lạc bộ đọc sách ở quê nhà phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Khỉ Đỏ, rằng các mụ “cũng thích đó” nhưng thấy tôi lặp hơi nhiều các tính từ “chết tiệt” với cả “khốn nạn”. Độc giả thân mến, Hershey không lỡ một nhịp, đáp luôn: “Vậy tại sao lại đi đọc cuốn sách chết tiệt ấy làm gì cho khốn nạn ra?” Một bộ ba dân buôn sách xuất hiện, nài tôi ký nguyên một chồng Phôi thai tan tác, bản in lần đầu, để mà tăng giá mỗi cuốn lên năm trăm bảng. Tôi hỏi, “Vậy tại sao tôi phải ký?” Một tay kể lể dài dòng rằng đã lặn lội lái xe tận dưới Exeter lên, “Nhứt là, nói thiệt lòng nghe bồ tèo, ký cái này có tốn của bồ cái gì đâu,” vậy là tôi nói nếu hắn chịu chia đôi lời lãi, thì xong ngay. Được không, hả bồ tèo. Hắn biến ngay, thôi ầu ơ nghèo khổ. Tiếp theo chương trình là tiệc chiêu đãi đêm đầu tiên tại lán của BritFone, nơi tôi phải đem thân hầu chuyện Ngài Roger Brittan và Phu nhân Suze Brittan. Tôi đứng dậy, tự dưng cảm giác… như có chấm đèn đỏ của một tay súng bắn tỉa đang rọi trên trán. Ai thế? Tôi nhìn quanh, thấy Holly Sykes đang nhìn mình. Chắc cô ta đang tò mò về cánh nhà văn thứ thiệt. Tôi búng ngón tay về phía gái chân gỗ. “Tôi là người nổi tiếng. Cho tôi ra khỏi đây.”
Trên đường đến lán BritFone, cả đám đi qua lán dành cho dân hút thuốc, nhà tài trợ là Win2Win: nhà môi giới hàng đầu ở châu Âu chuyên cung cấp nội tạng có nguồn gốc đảm bảo về mặt đạo đức cho các ca ghép tạng. Tôi nói với đám tôi tớ cứ đi trước, tôi sẽ theo sau, và mặc dù biên tập viên Oliver ngỏ lời muốn đi cùng, tôi phải cảnh báo hắn rằng vào đấy mà không châm thuốc thì người ta phạt hai trăm bảng, hắn hiểu ý nên thôi. Gái chân gỗ lúng búng nhắc tôi nhớ đeo thẻ để lát vào. Tôi rút miếng nhựa ra, tôi cóc thèm đeo cái của này quanh cổ. “Nếu có lạc,” tôi nói với gái, “tôi sẽ lần theo tiếng dao đâm vào xương sống.” Bên trong lán Win2Win, các tín đồ Đạo Nicotine đang ngồi trên ghế băng tán chuyện, đọc sách hay chong mắt trơ trơ nhìn vào điện thoại thông minh, ngón tay loay hoay. Đâu còn nữa cái thời người ta đường hoàng hút thuốc trong rạp, trên tàu xe; thời mà người ta nhận diện sao Hollywood qua điếu thuốc trên môi. Ngày nay đến cả nhân vật phản diện cũng không hút. Ngày nay hút thuốc thực sự là một động thái nổi loạn - gần như là phi pháp! Nhưng ta là gì nếu không có đam mê nghiện ngập? Nhạt toẹt. Vô vị. Vô nghề ngỗng! Ông cụ nghiện cái không khí tất bật nơi phim trường. Zoë nghiện các thể loại mốt ăn kiêng, nghiện so sánh khập khiễng London và Montreal, rồi nghiện theo dõi Juno và Anaïs có nạp đủ vitamin không.
Tôi châm thuốc, hun khói đầy túi phổi và nghĩ những ý nghĩ u ám về Richard Cheeseman. Phải có người làm cho hắn thân bại danh liệt; hết đường kiếm cơm, để xem lúc đó hắn có nhún vai mà huênh hoang “Làm sao phá nổi đến bữa trưa của tôi” nữa không. Khi dụi tắt thuốc, tôi tưởng tượng đang dụi vào con mắt ngớ ngẩn của hắn.
“Ông Hershey?” Một thằng nhóc mập mạp mang kính, mặc áo khoác Burberry màu nâu cắt ngang cơn mộng trả thù của tôi. Đầu nó cạo trọc, hơi phục phịch, trông như Piggy trong truyện Chúa ruồi.
“Giờ ký sách đã hết. Năm năm nữa tôi mới trở lại đây.”
“Không, tôi muốn đưa cho ông một cuốn sách kia.” Thằng nhóc hóa ra là một con nhóc, giọng Mỹ mềm mại. Nhóc này người lai Á- Mỹ, hoặc Á - Á - Mỹ.
“Còn tôi muốn hút thuốc. Mấy năm rồi mệt lắm.”
Vẫn không hiểu ý, nó rút ra một tập sách mỏng. “Thơ của tôi.” Một cuốn thơ tự xuất bản, rõ thế. “Thực nhục Tâm hồn, bởi Soleil Moore.”
“Tôi không có thói quen duyệt bản thảo không công.”
“Nhân loại cầu xin nơi ông một ngoại lệ.”
“Làm ơn đừng nghĩ tôi bất nhã, cô Moore à, nhưng tôi thà tự lấy tủy răng, thà thức dậy cạnh Aphra Booth trong chuồng nhân giống của bọn ngoài hành tinh, thà ăn sáu viên đạn vào đầu, còn hơn là phải đọc thơ của cô. Cô hiểu chứ?”
Soleil Moore tiếp tục thể hiện rằng mình vừa “ở trển” xuống, vẫn giữ bình tĩnh. “Thời xưa người ta cũng từ chối William Blake.”
“William Blake hay ở chỗ ông ấy là William Blake.”
“Ông Hershey, nếu ông không đọc cuốn này và có hành động đáp lại, ông sẽ thành đồng phạm diệt chủng.” Nó đặt Thực nhục Tâm hồn cạnh gạt tàn thuốc, đợi tôi hỏi xem mấy chữ bịa đặt đó có nghĩa là gì. “Ông có trong Kịch Bản,” nó nói tiếp, như thể đã giải thích xong, trước khi lủi đi, như thể nó vừa văng một câu chí mạng. Tôi phì phập thêm vài hơi, nghe lỏm câu chuyện gần đó: “Cô ta gọi ‘Hershey’ mà; tớ nghĩ là ông ấy đấy”; “Không có đâu, Crispin Hershey gì mà già thế”; “Hỏi ông ấy đi,”; “Thôi, cậu hỏi đi.” Danh tính bại lộ, tôi vò nát cái que chết chóc rồi trốn khỏi vườn địa đàng khói thuốc.
Lán BritFone được thiết kế bởi một tay kiến trúc sư nổi tiếng tôi chưa từng nghe tên, có “trích dẫn” Bức tường Hadrian, Tháp London, một dinh thự kiểu Tudor, nhà cửa xã hội thời hậu chiến, sân vận động Wembley và một tòa nhà chọc trời ở Docklands. Đúng là một mớ hổ lốn hổ láo. Lá cờ ảnh nổi in hình logo của BritNet đang tung bay trên đỉnh, lối vào lán là cánh cửa bản sao to gấp đôi của cánh cửa đen nổi tiếng ở số 10 phố Downing. Dàn nhân viên bảo vệ mặc đồ như lính Beefeater canh tháp London, một tên hỏi thẻ VIP tôi đâu. Tôi lục áo vét; quần; rồi lại áo vét. “Ôi, chết thật, tôi để quên đâu rồi - nhưng tôi là Crispin Hershey.”
“Xin lỗi ông,” tên lính canh đáp. “Không thẻ, không cho vào.”
“Xem lại danh sách đi. Crispin Hershey. Nhà văn.”
Tên lính canh lắc đầu. “Tôi có lệnh như thế.”
“Nhưng tôi mới lên sự kiện ở tại chính đây, chỉ một tiếng đồng hồ trước.”
Tên lính canh thứ hai tiến đến, mắt sáng rỡ như mèo thấy mỡ: “Đừng nói… ông là… thật thế sao? Ôi lạy Chúa, ông là…”
“Đúng thế.” Tôi lườm tên đầu tiên. “Cảm ơn anh.”
Tên Lính canh Chân chính dẫn tôi bước qua sảnh nhỏ, nơi những kẻ người trần mắt thịt xoàng xĩnh đang bị rà người và soát túi. “Vô cùng xin lỗi ông. Tối nay có tổng thống Afghan nên an ninh được siết chặt. Đồng nghiệp của tôi lại không được au fait với tiểu thuyết đương đại cho lắm. Với cả, nói thực lòng, ông trông trẻ hơn trên hình nhiều.”
Tôi dò đi dò lại câu nói êm tai ấy. “Thế sao?”
“Nếu tôi không phải là fan, thưa ông, tôi cũng không nhận ra đâu.” Cả hai bước vào trong lán, cả trăm người đang mải giao lưu giao luyến, nhưng tên Lính canh Chân chính muốn nài tôi một việc: “Thưa ông, thực tình tôi không nên nhờ, nhưng…” gã rút ra một cuốn sách từ trong bộ đồng phục ngớ ngẩn… “cuốn sách mới của ông hay nhất từ xưa đến giờ. Tôi định đọc trước khi đi ngủ, thế rồi đọc thâu đêm đến sáng luôn. Mẹ vợ tương lai của tôi cũng là fan ruột, thế nên, ông cho tôi thêm vài điểm cộng tiền hôn nhân nhé, ông không phiền chứ?”
Tôi rút cây viết máy ra, tên lính canh đưa cuốn sách, mở sẵn ở trang in tựa. Chỉ đến khi mũi viết chạm giấy tôi mới nhận ra tôi đang ký một cuốn tiểu thuyết có tựa Bí mật giữ kín của Jeffrey Archer. Tôi ngước nhìn tên lính canh, xem phải hắn đang giở trò đểu chăng, nhưng không: “Nhờ ông viết thêm, ‘Gởi Bridie nhân dịp sinh nhật lần sáu mươi’, Ngài Archer nhé?”
Một nhà báo nổi tiếng ở tờ The Times đang đứng cách đó ba bước.
Viết xong đề tặng, tôi nói với tên gác cổng, “Rất mừng là anh thích cuốn sách.”
Bên trong lán nhung nhúc những ông nọ bà kia, toàn các sao sáng, đến là choáng hết cả váng: tôi nhận ra hai thành viên của Rolling Stones, một diễn viên đóng phim Monty Python; một gã choai choai mặc dù đã ngũ tuần hay dẫn chương trình Top Gear, gã đang bỡn cợt với một tay đua xe đạp tai tiếng người Mỹ; một cựu ngoại trưởng Mỹ; một cựu bầu bóng đá, cứ năm năm ra một cuốn hồi kí; một cựu trùm tình báo MI6 mỗi năm ra một cuốn trinh thám hạng ba; và một nhà thiên văn dẫn chương trình truyền hình với cặp môi mọng, tay này ít ra cũng còn viết về thiên văn. Tất cả đều đến đầy với cùng một lý do: bán sách, càng nhiều càng tốt. “Ái chà chà, thật là hiếm có,” một lão già khú đế rù rì vào tai tôi ở bar champagne. “Một người viết văn ở một lễ hội văn chương. Dạo này sao rồi, Crispin?”
Kẻ lạ mặt hút lấy cái nhìn thiêu đốt của Crispin như một gã trai tráng chẳng biết sợ gì (nếu bỏ qua những tổn thất mà Thời gian - Kẻ phá hủy đã để lại trên gương mặt). Cằm nhọn, mũi hỉnh, da xề xệ, mí mắt rù rũ. Một chiếc mùi soa lụa ló ra từ túi áo vét của lão, còn đội mũ phớt khá là nhã, nhưng chẳng ăn thua. Những kẻ tuổi tác, già cả vô phương sống thế quái nào được nhỉ? “Còn ông là?”
“Tôi là tương lai gần của cậu, con trai à.” Lão lắc lư bộ mặt một thời xinh giai. “Nhìn đi, thật lâu thật kỹ vào. Anh nghĩ sao?”
Tôi nghĩ sao ư, tôi nghĩ đêm nay đúng là Đêm của bọn Động Rồ. “Tôi nghĩ rằng tôi không thích trò ô chữ bí mật.”
“Không thích sao? Tôi thì lại thích. Tôi là Levon Frankland.”
Tôi đón lấy ly champagne, làm mặt lạnh. “Thực lòng, tôi vẫn không nhớ gì cả.”
“Tôi là bạn cũ của ông cụ anh. Bạn cùng thời ở câu lạc bộ Finisterre ở Soho.”
Tôi giữ mặt lạnh. “Tôi có nghe nói chỗ đó cuối cùng đã đóng cửa.”
“Kết cục cuối cùng của một thời đại. Thời đại của tôi. Ta đã gặp,” Levon Frankland nghiêng ly rượu về phía tôi, “ở tiệc tại nhà anh dưới Pembridge Place hồi… à… năm sáu tám, sáu chín gì đó, thời đi đâu cũng nghe bài Gethsemane. Tôi thì mâm nào cũng chọc vào, có cả bầu sô, ông cụ anh khi đấy đang mong một ban chơi avant-folk mà tôi đại diện sẽ làm nhạc cho phim Con đường hẹp về phương Bắc xa. Rốt cuộc chẳng đi tới đâu, nhưng tôi còn nhớ anh, khi đó anh mặc đồ hóa trang cao bồi. Ngày ấy anh vẫn còn chưa tự chủ được tiêu tiểu, nói gì đến trò chuyện xã giao. Nhưng tôi vẫn dõi theo sự nghiệp của anh như con cháu mình, tôi đã say sưa đọc hồi ký của anh, nhất là phần viết về ông cụ. Anh có biết không, cứ vài tháng, tôi lại chợt muốn gọi điện cho cụ để hẹn ăn trưa? Tôi quên phức là cụ đã đi rồi! Tôi nhớ cụ lắm, một kẻ ngược đời. Cụ hãnh diện về anh lắm, cực kỳ hãnh diện.”
“Vậy sao? Vậy thì cụ giấu kỹ thật.”
“Anthony Hershey là một gã người Anh trung-thượng lưu sinh ra sau Thế chiến. Thời đó những kẻ làm cha không thể bày tỏ cảm xúc. Sau thập niên sáu mươi thì mọi thứ có thả lỏng hơn, phim của Tony cũng góp phần làm việc ấy, nhưng với một số người thì giang sơn dễ đổi… Crispin, đừng hận nữa. Làm sao mà hận được hồn ma. Họ có nghe được ta đâu. Cuối cùng ta lại hận chính mình thôi. Tin tôi đi. Tôi biết mình đang nói gì.”
Một bàn tay chụp lấy vai tôi. Tôi quay lại, thấy Hal Linh cẩu mỉm cười, mặt đểu như chồn. “Crispin! Ký sách khi nãy vui không?”
“Vui muốn chết. Nhưng để tôi giới…” Khi tôi quay lại với Levon Frankland, lão đã biến đi tự lúc nào. “Ừ, ký cọt cũng được. Mặc dù có đến nửa triệu đàn bà đứng chực chờ một con mụ chuyên viết truyện thiên thần vớ vẩn.”
“Ngay ở đây tôi cũng đếm được đến hai mươi nhà xuất bản vẫn còn tiếc hùi hụi là đã không xí lấy Holly Sykes. Mà thôi, Ngài Roger và phu nhân Suze Brittan đang đợi Kẻ Nổi Loạn trên Văn đàn Anh quốc.”
Tự dưng tôi nẫu hết cả mề. “Có cần phải thế không, Hal?”
Cái mỉm cười của linh cẩu lụi dần. “Vòng loại giải Brittan.”
Ngài Roger Brittan: xuất thân buôn xe; chủ chuỗi khách sạn giá rẻ thời những năm 70; nhà sáng lập công ty Brittan Computers năm 1983, một thời (ngắn ngủi) là nhà sản xuất máy đánh chữ rởm hàng đầu Anh quốc; giành được giấy phép kinh doanh di động sau khi chịu chi cho thắng lợi áp đảo của Đảng Lao động kiểu mới năm 1997, cũng là người khởi xướng mạng viễn thông BritFone gần như vẫn còn mang tên Ngài. Kể từ năm 2004 Ngài được hàng triệu khán giả biết đến qua Đuổi thẳng cổ!, một chương trình truyền hình thực tế về kinh doanh, nơi một đám thiếu i-ốt tranh nhau muối mặt để giành “giải thưởng” - vị trí lương 100 nghìn bản một năm trong đế chế kinh doanh của Ngài Brittan. Năm ngoái Ngài khiến cả giới nghệ thuật sốc sau khi mua trọn giải văn chương hàng đầu của Anh quốc, đặt tên lại theo tên Ngài và tăng gấp ba tiền thưởng, lên 150 nghìn bảng. Dân mạng kháo rằng chính tân phu nhân đứng sau phụ này. Suze Brittan, vợ mới nhất của Ngài, từng có lúc làm ngôi sao phim bộ và gương mặt của sô truyền hình Những cuốn không thể đặt xuống. Giờ đây phu nhân là chủ tịch hội đồng chấm giải Brittan, bao gồm các giám khảo công minh tuyệt đối. Đến góc lán có phủ trướng, tôi và linh cẩu thấy Ngài Roger và Phu nhân Suze đang nói chuyện với Nick Greek: “Tôi hiểu ý ngài về cuốn Lò mổ - Tập Năm, thưa Ngài Brittan.” Nick Greek có cái vẻ tự tin rất Mỹ, lại đẹp mã gợi tình kiểu thơ ca Byron, tôi chưa gì đã thấy ghét. “Nhưng nếu bị dí súng vào đầu bắt chọn ra cuốn tiểu thuyết chiến tranh tiêu biểu của thế kỷ hai mươi, tôi sẽ chọn tác phẩm Kẻ Trần Truồng và Người Chết của Mailer. Nó…”
“Tôi biết là anh sẽ nói thế mà” Suze Brittan làm bộ nhún nhảy đắc thắng. “Tôi yêu cuốn đấy cực. Cuốn tiểu thuyết chiến tranh duy nhất thực sự ‘hiểu’ được thế trận chiến hào từ quan điểm của người Đức.”
“Tôi nghĩ, thưa phu nhân Suze,” Nick Greek dè dặt lựa lời, “phải chăng phu nhân đang nghĩ đến cuốn Phía Tây không có gì lạ…”
“Quan điểm gì của người Đức mới được chứ?” Ngài Roger Brittan hậm hực. “Trừ vụ ‘Ba mươi năm mà sai mẹ nó mất hai lần’?”
Suze móc ngón tay nhỏ xíu qua chuỗi ngọc trai đen. “Chính vì vậy mà Kẻ Trần Truồng và Người Chết mới thật quan trọng, Rog à… dân thường ở phía địch cũng đau khổ. Phải thế không, Nick?”
“Đặt ta vào vị trí của người cũng chính là thế mạnh chủ đạo của tác phẩm, thưa phu nhân Suze,” tay người Mỹ tế nhị đáp.
“Nhưng chẳng biết tiếp thị thương hiệu gì cả,” Ngài Roger nói. “Kẻ Trần Truồng và Người Chết? Nghe cứ như sách hướng dẫn cho bọn ái tử thi.” Linh cẩu Hal bước vào. “Ngài Roger, Phu nhân Suze, Nick. Có lẽ không cần giới thiệu, nhưng trước khi Crispin ra về…”
“Crispin Hershey!” Phu nhân Suze đưa cả hai tay lên trời, như thể tôi là thần mặt trời Ra. “Tiết mục của anh thật là tuyệt vời ông mặt giời! Như thời nay người ta vẫn nói.”
Tôi cố lắm mới nhếch nổi khóe miệng. “Cảm ơn bà.”
“Rất hân hạnh,” Nick Greek la liếm đến gần. “Ở Brooklyn có đến một lớp nhà văn, chúng tôi phải nói là sùng bái Phôi Thai Tan Tác.”
“Phải nói là”? “Sùng bái”? Tôi phải bắt tay Nick Greek, tự hỏi lời khen của hắn phải chăng là một câu lăng mạ được ngụy trang kỹ, kiểu như “Sau Phôi Thai ông cóc viết được gì cho hồn.” - hay lại là khúc dạo đầu, để xin tôi viết lời khen - “Crispin thân mến, năm rồi gặp ông ở Hay thật tuyệt, ông cho vài dòng khen sách mới của tôi nhé?”
“Đừng để tôi cắt ngang chứ,” tôi nói với bộ ba, “thật là những cái nhìn sâu sắc về Norman Mailer.” Tôi đá thêm một quả về phía gã trai trẻ liều lĩnh: “Mặc dù nếu phải cược, tôi cho rằng tác phẩm về chiến tranh được viết từ kinh nghiệm trực tiếp hay nhất phải là cuốn Huy hiệu Quả cảm màu đỏ của Crane.”
“Tôi chưa đọc cuốn đó,” Nick Greek thú thật, “bởi vì…”
“Sách thì nhiều mà thời giờ thì ít, tôi biết mà,” tôi nốc cạn ly vang đỏ to tướng mà bọn gia nô đã đặt vào tay, “nhưng không ai qua nổi Crane.”
“…bởi vì Stephen Crane sinh năm 1871,” Nick Greek phản đòn, “sau khi Nội Chiến kết thúc. Vậy nên không thể viết từ kinh nghiệm trực tiếp được. Nhưng nếu Crispin Hershey đã có lời,” hắn ta rút ra một cái máy đọc, “tôi sẽ tải xuống ngay lập tức.”
Món thịt muối bữa trưa tự dưng muốn trào ngược ra. “Tiểu thuyết của Nick,” Suze Brittan nói, “lấy bối cảnh là chiến tranh Afghanistan. Richard Cheeseman khen lấy khen để, anh ấy sẽ phỏng vấn Nick trên chương trình của tôi tuần tới.”
“Thế à? Tôi sẽ dán mắt vào tivi. Thực ra tôi cũng đã nghe đến. Tựa gì nhỉ? Xa lộ 66?”
“Đường 605.” Đầu ngón tay của Nick Greek nhảy múa trên màn hình. “Đặt theo tên của xa lộ ở Tỉnh Helmand.”
“Vậy tư liệu của anh có trực tiếp hơn của Stephen Crane không?”
Rõ là không rồi: trải nghiệm gần nhất với chiến tranh của anh chàng ốm yếu này cùng lắm là trò nhận xét qua lại trong khóa thạc sĩ viết văn. “Đương nhiên là trừ khi kiếp trước anh là lính thủy đánh bộ biết chữ?”
“Không, nhưng nói thế về anh trai của tôi cũng đúng đấy. Không có anh Kyle thì không có Đường 605.”
Tôi để ý thấy một đám đông nho nhỏ đang quan sát cả bọn, tập trung như khán giả quần vợt. “Tôi hi vọng là anh không thấy quá mắc nợ anh trai, hoặc anh ấy không thấy đã bị anh lợi dụng.”
“Kyle hi sinh hai năm trước.” Nick Greek vẫn bình tĩnh. “Trên Đường 605, trong khi đang tháo mìn. Tiểu thuyết của tôi cũng là một cách tưởng niệm anh ấy.”
Rõ đẹp mặt. Tại sao Gái Chân gỗ không hề dặn trước tôi rằng Nick Greek còn là thánh sống nữa? Phu nhân Suze mặt mày kinh tởm, như thể một con chó Corgi vừa ị tôi ra, trong khi đó Ngài Roger siết chặt lên bắp tay Nick Greek, như một người cha: “Nick, con trai à, tôi không thân quen với cậu, Afghanistan đúng là vụ bê bối vô đối. Nhưng anh trai của cậu hẳn rất tự hào vì cậu - mà tôi biết mình đang nói gì, bởi tôi mất anh trai năm lên mười. Bị chết đuối ngoài biển. Suze có nói, phải không Suze?, rằng Đường 605 đúng tạng sách của tôi. Biết sao không? Cuối tuần này tôi sẽ đọc…” lão búng ngón tay về phía tên cận vệ, hắn lập tức gõ lên điện thoại thông minh “…mà Roger Brittan đã nói là làm.” Người ngợm đâu đâu kéo đến chen giữa tôi và các thánh sống - chân tôi như có bánh xe trượt ra. Gương mặt quen thuộc cuối cùng là Biên tập viên Oliver, hí hửng khi nghĩ đến biểu đồ doanh số của Đường 605 sắp đến. Tôi cần một ly, gấp.
Hershey sẽ không nôn mửa. Chẳng phải Hershey đã đi qua cánh cổng gãy này khi nãy sao? Một cái cây gồ ghề, một con suối không ngớt rầm rì, một vũng nước phản chiếu logo ảnh nổi của BritFone, mùi cứt bò chua ngoét. Hershey không say. Chỉ đẫm tửu mà thôi. Tại sao tôi ở đây? “Rõ cái đồ kiêu ngạo, mãi đút đầu vào đít đến nỗi không thấy được ánh sáng ban ngày.” Nuốt xuống nào. Cái lán ấy như một hố thẳm không đáy. Món tráng miệng trifle nhân phô mai mascarpone quả là sai lầm. “Crispin Hershey đấy sao?” Lối đi tắt xuyên qua bãi đỗ xe về lại căn phòng tiện nghi của tôi ở nhà nghỉ Coach and Horses giờ đây khiến tôi mắc kẹt vào một dải Möbius toàn những chiếc Land Rovers, Touareg và bùn lầy nhớp nha nhớp nhoét. Tôi tưởng khi nãy mình đã thấy Giám mục Desmond Tutu, rồi đi theo ông ấy để hỏi chuyện gì đó rất quan trọng, nhưng hóa ra chẳng phải ông ấy. Vậy tại sao tôi ở đây, hỡi độc giả quý mến? Bởi vì tôi phải duy trì hình ảnh trước công chúng. Bởi vì món 500 nghìn bảng tiền ứng trước của Tiếng Vọng Phải Chết mà Linh cẩu Hyena moi được đã hết sạch - một nửa vào Sở Thuế, một phần tư trả nợ mua nhà, một phần tư bù trượt giá. Bởi vì nếu không phải là nhà văn, thì tôi là cái gì? “Có gì mới chưa, anh Hershey? Vợ tôi và tôi rất mê Phôi Thai Tan Tác.” Bởi vì gã Nick Greek khốn kiếp và những mầm non văn chương, chỉ chực lăm le cái ngôi của tôi trên Văn đàn Anh ngữ. Ôi những là say xỉn tội tình đớn đau: Đỉnh Ẩu Thổ Sơn sắp tuôn trào; mau quỳ gối trước Thắt Ruột Thánh mà cùng bái vọng…