← Quay lại trang sách

11 Tháng Ba 2016

Quảng trường Aduana nhung nhúc dân thành Cartagena tay cầm iPhone đưa lên cao. Quảng trường Aduana có mái che là thứ nắng xế nhiệt đới màu nước cam Fanta trộn lẫn với thạch anh tím bóng lẫy. Quảng trường Aduana lay động theo điệp khúc rộn ràng “Cá chuồn cho bữa sáng” của Damon MacNish và ban nhạc Tàu Chìm. Đứng trên ban công, Crispin Hershey khảy tàn thuốc vào ly champagne và nhớ lại một lần vui vẻ trên nền nhạc Nàng Thổi Tắt Nến - album đầu tay của Tàu Chìm, đâu khoảng dịp sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của chàng, thời ấy chân dung Morrissey, Che Guevara và Damon MacNish ngự trị trong mọi căn phòng sinh viên. Album thứ hai của Tàu Chìm không được chào đón nồng hậu như thế - kèn túi và guitar điện kết hợp với nhau thường khiến người ta muốn khóc thét - và album hậu-hậu thì khắm vô đối. MacNish đáng ra phải quay về với sự nghiệp giao bánh pizza, nếu lão không tự dựng mình dậy với hình ảnh một ngôi sao đấu tranh cho nạn nhân AIDS, cho Sarajevo, cho người thiểu số Nepal ở Vương quốc Bhutan, hay cho bất kỳ thứ chính nghĩa nào khác, như tôi thấy. Các nguyên thủ thế giới sốt sắng dành hai phút tiếp MacNish trước ống kính máy quay. Danh hiệu người Scot Quyến rũ nhất của năm trong ba năm liên tiếp, chuỗi bạn gái thay đổi xoành xoạch trên báo lá cải, các album ra sòn sòn, tàm tạm nhưng vô vị, một nhãn hiệu áo quần đạo đức và chương trình Năm lục địa của Damon MacNish trên BBC chạy được hai mùa, cũng đủ giữ ngôi sao của lão già Glasgow thắp sáng đến thập kỷ vừa qua, và đến bây giờ “Thánh Nish” vẫn khá đắt sô ở các lễ hội, lão đến đấy ban ngày thì làm một màn hỏi đáp trơn tru, ban đêm chạy tour các bản hit cũ - với giá trọn gói nhõn 25 nghìn đô kèm vé hạng thương gia và khách sạn năm sao, như tôi biết.

Tôi đập muỗi ngay trên má. Giống mắc dịch này là cái giá ta phải trả cho thứ khí hậu ấm áp ngọt ngào. Zoë và hai con gái đáng ra cũng theo tôi đến đây - tôi còn mua sẵn vé (miễn hoàn lại) - nhưng chiến sự đã bùng nổ sau vụ chuyên gia tư vấn hôn nhân giả cầy của Zoë. 250 bảng +VAT cho một tiếng đồng hồ lảm nhảm về tôn trọng lẫn nhau?

“Không,” tôi nói với Zoë, “mà nói rồi, không tức là không.” Zoë khai hỏa bằng mọi thứ vũ khí của đàn bà.

Đúng rồi, tượng nàng tiên cá bằng sứ do chính tay tôi ném. Nhưng nếu đã nhắm vào nàng, thì nó đã chẳng trượt thế. Có nghĩa là tôi không cố ý đánh đấm gì. Zoë lúc đấy đã quá kích động, không thể hiểu nổi lý lẽ đó, đùng đùng xếp đồ vào túi Louis Vuitton và ra đi cùng với Lori, cô người giúp việc rậm lông, cả hai đến đón Anaïs và Juno ở trường rồi đến nhà bạn ở Putney. Kỳ lạ, nhà bạn đâu mà sẵn thế. Crispin đáng ra lúc đấy phải ăn năn, hứa hẹn hối cải, nhưng chàng chỉ muốn xem phim Không Chốn Dung Thân, bật âm lượng thật lớn. Ngày hôm sau tôi viết một truyện lấy bối cảnh viễn tưởng, về một đám trẻ bụi đời chuyên đi lang thang ăn cắp dầu mỏ của những mụ nạ dòng béo phị. Một trong những truyện hay nhất tôi từng viết. Zoë gọi tối hôm đó, nói rằng nàng “cần có không gian riêng - có lẽ là nửa tháng”: ngầm ý là, thưa độc giả quý mến, Nếu anh ăn năn rối rít vừa mắt tôi, tôi sẽ quay lại. Tôi gợi ý hay nàng đi một tháng luôn cho chẵn rồi đập máy. Lori mang Juno và Anaïs đến thăm Chủ nhật rồi. Tôi cứ tưởng kiểu gì cũng có màn khóc lóc, ăn vạ nọ kia, nhưng Juno kể rằng mẹ nó nói không thể sống được với tôi, còn Anaïs chỉ hỏi nếu bố mẹ ly dị thì có mua ngựa cho nó không, vì khi bố mẹ của bạn Germaine Bigham li dị bạn ấy được mua cho một con ngựa. Cả ngày hôm đó trời mưa, vậy là tôi gọi pizza đến. Ba cha con chơi Mario Karts. John Cheever có viết một truyện ngắn tựa đề “Mùa ly dị.” Một trong những truyện hay nhất của ông ấy.

“Vẫn ngon chán ha, nhiêu tuổi rồi còn gì?” Kenny Bloke mời tôi một điếu thuốc, Damon MacNish đang chơi chiêu cánh tay quạt gió, giữa bài “Váy Nhung Kẻ Là Tội Ác Chống Nhân Loại”. “Tôi có đi coi sô ở Fremantle, hồi năm… năm… tám sáu? Hết sẩy.” Kenny Bloke đã năm mấy gần sáu chục, lỗ tai xâu xỏ đủ loại sắt thép, là huynh trưởng trong tộc người Noongar, theo như tờ bướm vớ vẩn. Tôi triết rằng Damon MacNish và những kẻ cùng thời đã tự trở thành ban nhạc nhái của chính mình, thật là kỳ quái, một thứ định mệnh hậu hiện đại. Kenny Bloke gảy tàn thuốc xuống bụi cây phong lữ. “MacNish còn khá hơn nhiều so với đám kia, tôi nói thiệt. Biết ai mới diễn ở công viên Busselton không? Joan Jeff & ban Trái tim đen. Anh còn nhớ đám đó không? Chẳng rầm rộ gì, nhưng họ cũng phải sống bằng lương hưu, cũng phải đóng tiền học cho con, cũng như ai. Ít ra đám nhà văn tụi mình không phải làm trò đó, ha? Không phải đi lưu diễn ăn mày dĩ vãng.”

Tôi nghĩ ngợi về cái nhận xét không-hẳn-đúng-ấy. Tiếng Vọng Phải Chết đẩy được hai mươi nghìn bảng ở Anh, và tương đương như vậy ở Mỹ. Một con số đáng nể… tàm tạm, nhưng đối với tiểu thuyết mới của Crispin Hershey thì đáng thất vọng. Từng có thời tôi đẩy được một trăm nghìn bản ở cả hai xứ, dễ như không. Linh cẩu Hal nói chuyện sách điện tử đã thay đổi cục diện nọ kia, nhưng tôi biết chính xác tại sao cuốn tiểu thuyết “đánh dấu sự quay lại” của tôi không bán được - chính bởi trò xộ chó của Richard Cheeseman. Chỉ một bài bình sách khốn nạn đã khai hỏa cho đợt tổng xỉ vả nhắm vào Kẻ Nổi Loạn trên Văn đàn Anh quốc, và trước khi danh sách chọn lần một của giải Brittan Prize được công bố, thì Tiếng Vọng Phải Chết đã kịp được biết đến là Cuốn Bị Richard Cheeseman Đì (Vui Vãi). Tôi nhìn quanh phòng khánh tiết đằng sau lưng. Vẫn không thấy hắn đâu, nhưng hắn sẽ đến thôi, dễ gì hắn cưỡng lại được đám bồi bàn dân Mỹ Latin nước da màu cà phê này. “Hôm nay anh có đi tham quan khu phố cổ không?” Kenny Bloke hỏi. “Có, đẹp kiểu UNESCO. Hơi bị ảo.”

Gã người Australia lẩm bẩm. “Tay lái taxi của tôi kể rằng quân du kích FRAC và đám tình báo cần một chỗ để đi nghỉ, vậy là Cartagena trên thực tế thành khu phi quân sự.” Gã đón lấy điếu thuốc tôi mời.

“Đừng méc với phu nhơn, ẻm cứ tưởng tôi bỏ rồi.”

“Yên tâm đi. Làm gì có chuyện tôi được đi đến…?”

“Katanning. Tây Australia. Góc dưới bên trái. So với chỗ này…” Kenny Bloke huơ tay chỉ vào không gian Mỹ Latin hoành tráng rực rỡ phía sau “…thì chẳng là đíu gì. Nhưng ông bà tôi chôn cất đó, từ thời xa xửa xa xưa, còn tôi thì không muốn xa gốc rễ của mình.”

“Không có gốc rễ,” tôi phát biểu, “là chuyện thường ở thế kỷ hai mốt.”

“Anh nói vậy không sai, và đó cũng là lý do tại sao tình hình lại ra nỗi này. Người không thuộc về nơi nào thì làm đíu gì phải quan tâm đến bất kỳ đâu?”

Tay trống của Damon MacNish đang chơi một đoạn solo, biển người toàn thanh niên Mỹ Latin bên dưới khiến tôi thấy mình đúng là một gã da trắng tầm thường, già cỗi. Thứ Sáu, mười giờ, ở London, ngày mai không phải đi học. Juno và Anaïs tỏ ra chín chắn một cách đáng ngờ trước vụ ly thân tạm thời của tôi và Zoë. Tôi cũng đáng nhận được vài màn khóc lóc ỉ ôi chứ. Phải chăng Zoë đã chuẩn bị tinh thần cho hai đứa từ lâu, trước khi đổ bể? Lão bạn già Ewan Rice có kể với tôi mụ vợ đầu tiên của lão đã đi gặp luật sư đến sáu tháng trước khi nói ra hai tiếng ấy, nhờ đó mà ẵm trọn gói dàn xếp triệu bảng. Tôi với Zoë rạn nứt tự khi nào? Hay là từ ngay thuở ban đầu, tiềm ẩn như tế bào ung thư, trên du thuyền của ông già Zoë, ánh nắng vùng biển Aegea vờn trên nóc cabin, một vỏ chai rượu khẽ khàng lăn lóc trên sàn cabin, đòng đưa à ơi? Hai người khi đó đang ăn mừng tin nhắn của Linh cẩu Hal, báo rằng đấu giá bản quyền của Phôi Thai Tan Tác đã lên mức 750 nghìn bảng và vẫn tiếp tục lên tiếp. Zoë nói, “Đừng hoảng, Crisp, nhưng em muốn sống trọn đời với anh.” Đòng đưa à ơi… À ơ đòng đưa…

“Nhảy xuống biển mà bơi đi ngay!” Tôi muốn hét vào mặt tay Romeo khờ khạo ấy. Nhoáng cái, nàng muốn “học” tiến sĩ qua mạng ngành chữa bệnh bằng tinh thể và mắng ngươi là đồ hẹp hòi nếu ngươi dám tự hỏi thành tiếng, rằng nền tảng khoa học của cái ngành đấy ở chỗ nào. Nàng sẽ thôi chào ngươi ở lối sảnh khi ngươi về đến nhà. Khả năng đổ tội của nàng sẽ khiến ngươi sững hết cả sờ, hỡi Romeo trẻ người non dạ kia. Nếu người giúp việc lười biếng, ấy lỗi tại ngươi vì ngươi không cho nàng thuê ả Ba Lan tung tích không rõ ràng. Nếu giáo viên dạy piano quá nghiêm khắc, ấy là do ngươi không chịu tìm một người hiền lành hơn. Nếu Zoë bất mãn, ấy là do ngươi đã tước mất động lực tìm việc làm của nàng. Còn vụ kia? Hà. “Đừng có ép em, Crispin.”

“Anh đâu có ép, Zoë, anh chỉ hỏi khi nào thôi?”

“Từ từ.”

“Từ từ là khi nào?”

“Đừng ép mà, Crispin!” Đàn ông cưới vợ, hi vọng cô ta sẽ không thay đổi. Đàn bà cưới chồng, hi vọng anh ta sẽ thay đổi. Cả hai đều thất vọng, và trong khi đó, Romeo trên du thuyền hôn người-yêu-sắp-thành-hôn-thê và thì thầm, “Cưới nhau nhé, cô Legrange.”

Đoạn solo trống chấm dứt và Damon MacNish đi ra phía mic, đọc “Mốt… hài… ba… năm” và ban nhạc Tàu Chìm bắt đầu đánh bản “Sàn Nhảy Trên Bãi Mìn.” Tôi thả điếu thuốc xuống một hồ xăng tưởng tượng, biến quảng trường thành một ngày tận thế Huuuuýt… k’bammm!

Ommmmm…

Tôi nhận ra một giọng nói rất quen, chỉ cách vài bước.

“Vậy là tôi nói với lão,” Richard Cheeseman đang mở miệng, “À không, Hillary à… Tôi không có bản lời nhạc kịch nào sẵn cho ông xem cả, bởi vì những thứ khắm tôi viết, tôi đều giật nước cho trôi hết” Đầu hói, chừng bốn lăm, đẫy người, rậm râu. Hershey chen qua biển người và đặt tay lên vai nhà phê bình, như người ta khóa bánh xe đậu trái phép. “Richard Cheeseman, sờ sờ trước mắt tôi đây, gã già dịch râu ria! Anh khỏe không?”

Cheeseman nhận ra tôi, đánh đổ cocktail.

“Trời đất,” tôi thốt, “Đổ lên cả đôi giày vía tim tím rồi.”

Cheeseman mỉm cười, như một người sắp bị tháo hàm ra khỏi sọ, tôi cũng hay mơ được làm thế với hắn. “Crisp!”

Đừng có mà “Crisp” với tao, đồ sâu mọt khốn nạn. “Dao găm xiên tiểu não đã bị tịch thu ở Heathrow, nên anh yên tâm.” Cánh văn chương đổ về phía cả hai, như cá mập vây quanh con tàu đang chìm. “Nhưng úi giời,” tôi rút khăn mùi soa chặm lên cánh tay Cheeseman, “Chẳng phải anh đã cho tôi một quả bình sách đến là khốn đốn đó sao?”

Cheeseman gầm ghè sau nụ cười nhăn nhở. “Thế sao?” Hai tay hắn đưa lên, như làm trò đầu hàng. “Thật thế sao? Những gì tôi viết, hay một đứa thực tập nào viết bừa ra, tôi không nhớ nữa… nhưng nếu có gì phạm đến anh - bất cứ điều gì… Tôi thành thật xin lỗi.”

Tôi có thể dừng lại ngay đó, nhưng Định Mệnh đòi hỏi một cuộc báo thù hoành tráng hơn, tôi là ai mà đòi từ chối Định Mệnh chứ? Tôi nói với đám đông hiếu kỳ. “Để tôi nói thẳng luôn. Khi bài bình sách của Richard cho cuốn Tiếng Vọng Phải Chết xuất hiện, nhiều người có hỏi tôi, ‘Anh thấy sao khi đọc bài đó?’ Trong một thời gian khá lâu, câu trả lời của tôi là ‘Thế anh thấy sao khi bị tạt acid vào mặt?’ Thế rồi, tôi bắt đầu suy nghĩ về động cơ của Richard. Với một nhà văn kém hơn, ta có thể nghĩ đến thói tị hiềm, nhưng bản thân Richard cũng là một tiểu thuyết gia đang nổi, làm sao có chuyện ác ý nhỏ mọn đến thế. Không. Tôi thực tin rằng Richard Cheeseman quan tâm sâu sắc đến văn chương, và tự thấy có trách nhiệm nói ra sự thật như anh ấy thấy. Vậy nên các người biết sao không? Hoan hô Richard. Anh ấy đã hiểu nhầm sách của tôi, nhưng con người này…” một lần nữa, tôi nắm lấy vai hắn dưới làn áo sơ mi xếp nếp, “…chính là một thành trì chống lại trào lưu la liếm bợ đỡ đang lên, mà người ta cứ nhầm tưởng là phê bình văn học. Hãy nhớ rằng tôi không hề oán anh ấy một tí nào cả - miễn là anh ấy mang về cho cả hai mỗi người một ly mojito thật tướng, ngay và luôn, đồ nhà báo cà chớn cà chán!.”

Mỉm cười! Vỗ tay! Cheeseman và tôi bỗ bã bắt tay rồi đập tay. “Nhưng anh cũng có vừa gì, Crisp,” trán hắn đẫm mồ hôi sáng bóng, “cái câu bà tiên ganh ghét ở Hay-on-Wye ấy… nhưng thôi, tôi sẽ đi lấy mojito.”

“Tôi sẽ chờ trên ban công,” tôi đáp, “trên đấy mát hơn tí.” Rồi đám lâu la bao quanh tôi, toàn những kẻ vô danh tiểu tốt mơ tưởng rằng tôi chịu nhớ tên tuổi mặt mũi chúng. Chúng khen tôi đã thật công bình cao thượng. Tôi đáp lại, một cách cao thượng và công bình. Sự từ bi quảng đại của Crispin Hershey sẽ được lên sóng, được tweet đi tweet lại và sẽ trở thành sự thật. Từ phía bên kia quảng trường, qua cánh cửa ban công, cả đám nghe Damon MacNish gào lên: “Te amo, Cartagena!”

Sau màn chào cuối cùng, khách VIP và nhà văn được đưa đến biệt thự của tổng thống bằng một đoàn chừng hai mươi xe limousine hai cầu chống bom. Cảnh sát hụ còi xua đi đám dân đen và đèn giao thông bị lờ đi khi đoàn lướt qua Cartagena trong đêm. Đi cùng với tôi là một nhà viết kịch người Bhutan không nói được tiếng Anh và hai nhà làm phim người Bulgaria, hình như đang đọc vè tục tĩu trêu nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Qua cửa kính mờ của chiếc limousine tôi thấy một phiên chợ đêm, một trạm xe buýt vô tổ chức, những khu chung cư loang lổ mồ hôi, những quán cà phê vỉa hè, những người bán thuốc lá rong buộc khay thuốc trước thân mình rắn rỏi. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu dường như không độ lượng với các chủ nhân của những gương mặt lặng lẽ ấy. Tôi tự hỏi những người dân lao động Colombia nghĩ gì về chúng tôi? Họ ngủ ở đâu, ăn gì, nằm mơ thấy gì? Mỗi chiếc limousine bọc sắt sản xuất ở Mỹ này hẳn phải có giá hơn cả số tiền họ kiếm được cả đời. Tôi chịu. Nếu một gã nhà văn người Anh thấp tướng, ục ịch, bốn mấy gần năm chục tuổi bị ném vào một khu như thế, gã hẳn không có cơ sống sót.

Biệt thự tổng thống nằm sau một trường võ bị, an ninh vô cùng nghiêm ngặt. Tiệc được tổ chức ngoài trời, trong những khu vườn tinh tế chiếu đèn pha, đồ uống và món bánh nhắm vol-au-vent được luân chuyển bởi đội nhân viên mặc đồng phục thẳng thớm tinh tươm, có một ban nhạc jazz đang chơi Stan Getz. Bể bơi được thắp sáng bằng nến, tôi không thể nhìn mà không tưởng tượng ra hình ảnh một chính trị gia bị ám sát úp mặt nổi lềnh bềnh trên đó. Mấy viên đại sứ đang tiếp khách thành từng cụm nhỏ, khiến tôi nghĩ đến trẻ con kết bè kết đảng trong sân chơi. Đại sứ Anh cũng đang ở đâu quanh đây. Tay này trẻ hơn tôi. Ngày nay Bộ Ngoại Giao tuyển người trên thực lực, nên các nhà ngoại giao của ta đã mất đi cái vẻ hào nhoáng kiểu Graham Green, cũng có nghĩa là không có ích gì khi đưa vào tiểu thuyết. Quang cảnh bên kia vịnh thật ấn tượng, dãy nhà rẻ tiền ven bờ biển Nam Mỹ bị màn đêm xóa đi, một mặt trăng tuyệt mỹ trôi bềnh bồng trên Dải Ngân Hà đượm sao, trông dễ liên tưởng đến tinh trùng. Ngài tổng thống còn đang ở Washington cố kêu gọi thêm đô la Mỹ cho “Cuộc chiến chống Ma túy”- vẫn cần thêm một nỗ lực nữa! - nhưng phu nhân cựu sinh viên Harvard và mấy cậu quý tử đã chỉnh nha hoành tráng thì ở đây, đang bận rộn lấy lòng thiên hạ, tất cả vì việc làm ăn của gia đình. Hơi thô thiển, Crispin Hershey tự hỏi liệu có một nhà tù ngoài khơi chuyên giam giữ đàn bà Colombia xấu xí không, bởi vì từ lúc đặt chân đến tôi vẫn chưa thấy nổi một mống. Độc giả quý mến, nếu cờ đến tay, liệu tôi có phất? Nhẫn cưới của tôi ở cách đây sáu nghìn dặm, trong ngăn kéo nơi hộp bao cao su gia đình sắp hết hạn. Nếu tôi cảm thấy đơn chiếc kể từ ngày cưới, thì lỗi tại Zoë, không phải tại tôi - bất kỳ một nhân chứng khách quan nửa vời nào cũng nhận ra được. Thực lòng, nếu nàng là ông chủ còn tôi là nhân viên, tôi đã có đủ cơ sở để kiện nàng tội ép buộc từ chức. Nhớ lại dịp kỳ nghỉ Giáng Sinh nàng và gia đình bên ngoại đã ghẻ lạnh với tôi ra sao. Thậm chí đã qua ba tháng, uống đến ly champagne thứ ba, ngắm chòm sao Nam Thập Tự trong một đêm ấm áp hai mươi độ C, tôi vẫn thấy rùng mình…

• • •

… Zoë và các con gái bay đến Montreal ngay khi trường nghỉ học, để tôi có nguyên một tuần tập trung vào cuốn sách mới, tác phẩm hài kịch đen về một dị nhân giả cầy, giả vờ đã thấy Đức Mẹ Đồng Trinh trong kỳ Lễ Hội Văn Học Hay-on-Wye. Cũng thuộc loại top 3,4 gì đó của tôi. Nhưng rủi thay, trong một tuần không có tôi, gia đình Zoë đã ra tay “cải tạo” Juno và Anaïs, tiêm nhiễm cho con gái tôi cái thói kênh kiệu của dân Pháp ngữ. Khi tôi đến căn nhà nhỏ ở Outremont ngày 23 tháng Mười Hai, hai đứa chỉ chịu nói tiếng Anh với tôi mỗi khi tôi bắt buộc. Zoë cho chúng gấp ba lần tiền chơi game trên mạng, với điều kiện là phải chơi en français, chị gái của Zoë dẫn chúng và các chị em họ đi xem một sô thời trang Giáng Sinh, bằng tiếng Pháp, và một sô ca nhạc choai choai toàn hót-boi, cũng bằng tiếng Pháp. Trò hối lộ văn hóa hạng nhất - và khi tôi phản đối, Zoë ca nguyên bài, “À, Crispin, tôi muốn mở rộng tầm nhìn của các con, để các con tiếp xúc với nguồn gốc của chúng - tôi thấy kinh ngạc và thất vọng là anh muốn nhốt chúng trong nền văn hóa Anh-Mỹ thuần túy.” Rồi, vào ngày lễ Boxing, cả nhà đi chơi bowling. Họ nhà Legranges vốn cao to hoành tráng sửng sốt không thốt nên lời trước điểm số của tôi: hai mươi. Không phải cho một bóng, mà cho cả trận khốn kiếp. Tôi đâu phải sinh ra để chơi bowling: tôi sinh ra để viết văn. Juno hất tóc ra sau rồi nói, “Papa, thiệt tình không biết nhìn đâu cho đỡ nhục.”

“Creespin!” Miguel Alvarez, biên tập viên tiếng Tây Ban Nha của tôi trờ tới, mỉm cười như thể có quà cho tôi. “Creespin, tôi có một món quà nhỏ cho anh đây. Đi theo tôi chút xíu, tới chỗ nào kín đáo hơn chút xíu.” Thấy mình như một nhân vật trong truyện của Irvine Welsh, tôi đi theo Miguel ra xa khỏi đám tiệc tùng chộn rộn, đến một băng ghế khuất trong bóng bức tường cao phía sau bụi cây xương rồng rối rắm. “Đây, tôi có mấy món anh nhờ đây, Creespin.”

“Anh tử tế quá.” Tôi châm một điếu thuốc.

Miguel thảy một bao thư nhỏ bằng cỡ thẻ tín dụng vào túi áo vét của tôi. “Chơi vui ha, không lẽ tới Columbia mà không thử cho biết. Nhưng nói nè, Creespin. Dùng ngay đây, ngay ở Cartagena, dùng một mình, không sao hết. Nhưng mang đi, đem ra sân bay…” nhăn mặt, Miguel làm động tác cắt cổ “…anh hiểu chứ?”

“Miguel, có điên mới nghĩ tới chuyện đem ma túy tới gần sân bay. Đừng lo. Nếu dùng không hết, tôi sẽ xả sạch.”

“Tốt đó. Cẩn thận. Vui ha. Ngon nhứt thế giới đó.”

“À, anh có tìm được điện thoại Colombia không?”

“Có, có.” Biên tập viên đưa tôi thêm một phong thư nữa.

Cái này cũng đi thẳng vào túi áo vét. “Cảm ơn anh. Điện thoại thông minh khi dùng được thì tuyệt vời, nhưng nếu sóng yếu thì điện thoại cục gạch nhắn tin vẫn ngon nhất, nhỉ.”

Miguel hơi nghiêng đầu, không hẳn đồng ý, nhưng ba mươi đô la, hay ít tiền mà hắn bỏ ra, vẫn là cái giá khá rẻ để chiều Kẻ Nổi Loạn Trên Văn Đàn Anh Ngữ. “Vậy, xong hết rồi nha, ô kê hết chớ?”

“Rất ô kê, Miguel, cảm ơn anh.”

Như những cốt truyện hay nhất, câu chuyện này cũng tự nó viết ra.

“Eh, Crispin,” Kenny Bloke, thi sĩ người Australia vẫy tay khi chúng tôi đi qua một đám khách tiệc đang đứng ở cổng phía cuối vườn xương rồng. “Có mấy người đây nè.” Miguel và tôi nhập hội với một nhóm nhỏ các văn sĩ, nghe bảo thế, đứng dưới tán cây dương xỉ. Những cái tên ngoại quốc khó nhớ - không có ai từng đăng bài trên New Yorker, tôi để ý, nhưng khi Kenny Bloke giới thiệu đến người đàn bà có gương mặt góc cạnh, tóc đen, nước da tái, tôi nhận ra ngay, bụng đánh thót, trước cả khi hắn đọc tên: “Holly Sykes, đồng hương của anh đó.”

“Hân hạnh được gặp anh, anh Hershey,” cô ta nói.

“Trông cô hơi quen quen,” tôi đáp, “nếu tôi không nhầm?”

“Chúng ta đến dự Lễ Hội Hay cùng một ngày, hồi năm ngoái.”

“Đừng nói là vụ chán chết trong cái lán kinh dị đó chứ?”

“Chúng ta ở lán ký sách cùng lúc, anh Hershey.”

“Gượm đã! Đúng rồi. Cô là nhà văn viết truyện thiên thần. Holly Sykes.”

“Nhưng không phải loại thiên thần đầu tỏa hào quang tay chơi đàn hạc,” Kenny Bloke chen ngang. “Holly viết về tiếng nói nội tâm - khi nãy tôi có nói, rất gần gũi với tín ngưỡng tâm linh của người xứ tôi.”

“Cô Sykes,” Miguel lên tiếng, đãi bôi nịnh nọt. “Tôi là Miguel Alvarez, biên tập viên nhà xuất bản Ottopusso, biên tập sách của Creespin. Rất hân hạnh.”

Người phụ nữ tên Sykes bắt tay hắn. “Anh Alvarez.”

“Có đúng là sách cô bán được hơn một triệu bản ở Tây Ban Nha không?”

“Có vẻ như sách tôi khá hợp gu ở đó,” cô ta đáp.

“Uri Geller tới đâu cũng hợp gu.” Tôi say hơn tôi tưởng. “Nhớ tay đó không? Bạn thân của Michael Jackson? Rất nổi ở Nhật? Nổi kinh.” Cocktail của tôi có vị xoài và nước biển.

Miguel mỉm cười với tôi nhưng lượn mắt về phía cô Sykes nọ, láo liên như tượng đồ chơi Action Man. “Cô hài lòng với nhà xuất bản Tây Ban Nha chứ, cô Sykes?”

“Như anh có nói, họ bán được nửa triệu bản.”

“Thì tuyệt. Nhưng nếu có vấn đề gì thì đây, danh thiếp của tôi…”

Trong khi Miguel loay hoay, một người đàn bà khác hiện ra cạnh thân cây dương xỉ, như thể một nhân vật trong Star Trek. Nàng tóc đen, da nâu, chừng ba lăm tuổi, quyến rũ đến ngây dại. Miguel thốt lên, “Carmen!” như thể hắn rất mừng khi thấy nàng.

Carmen nhìn chòng chòng vào danh thiếp của Miguel, cho tới khi nó biến mất vào túi áo vét của hắn, rồi quay sang Holly Sykes. Tôi chờ một giọng nữ Nam Mỹ vang như sấm, nhưng nàng cất tiếng, giọng như giáo viên nữ công ở các tỉnh quanh London. “Hi vọng là Miguel không làm phiền chị, Holly - tay này có tiếng câu kéo lì lợm. Đúng thế đấy, Miguel à… tôi biết anh vẫn chưa quên vụ Stephen Hawking đâu.” Miguel cố làm ra vẻ ăn năn, nửa đùa nửa thật, nhưng rõ vô duyên, trông hắn như một thằng cha mặc quần jeans trắng mà vô ý rắm một phát quá trớn. “Anh Hershey,” nàng quay về phía tôi, “chúng ta chưa gặp bao giờ. Tôi là Carmen Salvat, tôi là người có cái đặc quyền duy nhất…” một mũi phi tiêu phóng về Miguel “…được xuất bản sách của Holly bằng tiếng Tây Ban Nha. Chào mừng anh đến Colombia.”

Cái bắt tay của Carmen Salvat đến là dứt khoát. Nàng tỏa sáng. Với bàn tay còn lại nàng mân mê chuỗi hạt lam ngọc trên cổ.

Kenny Blokes góp chuyện: “Holly có nói cô cũng xuất bản cả sách của Nick Greek bằng tiếng Tây Ban Nha, đúng không Carmen?”

“Vâng, tôi mua bản quyền của Đường 605 trước khi Nick viết xong bản thảo. Tôi có linh cảm tốt về cuốn sách.”

“Tôi choáng váng, khi đọc cuốn đó,” Kenny Bloke tiếp. “Hoàn toàn xứng đáng nhận giải Brittan năm ngoái, tôi nghĩ thế.”

“Nick có một tâm hồn đẹp,” một nữ thi sĩ người Newfoundland mà tôi đã quên mất tên góp chuyện, nữ thi sĩ có cặp mắt như mắt con hải cẩu nhìn chòng chòng trên áp phích của Hòa Bình Xanh. “Thực sự đẹp đẽ.”

“Carmen đúng là mát tay,” Miguel tiếp. “Nhưng nói về doanh số thì Holly vẫn dẫn trước vài điểm, đúng vậy không Carmen?”

“Nhắc mới nhớ,” Carmen Salvat nói. “Holly, phu nhân bộ trưởng bộ văn hóa muốn gặp chị - chị chiều tôi nhé?”

Người đàn bà tên Sykes được dẫn đi khỏi, tôi nhìn theo cặp hông ngon mắt của Carmen Salvat, đầu óc bắt đầu tơ tưởng mộng mơ, trong cơn mộng điện thoại của tôi sẽ đổ chuông, ngay lúc này: bác sĩ ở London báo tin dữ, rằng chiếc Saab của Zoë bị một tài xế say rượu hất văng khỏi cầu vượt Hammersmith. Nàng và hai con gái chết ngay tại chỗ. Tôi bay về ngay ngày mai để kịp đám tang. Tôi cứng rắn chịu tang tóc, nhưng đau khổ tột cùng và chẳng thiết gì nữa. Người ta thi thoảng lại thấy tôi trên những chuyến tàu điện ít thông dụng, ra vào khu vực bốn, khu vực năm London. Rồi xuân hé, hạ tràn, thu tàn, đông đoạn. Một ngày sang năm, Hershey thấy mình đang ở cuối tuyến Piccadilly, ngay sân bay Heathrow. Chàng ra khỏi tàu điện, bước đến ga đi và nhìn lên bảng thông tin, thấy tên “Cartagena”- nơi cuối cùng trên Trái Đất này chứng kiến chàng vẫn là một người chồng, người cha. Tự dưng, không thể giải thích nổi, chàng mua vé một chiều - mà chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có sẵn hộ chiếu - tối hôm đó chàng lang thang trên những con đường trong khu phố thuộc địa cũ của thành phố ở Colombia ấy. Trai gái đương yêu, đèo nhau trên xe máy, chim chóc réo rắt, hoa cỏ nhiệt đới trên những dây leo uốn lượn, saudade và cô đơn, nguyên Trăm Năm như thế; và rồi khi hoàng hôn nhiệt đới buông màn tối xuống những góc quảng trường Aduana, Hershey thấy một người đàn bà, ngón tay nàng vân vê chuỗi hạt lam ngọc, cả hai đứng sững, thế gian quay cuồng quanh họ. Ngạc nhiên thay, không ai trong hai người thấy ngạc nhiên cả.

Nhiều ly cocktail sau đó, tôi đỡ một Richard Cheeseman say bí tỉ vào thang máy, trở lại phòng hắn. “Tôi ổn mà, Crisp, trông vậy chứ tôi không say lắm đâu, thật đấy.” Cửa thang máy mở ra, cả hai bước vào. Hắn lảo đảo như lạc đà say thuốc trong gió bão. “Đợi… ch chút x xíu, tôi quên mất số phòng… đợi tôi…” Cheeseman rút ví ra và đánh rơi.

“…ôi mẹ kiếp chó chết.”

“Để tôi.” Tôi nhặt ví của Cheeseman rồi rút thẻ khóa trong kẹp ra, kịp đọc số 405 trước trả lại. “Đây này.”

Cheeseman gật đầu cảm ơn rồi lẩm bẩm, “Nếu số phòng cộng lại đủ chín nút, Hersh, thì anh sẽ không bao giờ chết trong phòng đó.”

Tôi bấm số “4”. “Đầu tiên là về phòng đã.”

“Tôi ổn mà. Tôi tự về phòng… được… được… mà.”

“Nhưng tôi có nghĩa vụ đưa anh đến tận nơi, Richard. Đừng lo, tôi không có ý hại đời anh đâu.”

Cheeseman khịt mũi bỉ bôi: “Anh đâu phải gu của tôi, quá trắng, quá phệ.”

Tôi nhìn mình trong bức tường ốp gương, rồi nhớ lại một tay khôn ngoan từng bảo tôi rằng bí quyết hạnh phúc là sau bốn mươi tuổi đừng bao giờ nhìn mình trong gương thang máy. Năm nay tôi năm mươi. Cửa kêu ping một tiếng, cả hai bước ra, qua mặt một đôi tóc bạc, da rám nắng, dáng gọn gàng. “Chỗ này hồi trước là tu viện nữ,” Cheese kể lể, “toàn trinh nữ,” rồi cất giọng tru tréo bài hit thời đầu của Madonna. Cả hai đi dọc theo hành lang mở ra đêm Caribe. Một góc quanh, rồi đến phòng 405. Tôi quẹt thẻ khóa của Cheeseman qua khóa, nắm cửa đẩy xuống. “Không hoành… hoành gì,” Cheeseman, “nhưng ở cũng được.”

Phòng của Cheeseman được chiếu sáng bởi đèn cạnh giường; kẻ phá hủy cuốn tiểu thuyết “đánh dấu sự quay lại” của tôi loạng choạng đi đến giường, vấp phải va li và ngã phễnh bụng xuống nệm. “Không phải đêm nào cũng” monsieur le critique lào khào rồi bật cười khùng khục không dứt, “được hộ tống bởi Kẻ Nổi Loạn trên Văn Đàn Anh Quốc.”

Tôi nói với hắn, ừ, hài đấy, rồi ngủ ngon nhé, nếu mười một giờ sáng mai mà hắn chưa dậy, tôi sẽ gọi từ dưới Lễ tân lên. “Tôi không… ông sao mà,” hắn lè nhè, “Tôi nói thật, thề danh dự luôn đó. Thật mà.”

Hai cánh tay sải ra, nhà phê bình Richard Cheeseman ngủ lăn quay.