4 Tháng Tư
Món tui thích nhất trên thực đơn đó cưng, thề có Chúa.” Nestor đặt đĩa xuống trước mặt tôi. “Người ta vô quán, ngồi xuống, thấy ‘moussaka chay’, nghĩ ngay, nếu moussaka không có thịt thì không phải là moussaka, vậy là họ gọi bít-tết, thịt ba chỉ, sườn cừu. Họ không biết mình đã bỏ lỡ cái gì. Ăn đi. Nếm thử coi. Má ruột tui, Chúa che chở linh hồn bả, công thức của bả đó. Má tui ngầu lắm à. Hải quân biệt kích, ninja, mấy tay mafia, cứ giáp mặt bà má Hi Lạp là nhũn như con chi chi. Má tui đó, trong khung hình ở quầy thu ngân.” Ông ta chỉ vào nữ chúa tóc bạc. “Bả dựng nên cái quán này đó. Cũng chính bả chế ra moussaka không có thịt, thời Mussolini chiếm đóng, giết không sót con cừu, thỏ, chó nào. Má tui phải… nói sao ta? À, phải… tùy cơ ứng biến. Ướp cà tím bằng vang đỏ. Ninh đậu lăng nhỏ lửa, thiệt lâu. Nấm nấu chung với nước tương - bả thêm nước tương sau khi dọn tới New York. Còn thấm hơn thịt nữa. Bơ trong sốt trắng, bột bắp, thêm chút kem. Nhiều bột ớt cựa gà. Có vậy mới đã. Bon appétit, và…” ông ta đưa tôi một ly nước lọc có đá kêu lanh canh “…nhớ chừa chỗ cho món tráng miệng. Cô gầy lắm.”
“Gầy,” tôi vỗ tay lên bụng, “không phải là vấn đề của tôi.”
Ông ta lượn đi, đám nhân viên trẻ nhanh chân hơn khéo léo tránh đường. Tôi xắn nĩa xuống một miếng cà, ép chút sốt trắng, kẹp thêm một mẩu nấm và thưởng thức. Mùi vị như dòng máu của ký ức, tôi nhớ năm 1969, khi Yu Leon Marinus còn đi dạy cách đó chỉ vài tòa nhà, Nestor Cha khi đó là Nester Con, và quý bà tóc bạc trong khung ảnh, sau khi biết người đàn ông Trung Hoa nói được tiếng Hi Lạp là bác sĩ, đã lấy tôi làm gương cho mấy cậu con trai. Với bà, tôi là hiện thân của Giấc mơ Mỹ. Bà thường tặng thêm một mẩu bánh baklava với cà phê mỗi lần tôi đến đây, tôi đã thành khách ruột của quán. Tôi muốn hỏi bà mất khi nào, nhưng tò mò có thể gây nghi ngờ, vậy là tôi lướt qua tờ New York Times trong ngày và lật đến phần ô chữ. Nhưng không thể tập trung.
Tôi không thôi nghĩ về Esther Little…
Năm 1871 Pablo Antay Marinus vừa tứ tuần. Gã thừa hưởng ADN Latin từ người cha quê Catalan, đủ để người ta nhầm là dân Tây Ban Nha. Vậy là gã ghi danh làm bác sĩ trên một con tàu Mỹ luống tuổi - tàu Thánh Nữ, hạ thủy tại Rio de Janeiro, hướng về Batavia ở xứ Đông Ấn thuộc Hà Lan, qua ngã Cape Town. Bất chấp trận bão cuồng nộ như trong Kinh Cựu Ước, dịch sốt phát ban làm chết mười hai thủy thủ và cuộc giao tranh với cướp biển từ đảo Panaitan, bầu đoàn tập tễnh đổ bộ lên Batavia vào ngày Giáng Sinh. Lucas Marinus từng đến nơi đây tám mươi năm về trước; thị trấn có đồn trú nhuốm bệnh sốt rét trong trí nhớ của tôi giờ đã là thành phố nhuốm bệnh sốt rét. Không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Tôi vào đất liền để thu thập cây cỏ quanh Buitenzorg, nhưng sự tàn bạo của người châu Âu đối với dân bản địa Java khiến tôi không còn hứng thú với thực vật Java nữa, và đến tháng Giêng khi Thánh Nữ nhổ neo, giương buồm về Xứ Thuộc Địa Sông Swan ở Tây Australia, tôi không hề thấy lưu luyến. Tôi vẫn chưa từng đặt chân lên lục địa phương nam trong suốt cả phần đời siêu linh trước đó, vậy là khi thuyền trưởng báo sẽ dừng ba tuần ở Fremantle, lật nghiêng tàu để bảo dưỡng, tôi quyết định sẽ dành hai tuần ở xứ đầm lầy Becher Point. Tôi thuê một người bản địa sốt sắng tên là Caleb Warren cùng con la tội nghiệp của hắn. Trước Cơn Sốt Vàng những năm 1890, Perth chỉ là một thị trấn với vài trăm cái nhà gỗ, và chỉ trong một tiếng, Warren và tôi đã ra đến đường mòn chạy xuyên qua quang cảnh hoang dã vốn không thay đổi hàng thiên niên kỉ. Khi con đường mòn hẹp dần, Caleb Warren trở nên im lặng, cộc cằn. Nếu ở thời nay tôi sẽ chẩn đoán hắn bị chứng rối loạn lưỡng cực. Cả hai cuốc bộ qua những ngọn đồi cây bụi, qua những con mương bùn lầy, những con lạch nước mặn và những bãi cây tràm nghiêng ngả. Tôi thấy thỏa lòng. Sổ tay của tôi trong ngày 7 tháng Hai năm 1872 có ký họa sáu loài ếch, một đoạn ghi chép mô tả một con chuột gộc, ký họa một con cò thìa hoàng gia và một bức màu nước tàm tạm vẽ vịnh Jervoise. Màn đêm buông xuống, chúng tôi dựng trại giữa vòng tròn đá trên một mỏm đá thấp. Tôi hỏi người dẫn đường liệu thổ dân có đến gần đống lửa không. Caleb Warren đập tay lên báng súng và tuyên bố, “Cứ để lũ khốn đến. Ta sẽ chờ sẵn.” Pablo Antay ghi lại ấn tượng của mình về những tiếng kêu xé đêm sâu, những âm thanh vương vãi đâu đó, bản hòa âm hỗn độn của côn trùng cọ cánh, tiếng sủa của thú rừng và tiếng chim gọi bầy. Chúng tôi ăn cháo rau rừng với dồi huyết và đậu. Người dẫn đường của tôi uống rum như người ta uống nước lã, và đáp, “Có ma mới biết!” khi tôi nói bất kỳ điều gì. Warren là một vấn đề mà tôi phải giải quyết ngày hôm sau đó. Tôi ngắm sao và nghĩ về những cuộc đời khác. Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua như thế cho đến khi tôi để ý thấy một con chuột lắt đang nhảy lên cánh tay Warren, lên bàn tay hắn và lần theo cái que dùng làm xiên nướng với mẩu dồi béo mỡ trên đó. Tôi không hề áp Đoạn Lệnh lên hắn. Mắt Warren còn mở nhưng người hắn không động đậy…
• • •
… và bốn người bản xứ cao lớn cầm giáo săn bước vào vùng sáng của đống lửa. Một con chó gầy gò, đuôi cụt còn một mẩu chạy theo khụt khịt đánh hơi. Tôi đứng dậy, không biết nên chạy, nên nói, nên vung dao lên hay xuất linh. Những vị khách không màng đến Caleb Warren vẫn còn bị đông sững lại. Họ đi chân đất, ăn vận tạp nham, có cả quần ống túm, áo sơ mi của người đi khai hoang lẫn áo choàng da thú Noongar và đóng khố. Một người còn xuyên một mẩu xương qua mũi, tất cả đều có sẹo tự rạch theo phong tục. Họ là chiến binh. Không cần đến trang phục, bối cảnh hay thế kỷ, chỉ nhìn cũng biết. Tôi đưa hai bàn tay lên để cho thấy mình không có vũ khí, nhưng tôi không đọc được ý định của họ. Tôi sợ. Thời đó muốn xuất linh tôi cần mười đến mười lăm giây, lâu hơn thời gian mà bốn chiến binh cầm giáo cần để kết liễu cuộc đời lãng du của Pablo Antay; chết bằng giáo xiên thì nhanh, nhưng không hề dễ chịu. Rồi một người đàn bà gầy gò, da trắng bước vào vùng lửa sáng. Tóc buộc lại phía sau, ả mặc một chiếc áo tu sĩ suôn đuột, kiểu áo mà các nhà truyền giáo thường phân phát khi phải đối mặt với da thịt lồ lộ của dân bản địa. Thật khó đoán ả bao nhiêu tuổi. Dáng đi lệch về một bên, ả đến gần nhìn tôi, con mắt dò xét, như thể tôi là một con ngựa mà ả đang nghĩ lại xem có nên mua không. “Đừng sợ. Nếu bọn ta muốn giết, ngươi đã chết lâu lắc rồi.”
“Ngươi nói được tiếng Anh,” tôi buột miệng.
“Cha ta dạy,” Ả nói với đám chiến binh bằng thứ tiếng mà sau đó tôi nhanh chóng nhận ra là tiếng Noongar, rồi ngồi lên tảng đá cạnh đống lửa. Một tên gỡ que xiên ra khỏi ngón tay của Caleb Warren, rồi khụt khịt ngửi mẩu dồi. Hắn dè dặt cắn một miếng, rồi thêm một miếng nữa. “Tên dẫn đường của ngươi rất tệ.” Người đàn bà nhìn đống lửa khi nói với tôi. “Hắn tính chuốc cho ngươi say, đập đầu ngươi, lấy tiền của ngươi, rồi vứt ngươi xuống vách đá. Ngươi nhiều tiền quá, hiểu không. Với hắn, ngươi là …” ả cố tìm từ… “cám.. dã. Đúng từ đó chứ hả?”
“Có lẽ là cám dỗ.”
Ả tặc lưỡi. “Hắn tính nói với dân da trắng dưới sông Swan là ngươi đi vô rừng rồi không trở ra. Tính ăn cắp đồ của ngươi.”
Tôi hỏi, “Làm sao ngươi biết?”
“Bay ra.” Ả chạm tay lên trán, tay kia làm động tác bay lượn. “Ngươi biết mà. Đúng không?” Ả nhìn phản ứng của tôi.
Tôi thấy cả người rần rần. “Ngươi… có tâm biệt năng sao?”
Ả đổ người gần hơn về phía đống lửa. Tôi thấy những góc cạnh Âu châu ở hàm và mũi ả. “Dài dòng quá. Ta không nói tiếng Anh boola.
Quên boola rồi. Nhưng chấm-linh của ta sáng.” Ả đập tay lên trán. “Ngươi, cũng y vậy. Cũng là Boylyada maaman[57]. Ngươi cũng nói được tiếng linh hồn.”
Tôi cố khắc ghi mọi chi tiết vào trí nhớ. Bốn tay chiến binh đang lục lọi gùi đeo lưng của Warren. Con chó cụt đuôi vẫn khụt khịt đâu đó. Củi rều rực cháy, nổ tí tách. Pablo Antay Marinus tao ngộ một ả thổ dân có tâm biệt năng ở rìa phía tây của Đại lục địa phương nam. Ả đang nhai dồi, ợ hơi một tiếng. “Ngươi gọi là gì, thứ… que-thịt-heo này?”
“Dồi.”
“Dồi.” Ả nếm thử tiếng đó. “Mick Little cũng làm dồi.”
Câu nói khiến tôi phải hỏi: “Mick Little là ai?”
“Cha của thân xác này. Cha của Esther Little. Mick Little giết heo, làm dồi, nhưng chết rồi.” Ả giả vờ ho rồi đưa tay ra. “Máu. Như vầy.”
“Cha của xác ngươi chết vì lao? Lao phổi?”
“À, đúng vậy. Rồi họ bán trại, mẹ của Esther, là đàn bà Noongar, đi vô rừng lại. Đem theo Esther. Esther chết, rồi ta đi vô xác hắn.” Ả nhướng mày, nhón gót, đong đưa nghiêng ngả thân mình.
Sau một lúc, tôi lên tiếng. “Thân này tên là Pablo Antay Marinus. Nhưng tên thật của ta là Marinus. Cứ gọi ta là Marinus. Ngươi có tên thật không?”
Ả hơ tay gần lửa. “Tên Noongar của ta là Moombaki, nhưng ta còn có tên dài nữa nhưng ta không nói ra đâu.”
Giờ đây tôi hiểu Xi Lo và Holokai đã cảm thấy thế nào khi bước vào phòng khách của gia đình Koskov ở St Petersburg, năm mươi năm trước đó. Rất có khả năng là Lưu Khách Vô Thời này không muốn dính gì đến Trắc Thời Phái, cũng không thèm biết có nhiều người như mình, rải rác đây đó trên khắp thế giới, nhưng tôi thấy ấm lòng khi biết rằng thêm một cá thể, nguy cơ tuyệt chủng của chúng tôi vừa giảm đi so với mười lăm phút trước đó. Tôi hỏi tiếp, bằng ngầm-ngữ: Vậy ta gọi ngươi là Esther hay Moombaki? Thời gian trôi qua mà không có câu trả lời. Đống lửa trở mình, như đang sắp lại mớ xương rực cháy, tia lửa bay lên thành vòng xoắn, các chiến binh nói chuyện với nhau bằng giọng thầm thì. Ngay khi tôi vừa kết luận rằng ả không có khả năng ngoại cảm, ả ngầm-đáp: Ngươi là wadjela, là dân da trắng, nên với ngươi, ta là Esther. Còn nếu ngươi là người Noongar, thì ta là Moombaki.
“Đây là thân xác thứ ba mươi sáu của ta.” Tôi kể với Esther. “Còn ngươi?”
Esther dập tắt những câu hỏi mà mình thấy không liên quan bằng cách tảng lờ, ả đang làm thế. Vậy là tôi ngầm-hỏi, Ngươi đến đây lần đâu khi nào? Đến Australia ấy?
Ả vỗ mình con chó. Ta lúc nào cũng ở đây.
Một Lưu Khách có cái đặc quyền ấy. Ngươi chưa bao giờ rời Australia sao?
Ả nói, “Chưa. Ta ở mãi trên đất Noongar.”
Tôi thấy ghen tị với ả. Với một Hồi Khách như tôi, mỗi lần tái sinh là một phen xổ số may rủi, giữa những kinh độ, vĩ độ, cảnh đời. Chúng tôi chết đi, rồi sống lại trong thân xác trẻ con bốn mươi chín ngày sau đó, thường là trên một vùng đất khác. Pablo Antay cố hình dung ra một cuộc đời siêu linh chỉ ở một chỗ của một Lưu Khách, được rời khỏi một lưu thể già yếu hay hấp hối và chuyển vào một lưu thể khỏe mạnh tươi trẻ, nhưng không bao giờ cắt đứt ràng buộc với dòng tộc và lãnh địa. “Làm sao mà ngươi tìm ra ta?”
Esther ném miếng xúc xích cuối cùng cho chó. “Rừng biết nói, không phải vậy sao? Bọn ta lắng nghe.”
Tôi để ý thấy bốn chiến binh đang gỡ túi hành lý từ con la. “Ngươi lấy hành lý của ta sao?”
Ả lai thổ dân đứng dậy. Bọn ta mang giùm ngươi. Về trại. Ngươi đi theo?
Tôi nhìn Caleb Warren và ngầm-lo ngại, Nếu để hắn ở đây, hắn sẽ bị con gì ăn thịt mất. “Hoặc bén lửa cháy, hoặc nóng quá mà chết.”
Esther nhìn bàn tay. Chốc nữa, hắn thức dậy, trong đầu như có ong bay. Hắn nghĩ hắn đã giết ngươi rồi.
Chúng tôi đi bộ gần hết đêm đến một gò đất có tên bằng tiếng Noongar dịch ra tiếng Anh là “Năm Ngón Tay”, không xa lắm với Armadale thời nay. Đây là nhà của bộ tộc chiến binh và là nơi Esther ở mùa này. Khi trời sáng, tôi cố ra sức đỡ đần cho gia chủ, nhưng mặc dù tôi đã từng là thổ dân Itsekiri, Kawésqar và Gurage trong những cuộc đời trước đó, tôi đã quá quen tiện nghi êm ấm khi là Lucas Marinus, Klara Koskov và Pablo Antay, và cũng đã hai thế kỉ kể từ khi tôi phải đi săn và mót cây rừng kiếm ăn. Tôi có vẻ được việc hơn khi giúp cánh phụ nữ phơi da kangaroo, nắn một cánh tay gãy và thu lượm mật ong rừng. Tôi cũng loay hoay cho thỏa trí tò mò của một nhà nhân chủng học chập chững: nhật ký của tôi mô tả lại quá trình đốt rẫy để hun khói cho thú chạy ra; những con vật được chọn làm tô-tem; cuộc viếng thăm của năm người đàn ông từ phía nam để đổi đất son lấy thứ gỗ quý burdun; và một vụ kiện huyết thống, do Esther phân xử, bằng cách nhập linh vào bào thai để làm một xét nghiệm ADN tâm biệt năng. Những người bà con của Esther thương hại tôi như thương hại cho một ông chú ngờ nghệch, có chút ngờ vực vì tôi là người châu Âu nhưng vẫn tôn trọng tôi như một đồng nghiệp Boylyada maaman của Moombaki. Trẻ con ít dè chừng nhất. Một cậu bé tên Kinta thường mượn áo và mũ của tôi mặc vào, đi lại diễn trò, và đứa nào cũng thích khoe kỹ năng đi rừng với người khách da trắng vụng về. Những nỗ lực nói tiếng Noongar của tôi khiến họ cười không ngớt, nhưng với sự giúp đỡ của bộ lạc, Pablo Antay đã tổng hợp được cuốn từ điển Noongar tốt nhất hiện có.
Với người bộ lạc, Moombaki không phải là thần thánh, mà là người bảo trợ, người lưu giữ ký ức, người chữa bệnh, là vũ khí cuối cùng và là một loại quan tòa xử án. Chị đi từ tộc này sang tộc khác vào đầu mỗi mùa - người Noongar có sáu mùa, ở mỗi nơi, chị ra sức giúp từng gia đình, và truyền bá ý tưởng rằng bạo lực chống lại người châu Âu sẽ chỉ dẫn đến nhiều người Noongar bị giết hơn nữa. Có người gọi chị là kẻ phản bội, chị kể với tôi, nhưng đến những năm 1870, lý lẽ của chị đã được chứng minh. Người châu Âu quá đông, lòng tham của họ quá dữ dội, đạo đức của họ quá dễ lay chuyển còn súng ống thì quá chính xác. Hi vọng sống sót mong manh của người Noongar nằm ở khả năng thích ứng, và nếu thích nghi có nghĩa là thay đổi những thứ làm nên bản sắc người Noongar, thì họ còn lựa chọn nào khác? Tuy vậy, nếu không hiểu được đầu óc của những người đến bằng thuyền, thì ngay cả hi vọng mong manh đó cũng yểu mạng, và thế là Moombaki đã chọn một cô bé lai da trắng mười tuổi để bắt đầu cuộc lưu sinh hiện nay của mình. Cũng vì thế, chị đã mời Pablo Antay đến Năm Ngón Tay, hòng tìm hiểu về thế giới bên ngoài và những dân tộc khác.
Vậy là khi đêm xuống, Esther và tôi ngồi đối diện nhau qua đống lửa trước cửa hang nhỏ nơi chị ở, ngầm-nói về những đế chế, sự thăng hoa và lụi tàn của chúng; về thành thị, nghề đóng tàu, các kỹ nghệ; chế độ nô lệ, sự xâu xé châu Phi, cuộc diệt chủng thổ dân trên Đất của Van Diemen; trồng trọt, chăn nuôi, nhà máy, điện tín, báo chí, in ấn, toán học, triết học, luật pháp và tiền tệ và cả trăm chủ đề khác. Tôi cảm giác như Lucas Marinus ngày nào, giảng bài trong nhà của các học giả Nagasaki. Tôi nói về những người đi khai hoang ở Fremantle, họ là ai, tại sao đến đó, họ tin gì, mong muốn gì và sợ hãi điều gì. Tôi cố giải thích tôn giáo nhưng người Whadjuk Noongar vốn không tin các tu sĩ sau khi họ phân phát chăn mền “từ chúa Jesus” cho một vài tộc ở thượng nguồn sông Swan, rồi sau đó vài ngày những người nhận chăn chết vì một thứ bệnh nghe như thủy đậu.
Tuy vậy, ở hầu hết những lĩnh vực khác, Esther là thầy tôi. Tôi lần đầu đoán được tuổi siêu linh của chị khi chị đọc tên của tất cả những lưu thể trước đó của mình, với mỗi tên tôi đặt một viên đá cuội. Có tất cả hai trăm lẻ bảy viên đá cuội. Moombaki nhập vào lưu thể mới khi họ chừng mười tuổi, ở đó cho tới khi họ chết, đồng nghĩa với một cuộc đời siêu linh chừng bảy thiên niên kỉ. Tức là dài gấp đôi so với đời siêu linh của Xi Lo, Vô Thể Khách lớn tuổi nhất của Trắc Thời Phái. Với tuổi siêu linh hai mươi lăm thế kỉ, Xi Lo vẫn là một cậu bé mới lớn trước Esther- người có linh hồn tồn tại trước cả Rome, Troy, Ai Cập, Bắc Kinh, Nineveh và Ur. Chị dạy tôi một vài lệnh của mình, và tôi nhận ra trong đó có rất nhiều nhánh của Dòng Sâu, từ trước Thời Ly Giáo. Nhiều đêm chúng tôi vận linh cùng nhau, và linh hồn Esther ấp lấy linh hồn tôi để linh hồn tôi có thể đi xa hơn và nhanh hơn khi tôi chỉ có một mình. Khi chị phân linh tôi, tôi thấy mình như một thi sĩ hạng ba khoe những câu vè vớ vẩn với Shakespeare. Khi tôi phân linh chị, tôi thấy mình như con cá tuế từ chậu cá đổ xuống biển sâu.
Hai mươi ngày sau khi đến đó, tôi nói lời tạm biệt rồi cùng Esther lên đường về phía thung lũng sông Swan, bốn chiến binh từng theo chúng tôi từ Vịnh Jervoise đi theo hộ tống. Chúng tôi đi về hướng bắc từ Năm Ngón Tay, leo lên vùng đồi Perth Hills. Những người dẫn đường của tôi biết rõ những con dốc rậm rạp không có đường mòn, sành sỏi như Pablo Antay biết những lối tắt và con hẻm ở Buenos Aires. Chúng tôi dựng trại bên một con lạch khô gần một hố nước. Sau bữa tối với khoai mỡ, dâu rừng và thịt vịt, Pablo Antay ngủ say mê mệt. Tôi ngủ cho đến khi Esther ngầm-thức tôi, bằng thứ hiệu lệnh khiến tôi choáng váng. Trời vẫn còn tối, nhưng cơn gió trước bình minh đang khuấy động những thân cây nghiêng ngả, như muốn chuyện trò. Dáng Esther in trên nền một bụi hoa banksia. Chập chờn, tôi ngầm-hỏi Ổn cả chứ?
Esther ngầm-đáp, Đi theo. Chúng tôi đi qua một dải rừng đêm xào xạc phi lao, lên một gò sa thạch chắn mép bìa rừng, rồi tẽ làm ba nhánh như cái chĩa ba. Mỗi gò con như vậy bề rộng chỉ vài bước, nhưng dài cũng đến trăm bước, hai bên dốc đứng nên ta phải hết sức cẩn thận giữ thăng bằng. Esther nói rằng nơi này mang tên Vuốt Đà Điểu, như hình dạng của nó, rồi dẫn tôi ra đến “ngón” giữa. Gò đá kết thúc ở một điểm nhìn ra sông Swan. Lòng sông cuồn cuộn có màu thiếc bóng dưới ánh sao, còn đất liền như mảnh chăn nhàu nhĩ, đắp vá từ những mảng đen đậm và nhạt. Về phía tây một ngày đường, những vệt sóng kẻ đường lên mặt biển, và tôi đoán rằng cụm nhà cửa xô bồ thô tháp trên bờ bắc chính là Perth.
Esther ngồi xuống, vậy là tôi cũng ngồi. Con chim currawong cất những tiếng khàn trên cây liễu. Ta sẽ dạy cho ngươi tên thật của ta.
Chị đã nói với tôi, tôi ngầm-đáp, phải mất nguyên một ngày mới học được tên chị.
Ừ, thì đúng, nhưng ta sẽ nói tên ta vô trong đầu ngươi, Marinus.
Tôi do dự. Đây là ơn huệ mà tôi không thể đáp trả. Tên thật của tôi chỉ có một từ, mà chị đã biết rồi.
“Đâu trách được, ngươi là giống man di mà” chị đáp. “Giờ nín. Mở ra.”
Esther nhập linh vào tôi và khắc sâu cái tên thật, dài, rất dài ấy vào trong ký ức của tôi. Tên của Moombaki đã lớn lên cùng với hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn năm kể từ khi Moombaki được sinh ra ở gò Năm Ngón Tay, thời mà nó còn là Hai Bàn Tay. Mặc dù phần lớn tên thật của chị nằm ngoài vốn ngôn ngữ Noongar của tôi, khi những phút đó trôi qua, tôi hiểu rằng tên của chị cũng chính là lịch sử dân tộc chị, một Tấm Thảm Bayeux đan kết huyền thoại với tình yêu, sự sống, cái chết; những cuộc săn, những trận chiến, những chuyến hành trình; hạn hán, cháy rừng, bão tố; và tên của mỗi lưu thể mà Moombaki từng lưu trú. Với Esther, tên của chị chấm dứt. Người khách xuất linh và tôi mở mắt ra, thấy nắng xiên ngang thiêu đốt vòm lá xanh ngắt bên dưới, chiếu rực bụi cây trong ánh vàng sậm và làm ửng đỏ những đám mây như bộ sườn cá voi, và quanh tôi là hàng ngàn chim chóc, líu lo, hú hét, rền rĩ. “Không phải là một cái tên tệ,” tôi đáp, chưa gì đã cảm thấy nhung nhớ xa rời.
Một cây bạch đàn marri chảy nhựa đỏ như máu và rộ hoa như sao trời. Corymbia calophylla.
“Hãy trở lại đây, khi nào cũng được,” chị nói, “ngươi, hoặc những người anh em mà ngươi đã kể.”
“Tôi sẽ quay lại,” tôi hứa, “nhưng gương mặt tôi khi đó sẽ đổi khác.”
“Thế giới cũng đang đổi thay,” chị nói. “Ở đây cũng thế. Không thể dừng được.”
“Chúng tôi làm thế nào để tìm chị hả Esther? Tôi, hay Xi Lo, hay Holokai?” Dựng trại ở đây. Ngay nơi này. Vuốt Đà Điểu. Đất sẽ mách bảo.
Tôi không ngạc nhiên khi thấy chị đã đi khỏi. Vậy là tôi khởi hành về Perth, nơi một người xấu xa tên Caleb Warren sẽ sớm thất kinh hồn vía.
Tôi điền ô hai mươi bảy ngang - CHÓNG MẶT - trước khi nhìn lên và thấy Iris Marinus-Fenby phản chiếu trong mắt kính râm của Holly Sykes. Khăn quấn đầu hôm nay màu tử đinh hương. Tôi đoán tóc của cô ấy chỉ hồi phục một phần từ đợt hóa trị năm năm trước. Bộ đầm màu chàm của Holly thả suôn từ nút cổ cao xuống mắt cá chân. “Tôi rất giỏi làm ngơ trước những kẻ ưa gây sự chú ý,” Holly đập bì thư xuống bàn, “nhưng vụ này thật thô bỉ, thật quá quắt, thật dị hợm, đến không thể tin nổi. Nên cô đã thắng. Tôi đã đến đây. Tôi đi dọc phố Broadway, ở mỗi ngã tư tôi đều nghĩ, Tại sao lại cho cái kẻ điên rồ loạn trí này dù chỉ một phút? Vô số lần tôi suýt quay ngược lại.”
Tôi hỏi, “Thế tại sao chị không quay lại?”
“Vì tôi cần biết: nếu Hugo Lamb muốn liên lạc với tôi, tại sao không làm như những người khác, gởi email qua người đại diện của tôi? Tại sao phải cử cô đến, rồi cái này…” cô gõ lên bì thư “…cái ảnh giả mạo này? Anh ta nghĩ làm thế sẽ gây ấn tượng với tôi sao? Muốn nối lại tình xưa?
Bởi nếu thế anh ta sẽ phải thất vọng ê chề.”
“Tại sao chị không ngồi xuống và gọi đồ ăn trưa trong khi tôi giải thích?”
“Tôi không nghĩ thế. Tôi chỉ ăn trưa với bạn.”
“Cà phê vậy nhé? Cà phê uống với ai cũng được.”
Bực tức, Holly nhượng bộ. Tôi làm động tác cầm tách và mấp máy miệng, “Cà phê” về phía Nestor, ông chủ quán ra dấu có-ngay-đây. “Đầu tiên,” tôi nói với Holly, “Hugo Lamb không biết gì về chuyện này cả. Chúng tôi cũng hi vọng thế. Luôn tiện, nhiều năm rồi hắn đã lấy tên Marcus Anyder.”
“Vậy nếu không phải Hugo Lamb cử cô đến đây, thì tại sao cô biết chuyện chúng tôi gặp nhau nhiều năm trước trong một khu trượt tuyết hẻo lánh ở Thụy Sĩ?”
“Một đồng nghiệp của tôi chuyên trách Mạng Internet Tối. Nghề của anh ấy là nghe ngóng.”
“Còn cô. Cô vẫn là bác sĩ người Hoa chết năm 1984? Hay hôm nay cô là nữ giới, vẫn còn sống?”
“Tôi là cả bốn thứ đó.” Tôi đặt một tấm danh thiếp lên bàn. “Bác sĩ Iris Marinus-Fenby. Bác sĩ chuyên khoa tâm thần đóng ở Toronto, mặc dù tôi cũng có làm ở nhiều chỗ khác. Và, đúng thế, cho tới năm 1984, tôi vẫn là Yu Leon Marinus.”
Holly tháo kính râm, nhìn kỹ tấm danh thiếp, rồi nhìn tôi, vẻ kinh tởm. “Tôi thấy giờ tôi phải nói cho rõ, vậy thì đây: tôi chưa hề gặp lại Hugo Lamb kể từ ngày đầu năm 1992, khi anh ta chừng hai lăm tuổi, đúng không? Giờ hẳn anh ta phải chừng năm lăm tuổi. Như tôi. Còn tấm hình này đã bị chỉnh để cho thấy Hugo Lamb vẫn trông như hai mươi lăm tuổi, hoặc chỉ xấp xỉ thế, đứng chụp với tháp Helix - xây năm 2018, và có cặp kính iShades móc vào áo thun World Cup Qatar 2022. Rồi đến chiếc xe. Hồi những năm chín mươi xe không giống vậy. Tôi biết mà. Tấm hình này đã được sửa. Hai câu hỏi cho cô: ‘Tại sao?’ và ‘Ai?’
Đứa bé ở bàn bên cạnh đang chơi trên một ứng dụng 3D: một con kangaroo nhảy lên một chuỗi nền chạy liên tục. Thật khó chịu. “Tấm ảnh đó chụp hồi tháng Bảy,” tôi nói với Holly. “Không có chỉnh sửa gì cả.”
“Vậy… Hugo Lamb đã tìm được suối nguồn trường sinh bất lão?”
Một tay chạy bàn trẻ tuổi có cái mũi gồ như Nestor đi ngang qua, bưng theo phần bít-tết T-bone đang xèo xèo trên đĩa nóng. “Không phải suối nguồn, không phải thế. Một nơi chốn và một quá trình. Hugo Lamb trở thành một Ẩn Sĩ của Nhà Nguyện Bụi Tối của Thầy Cathar Mù vào năm 1992. Kể từ khi nhập môn, hắn không già đi.”
Holly nghe tôi nói, phồng má thở hắt ra. “À, hay thật. Hiểu cả rồi. Người tình một đêm của tôi bây giờ… nói sao nhỉ, ‘bất tử’.”
“Bất tử kèm điều kiện,” tôi đáp mơ hồ. “Bất tử theo nghĩa là hắn không bị lão hóa.”
Holly tức tối. “Mà không ai để ý cả, đương nhiên. Hay gia đình anh ta nghĩ là nhờ kem dưỡng ẩm và rau trộn diêm mạch?”
“Gia đình hắn tin rằng hắn đã chết đuối trong một tai nạn lặn ở Rabaul, gần New Guinea, hồi năm 1996. Chị cứ gọi cho họ đi.” Tôi đưa cho Holly một tấm danh thiếp với số điện thoại của gia đình Lamb ở London. “Hay hỏi anh em trai của hắn, Alex hay Nigel.”
Holly nhìn chằm chằm. “Hugo Lamb ngụy tạo cái chết của mình?”
Tôi nhấp nước lọc. Thứ nước đã qua nhiều quả thận. “Các Ẩn Sĩ bạn hắn đã giúp hắn dàn xếp. Rất khó lấy được giấy chứng tử mà không có tử thi, nhưng bọn họ đã có nhiều năm kinh nghiệm.”
“Cô đừng nói như thể tôi tin cô. Mà nữa, ‘Ẩn Sĩ’? Đó là một thứ gì… thời trung cổ, đúng vậy không?”
Tôi gật đầu. “Ẩn Sĩ thời đó là một cô gái sống ẩn dật trong phòng kín, giữa nhà thờ. Một hình thức hiến tế bằng người sống.”
Nestor lượn đến. “Một cà phê. À, bạn của cô đói bụng không?”
“Không, cảm ơn,” Holly nói. “Tôi… tôi không muốn ăn gì cả.”
“Thôi nào,” tôi giục, “chị vừa đi từ vòng xoay Colombus còn gì.”
“Tôi sẽ đem thực đơn tới,” Nestor nói. “Cô đây cũng ăn chay, như bạn cô?”
“Cô ta không phải là bạn tôi,” Holly gằn giọng. “Ý tôi là, tụi tôi chỉ mới quen.”
“Bạn hay không,” ông chủ nhà hàng tiếp, “ai cũng phải ăn chứ.”
“Tôi sẽ đi ngay,” Holly tuyên bố. “Tôi vội.”
“Vội, vội, vội.” Lông mũi Nestor thập thò như rong biển. “Bận không kịp ăn, bận không kịp thở.” Ông ta quay đi rồi quay lại. “Rồi sao nữa? Bận không kịp sống sao” Nestor đi khuất.
Holly hậm hực: “Giờ cô khiến tôi làm mích lòng một ông lão người Hi Lạp.”
“Thế thì gọi món moussaka của ông ấy đi. Về y khoa, chị không ăn…”
“Vì cô đã nói chuyện y khoa, ‘Bác sĩ Fenby’, tôi biết cái tên đó nghe quen mà. Tôi đã kiểm tra với Tom Ballantyne, bác sĩ gia đình cũ của tôi. Cô từng đến nhà tôi ở Rye, khi tôi gần chết vì ung thư. Nếu muốn, tôi có thể khiến cô bị rút giấy phép hành nghề.”
“Nếu tôi có làm gì sai trái, tôi sẽ tự rút giấy phép trước.”
Holly vừa tức tối vừa khó hiểu. “Tại sao cô đến nhà tôi?”
“Tư vấn cho Tom Ballantyne. Khi đó tôi có tham gia thử nghiệm thuốc các loại thuốc kháng thể kết hợp ADC ở Toronto, Tom và tôi nghĩ rằng bệnh ung thư túi mật của chị có thể đáp ứng thuốc tích cực. Quả có thế.”
“Cô nói cô là bác sĩ tâm thần, không phải bác sĩ chuyên khoa ung thư.”
“Tôi là một nhà tâm thần học có nghiên cứu một số lĩnh vực khác.”
“Vậy bây giờ ý cô là tôi nợ cô mạng sống của mình sao?”
“Không hề. Hoặc chỉ nợ một phần thôi. Hồi phục từ ung thư là một quá trình toàn diện, và mặc dù thuốc ADC góp phần làm thuyên giảm bệnh ung thư của chị, nó không phải là tác nhân chữa lành duy nhất, tôi nghĩ thế.”
“Vậy… cô quen Tom Ballantyne trước khi tôi được chẩn đoán có bệnh? Hay… hay… cô đã theo dõi tôi bao lâu rồi?”
“Chỉ thi thoảng, kể từ khi mẹ chị đưa chị đến phòng khám ở Bệnh viện đa khoa Gravesend năm 1976.”
“Cô có nghe mình nói gì không? Vậy mà công việc của chị là đi chữa cho người ta khỏi loạn thần và ảo tưởng? Bây giờ, lần cuối cùng, tại sao cô lại gởi cho tôi một tấm hình đã chỉnh của một gã bạn trai rất cũ, quen rất chóng vánh?”
“Tôi muốn chị nghĩ đến một khả năng, rằng trong một số trường hợp hiếm hoi, điều khoản cơ bản của sự sống, tức ‘Có sinh có diệt’, có thể được thương lượng lại”
Tất cả những giọng nói trong quán Santorini Café, những câu chuyện phiếm, những đùa cợt, phỉnh phờ tán tỉnh, càm ràm rên rỉ, tất cả đã trở thành một thác nước âm thanh bên tai tôi.
Holly hỏi, “Bác sĩ Fenby, cô theo Khoa luận giáo phải không?”
Tôi cố không cười. “Với những người tin vào L.Ron Hubbard và Xenu Lãnh chúa xuyên Ngân Hà thì bác sĩ tâm thần là hạng đáng bị vứt vào hố phân.”
“Trường sinh bất tử …” cô hạ giọng “…là chuyện cóc-có-thật.”
“Nhưng Vô Thời Tính, với điều khoản đi kèm, lại có thật.”
Holly nhìn quanh, rồi trở lại. “Điên rồ không tưởng.”
“Người ta cũng nói về chị như thế sau khi Người Trên Đài được xuất bản.”
“Nếu được, tôi muốn rút lại cuốn sách khốn nạn đó, nếu được tôi đã làm thế. Hơn nữa, tôi không còn nghe những giọng nói đó. Kể từ khi Crispin mất. Mà đó cũng chẳng phải chuyện của cô.”
“Khả năng tiền thức đến rồi đi,” tôi lấy ngón út vun tém những hạt đường đổ ra bàn, “một cách bí ẩn, như chứng dị ứng hay mụn nhọt.”
“Bí ẩn lớn với tôi là tại sao tôi vẫn còn ngồi đây.”
“Đoán xem ai là thầy dạy Hugo trong tà phái.”
“Sauron. Chúa tể Voldemort. John Dee. Louis Cypher. Ai?”
“Một người bạn cũ của chị. Immaculée Constantin.”
Holly xát ngón tay lên vết son dính trên tách. “Tôi chưa bao giờ biết tên của bà ấy. Trong sách bà ấy chỉ là ‘Cô Constantin’. Và trong đầu tôi cũng thế. Tại sao cô lại đi bịa ra cái tên đó?”
“Tôi không bịa. Là tên của bà ta thật. Hugo là một trong những học trò xuất sắc nhất của Constantin. Hắn rất giỏi chăn dắt, và có tâm biệt năng đáng nể chỉ sau ba thập kỷ theo U Minh Phái.”
“Bác sĩ Iris Marinus-Fenby, cô đang ở hành tinh nào thế?”
“Cùng một hành tinh với chị. Giờ đây Hugo Lamb hầu như chỉ săn mồi, như Constantin từng săn chị. Và nếu bà ta đã không khiến chị sợ hãi mà đi kể lại với người lớn, để Yu Leon Marinus biết và chủng ngừa cho chị, thì bà ta đã bắt cóc chị chứ không phải Jacko.”
Tiếng nói cười và tiếng dao nĩa loảng xoảng xung quanh lớn hẳn lên.
Ở bàn sau lưng, một cô gái đang tống tiễn bạn trai bằng tiếng Ả Rập Ai Cập.
“Nghe đây, tôi…” Holly miết tay lên sống mũi “…muốn đánh cô. Thật mạnh. Cô là gì hả? Một thể loại loạn trí, lắm chuyện, rao bán hoang tưởng… Tôi… Tôi… Tôi không còn từ nào diễn tả cô được nữa.”
“Chúng tôi rất tiếc về sự xâm phạm này, thưa chị Sykes. Nếu còn cách nào khác, chúng tôi đã không ngồi đây.”
“Chính xác thì ‘Chúng tôi’ là ai?”
Tôi hơi thẳng lưng lên. “Chúng tôi là Trắc Thời Phái.”
Holly thở hắt ra một hơi dài, thật dài, ý như Tôi phải bắt đầu từ đâu đây? “Xin chị.” Tôi đặt một cái chìa khóa màu xanh cạnh đĩa tách của Holly. “Cầm cái này đi.”
Cô nhìn nó, rồi nhìn tôi. “Cái gì vậy? Mà tại sao tôi phải cầm?”
Một cặp bác sĩ trẻ mặt mũi hốc hác vì thức khuya bước vào, nói chuyện tiên lượng y khoa. “Chìa khóa này mở ra cánh cửa đến những câu trả lời và bằng chứng mà chị cần và đáng được có. Một khi vào bên trong, chị đi lên cầu thang ra vườn trên nóc nhà. Chị sẽ thấy tôi ở đó với một vài người bạn.”
Cô uống hết ly cà phê. “Chuyến bay về của tôi cất cánh lúc ba giờ chiều ngày mai. Tôi sẽ lên máy bay. Cô giữ lại nó đi.”
“Holly,” tôi nhẹ nhàng, “Tôi biết chị đã gặp vô số những kẻ điên khùng, nhờ cuốn Người Trên Đài. Tôi biết miếng mồi Jacko từng được đưa ra dụ dỗ chị. Nhưng xin chị. Cứ cầm chìa khóa này đi. Phòng khi tôi nói thật. Khả năng một phần nghìn, tôi biết chứ, nhưng biết đâu đó. Đến sân bay, chị vứt nó đi cũng được, nếu chị muốn, nhưng lúc này đây, hãy cầm nó lên. Có hại gì đâu?”
Holly nhìn vào mắt tôi vài giây, rồi đẩy chiếc tách đã cạn và đĩa ra xa, đứng dậy, vơ chìa khóa từ mặt bàn và bỏ vào túi xách. Cô đặt hai đô la lên tấm hình Hugo Lamb. “Vậy là tôi không nợ cô gì cả.” cô lẩm bẩm.
“Đừng gọi tôi là ‘Holly’ thân mật thế. Chào.”