← Quay lại trang sách

3 Tháng Tư

Không khí ở ga Poughkeepsie buốt hơn ở ga Grand Central, nhưng mặt trời đã ló dạng, chút mưa tuyết cuối cùng của mùa đông dài trên sân ga đang dần tan. Một nhóm sinh viên đang tán chuyện đi trượt băng ở châu Âu, thực tập ở Bảo tàng Guggenheim và các bệnh lây từ thú sang người; tôi đi qua cầu cho người đi bộ, cửa xoay, phòng chờ kiểu những năm 1920 như bên trong nhà thờ rồi ra đến lề đường, nơi một người phụ nữ lớn hơn tôi chừng vài tuổi đang đứng đợi cạnh chiếc Chevrolet lai điện, mặc áo xốp không tay màu đen và cầm biển chờ BÁC SĨ I. FENBY. Mái tóc xù nhuộm màu nâu đỏ, nhưng chân tóc bạc bắt đầu lộ ra, cặp kính gọng màu lam ngọc càng làm nổi bật vẻ xanh xao đau ốm. Một người ác ý có lẽ sẽ mô tả gương mặt ấy như một bữa tiệc vắng khách. “Chào chị,” tôi nói. “Tôi là bác sĩ Fenby.”

Người lái xe căng thẳng. “Cô là bác sĩ Fenby? Là cô sao?”

Tại sao lại ngạc nhiên? Vì tôi da đen? Trong một thành phố đại học vào những năm 2020? “Vâng… Không có vấn đề gì chứ?”

“Không. Không. Không. Mời cô lên xe. Cô chỉ có chừng đó hành lý thôi sao?”

“Tôi chỉ đi trong ngày.” Vẫn thấy khó hiểu, tôi chui vào chiếc Chevrolet. Chị ta vào sau vô-lăng và cài dây an toàn. “Vậy đi thẳng tới trường Blithewood, đúng không bác sĩ Fenby?” Giọng nói đầy triệu chứng bệnh phế quản.

“Đúng thế.” Tôi đã hơi nhạy cảm quá với phản ứng ban đầu của chị ta chăng? “Cho tôi xuống chỗ nhà hiệu trưởng, nếu chị biết chỗ đó.”

“Không thành vấn đề. Tôi chở ông Stein đi về cũng phải đến một trăm lần. Hôm nay cô đến gặp hiệu trưởng hay sao?”

“Không. Tôi gặp… một người khác.”

“Được rồi.” Thẻ tài xế ghi tên “Wendy Hanger”. “Vậy ta đi thôi. Chevrolet: khởi động.” Chiếc xe tự khởi động, đèn xi-nhan chớp, xe chuyển bánh. Ảnh trên thẻ của Wendy Hanger cũng có cái vẻ bần thần đó. Có lẽ cuộc đời chưa bao giờ cho phép chị ta thôi dè chừng. Có lẽ chị ta vừa làm ca mười bốn tiếng. Có lẽ chị ta đã uống quá nhiều cà phê.

Xe qua bãi đỗ, vài điểm thay lốp và ống xả, một siêu thị Walmart, một trường học và một xưởng đúc nhựa. Tài xế của tôi thuộc loại im lặng, cũng hợp với tôi. Suy nghĩ của tôi dạt về cuộc gặp gỡ tối qua tại phòng khách nhà 119A. Unalaq là dân bản địa, đến trước tôi; Ōshima bay lên từ Argentina; Arkady, giờ đây mười tám tuổi, đi lại dễ dàng hơn, đến từ Berlin, Roho từ Athens và L’Ohkna từ Bermuda. Đã nhiều năm kể từ lần cuối tất cả tụ họp về một nơi. Sadaqat chịu nhận Đoạn Lệnh, cả hội bắt đầu. Năm đồng nghiệp lắng nghe tôi trình bày chi tiết chuyến viếng thăm của Elijah D’Arnoq hai đêm trước tại căn nhà ở Kleinburg, nguyện vọng đào ngũ của hắn, và Sứ Mệnh Thứ Hai vừa được đề xuất. Hiển nhiên, tất cả đều thấy ngờ vực.

“Sớm thế ư?” Roho hỏi, chăm chú nhìn qua hai bàn tay đan vào nhau thành lọng che trước trán, ngón tay thon, đen và xương xẩu như phần thân mình còn lại. Roho mày râu nhẵn nhụi, trong một cơ thể Ai Cập. Tưởng chừng như anh có thể lọt qua những kẽ hẹp mà người ta còn không dám nghĩ đến. Mặc dù vẫn còn trẻ so với một Trắc Sĩ đang ở lần tái sinh thứ năm, nhưng dưới sự dìu dắt của Ōshima, Roho đang dần trở thành một tay song đấu cừ khôi. “Sứ Mệnh Thứ Nhất mất năm năm để lên kế hoạch, và kết thúc thảm họa. Lên kế hoạch một Sứ Mệnh Thứ Hai trong chỉ vài ngày thì…” Roho nhăn mũi và lắc đầu.

“Như lời D’Arnoq thì mọi việc thật quá dễ dàng,” Unalaq nhận xét. Cuộc đời đầu tiên của một người Inuit ở Bắc Alaska đã nhuộm đẫm linh hồn chị với phương bắc xa xôi, không hề phai nhạt; nhưng thân thể hiện tại chừng ba lăm tuổi của Unalaq lại thuần chất dân Ireland tóc đỏ ngụ tại Boston; dù thế, làn da lốm đốm tàn nhang vẫn khiến người ta không thể đoán ngay được chủng tộc. “Quá dễ dàng.”

“Có vẻ như chúng ta đồng ý,” Ōshima lên tiếng. Ōshima là một trong những Trắc Sĩ lớn tuổi nhất, cả về linh hồn khởi phát từ nước Nhật thế kỷ mười ba và về cơ thể từ những năm 1940 ở Kenya. Cách anh ăn mặc như muốn nhấn mạnh thứ mà Roho gọi là “phong cách tay trống jazz thất nghiệp”- áo choàng cũ và mũ nồi đã sờn. Tuy vậy, khi song đấu, Ōshima nguy hiểm hơn bất kỳ Trắc Sĩ nào. “Đề xuất của D’Arnoq nhìn đâu cũng thấy từ ‘bẫy’ viết chồng lên đó, bằng đèn chớp nháy.”

“Nhưng D’Arnoq đã để Marinus phân linh hắn,” Arkady nhận xét. Đối lập hoàn toàn với hiện thân Á Đông trong lần tái sinh trước, linh hồn Arkady giờ đây ngụ trong một cơ thể nam giới người Hungary, xương to, cao lêu khêu, tóc vàng, dễ nổi mụn và vẫn chưa vỡ giọng hoàn toàn. “Rồi vụ dằn vặt, đau khổ vì đứa bé Brazil đó,” Arkady kiểm tra lại một lần nữa với tôi, “chị đã định vị được những thứ đó trong ký ức hiện tại hoàn thành của hắn chứ? Mà chị có chắc là thật không?”

“Vâng,” tôi ghi nhận ý kiến ấy, “mặc dù có thể những ký ức ấy đã được cấy ghép. Ẩn Sĩ hẳn biết rằng ta sẽ không thu nạp một kẻ đào ngũ trước khi phân linh kỹ càng. Hoàn toàn có thể là D’Arnoq tự nguyện để Pfenninger biến mình thành kẻ phản bội U Minh Phái, để hắn thực sự tin vào cuộc đào ngũ giả tạo đó…”

“Rồi cứ thế mà dẫn ta thẳng một đường đến pháp trường trong Nhà Nguyện,” Ōshima đồng ý, “nơi Pfenninger rút lại nỗi ăn năn nhân tạo của D’Arnoq và tâm-diệt mọi Trắc Sĩ hắn đã lừa vào đó. Phải thừa nhận là thông minh đấy chứ. Nghe có vẻ như thủ đoạn của Constantin.”

“Tôi bỏ phiếu chống.” L’Ohkna đang ngụ trong cơ thể một người gốc Ulster da trắng xanh, béo, hói, chừng ba lăm tuổi. L’Ohkna là Trắc Sĩ trẻ nhất, từng được Xi Lo tìm thấy trong một công xã ở bang New Mexico hồi những năm 1960 trong lần tái sinh đầu tiên. Mặc dù tâm áp còn khá hạn chế, L’Ohkna lại là kiến trúc sư chính của Mạng Internet Sâu hay còn gọi là Mạng Âm “Nethernet”. Hàng tá bí danh của anh đang bị các cơ quan tình báo lớn trên Trái Đất truy lùng trong vô vọng. “Đi sai một bước, Trắc Thời Phái sẽ chết. Có thế thôi.”

“Nhưng chẳng phải kẻ thù cũng đang rất liều lĩnh đó sao?” Unalaq hỏi. “Biến một trong những nguồn tâm biệt năng mạnh nhất của chúng thành kẻ chống lại Ẩn Sĩ và Thầy Cathar Mù?”

“Đúng thế,” Ōshima đồng ý, “nhưng chúng biết mình đang làm gì. Chúng cần dụ dỗ ta bằng một phần thưởng hấp dẫn và một miếng mồi ngon. Nhưng nói đi, Marinus: chị nghĩ gì về màn dạo đầu bất ngờ này?”

“Tôi nghĩ đây là một cuộc phục kích, nhưng ta cứ nên chấp nhận, rồi từ bây giờ đến Sứ Mệnh Thứ Hai, ta hãy tính kế phục kích lại cuộc phục kích đó. Ta sẽ chẳng bao giờ thắng Chiến Tranh chỉ bằng vũ lực. Mỗi năm ta cứu được vài người, nhưng cứ nhìn Oscar Gomez mà xem, bị bắt cóc từ một bệnh viện an ninh chặt chẽ, do chính học trò của tôi đứng đầu. Nhờ truyền thông xã hội, các chakra động liên tiếp lộ ra trước khi ta kịp chủng ngừa. Trắc Thời Phái đang dần trở nên bất lực. Ta không có đủ người. Mạng lưới của ta đang yếu dần đi.”

Arkady lên tiếng phá tan sự im lặng ủ dột. “Nếu chị nghĩ như vậy, hẳn kẻ thù cũng sẽ nghĩ thế. Tại sao Pfenninger lại liều lĩnh đưa ta vào chỗ của Thầy Cathar Mù nếu hắn có thể án binh bất động mà chờ ta chết dần?”

“Bởi chứng tật lớn nhất của lão: hợm hĩnh. Pfenninger muốn diệt trừ Trắc Thời Phái bằng một màn tàn sát hoành tráng, vậy nên hắn đưa cái bẫy này cho ta, cho kẻ thù đang tuyệt vọng. Nhưng cái bẫy cũng cho ta một cửa sổ thời gian eo hẹp ở bên trong Nhà Nguyện. Cơ hội như thế sẽ không đến lần nữa.”

“Vậy ta làm gì với cửa sổ thời gian eo hẹp đó,” L’Ohkna phản biện, “trừ việc nằm lên thớt, cả xác lẫn hồn?”

“Việc đó,” tôi thừa nhận, “tôi không thể trả lời được. Nhưng tôi đã nghe từ một người có thể biết câu trả lời. Tôi không dám nói chuyện này bên ngoài nhà 119A, nhưng bây giờ ta đã ở cả đây, xin các anh chị lắng nghe một cố nhân…” Tôi lấy ra một chiếc máy Walkman cổ lỗ sĩ và lắp băng cassette BASF vào.

Ngón tay của Wendy Hanger như gõ trống trên vô lăng khi bốn làn xe băng qua giao lộ. Chị ta không đeo nhẫn. Đèn chuyển màu xanh, nhưng chị ta không để ý cho đến khi xe tải phía sau nhấn còi inh ỏi. Chị ta lái đi, xe chết máy, liền lẩm bẩm, “Ôi trời đất, Chevrolet, khởi động” Xe chạy, ngang qua một siêu thị nội thất Home Depot lớn, chẳng mấy chốc Poughkeepsie đã lùi lại phía sau. Tôi hỏi. “Chừng bao lâu thì đến Blithewood?”

“Ba mươi, bốn mươi phút.” Wendy Hanger thảy một thỏi kẹo cao su nicotine vào miệng, cơ ức đòn chũm gợn sóng với mỗi cử động nhai. Con đường uốn lượn giữa hàng cây, dưới tán cây. Những nụ hoa như chực bung nở. Một biển báo RED HOOK 7 DẶM. Xe vượt qua hai xe đạp, và Wendy Hangers lấy hết can đảm: “Bác sĩ Fenby, tôi có thể… có thể hỏi cô một câu được không?”

“Chị hỏi đi.”

“Câu hỏi này sẽ nghe rất điên khùng.”

“Thật may cho chị, chị Hanger à. Tôi là bác sĩ tâm thần.”

“Cái tên ‘Marinus’ có ý nghĩa gì với chị không?”

Tôi không dự trước được điều này. Chúng tôi không giấu tên thật, nhưng mặt khác, cũng không cố tình phổ biến. “Tại sao chị hỏi vậy?”

Wendy Hanger thở mệt nhọc. “Không biết tại sao, nhưng tôi biết. Nghe này, tôi… tôi… xin lỗi, tôi phải cho xe dừng lại.” Đến khúc quanh tiếp theo một góc đỗ xe xuất hiện thật đúng lúc, với ghế băng và tầm nhìn bao quát khu rừng dốc xuống sông Hudson. Wendy Hanger quay người lại. Chị ta mồ hôi nhễ nhại, mắt mở trợn. Móc treo tẩm nước hoa hình cá heo trong xe đung đưa theo những cung nhỏ dần. “Cô có biết một người tên Marinus không - hay chính cô là Marinus?”

Hai người đi xe đạp vừa bị vượt lúc nãy chạy vèo qua.

“Tôi có dùng tên đó ở một vài nơi,” tôi đáp.

Gương mặt chị ta run rẩy. Trên mặt có sẹo do mụn khi còn trẻ. “Lạy thánh.” Chị ta lắc đầu. “Khi đó hẳn cô còn chưa sinh ra. Trời đất, tôi phải làm một điếu.”

“Đừng trút stress lên phế quản chứ, chị Hanger. Cứ tiếp tục dùng kẹo đi. Rồi. Bây giờ chị nợ tôi một lời giải thích.”

“Đây không phải…” chị ta nhướng mày “…không phải là một vụ dàn dựng gì chứ?”

“Tôi ước gì nó là thế, nếu vậy tôi đã biết chuyện gì đang xảy ra?”

Vẻ nghi ngờ, lo lắng và sửng sốt lần lượt hiện ra trên gương mặt Wendy Hanger, nhưng không rõ cuối cùng là gì. “Được rồi, thưa bác sĩ. Chuyện là thế này. Khi tôi còn trẻ, ở Milwaukee, tôi sa ngã. Chuyện gia đình, một vụ ly hôn… lạm dụng chất cấm. Chị cùng cha khác mẹ đá tôi ra đường, đến một ngày, nếu thấy tôi, các bà mẹ sẽ… sẽ cố đẩy con qua bên kia đường, chỉ để tránh mặt. Khi đó tôi…” Chị ta ngần ngại. Kỷ niệm xưa dường như vẫn còn đau đớn.

“Từng là một con nghiện,” tôi bình tĩnh tiếp, “cũng có nghĩa rằng bây giờ chị đã khỏi bệnh.”

Wendy Hanger nhai kẹo vài lần. “Có lẽ thế. Giao thừa năm 1983, nơi nơi đèn đóm sáng ngời… khi đó tôi chưa khỏi bệnh gì cả. Tôi sa ngã cùng đường, phá cửa vào nhà chị tôi, tìm thuốc ngủ, uống hết một lọ thuốc với nửa lít Jim Beam. Trên tivi đang chiếu phim The Towering Inferno, khi tôi đang… đang ngất đi. Chị đã bao giờ xem phim đó chưa?” Trước khi tôi kịp trả lời, một chiếc xe thể thao vụt qua và Wendy Hangers rùng mình. “Tôi thức dậy trong bệnh viện với ống thông dạ dày và cổ họng. Hàng xóm chị tôi thấy tivi bật, nên chạy sang và thấy tôi. Gọi xe cấp cứu chỉ vừa kịp. Người ta cứ nghĩ là thuốc ngủ không gây đau đớn, nhưng không đúng. Trước đó tôi không ngờ rằng dạ dày có thể đau đến vậy. Tôi ngủ, tỉnh dậy, ngủ tiếp. Rồi tôi tỉnh dậy trong khoa người già, tôi sợ khiếp vía vì nghĩ là mình đã già rồi,” Wendy Hanger bật cười chua chát, “và đã bất tỉnh bốn mươi năm, giờ đây lụ khụ. Nhưng có một người đàn bà ở đó, ngồi cạnh giường tôi. Tôi không biết bà ấy là nhân viên hay bệnh nhân hay tình nguyện viên, nhưng bà ấy cầm tay tôi rồi nói, ‘Tại sao cô lại ở đây, cô Hanger?’ Tôi nghe tiếng bà ấy. ‘Tại sao lại ở đây hả Wendy?’ Giọng bà ấy ngồ ngộ, như người nước ngoài, nhưng… nhưng tôi không biết là nước nào. Bà ấy không phải người da đen, nhưng cũng không hẳn là da trắng. Bà ấy… tử tế, như một… một thiên thần giản dị, một người sẽ không la rầy hay phán xét ta vì những gì ta đã làm, hay vì những gì cuộc đời đã làm với ta. Và tôi… tôi nghe giọng mình kể với bà ấy những chuyện tôi…” Wendy Hanger nhìn mu bàn tay “…tôi chưa bao giờ kể với ai. Đột nhiên đã đến nửa đêm. Bà ấy mỉm cười với tôi và nói, ‘Những ngày tồi tệ nhất đã qua. Chúc Mừng Năm Mới.’ Và… tôi tự dưng òa khóc. Tôi không biết vì sao.”

“Bà ấy có nói tên với chị không?” Đôi mắt Wendy như đánh đố.

“Tên bà ấy là Esther Little, phải không Wendy?”

Wendy Hanger hít sâu: “Bà ấy nói cô sẽ biết điều đó. Bà ấy nói cô sẽ biết. Nhưng hồi năm 1984 hẳn cô còn rất bé. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Làm sao… Trời đất.”

“Esther Little có nhờ chị chuyển lời nhắn cho tôi không?”

“Có, có, thưa tiến sĩ. Bà ấy nhờ tôi, một con nghiện vô gia cư vừa cố tự sát, mà bà ấy chỉ mới quen chừng… chừng hai ba tiếng đồng hồ, chuyển lời nhắn cho một đồng nghiệp tên Marinus. Tôi… tôi… tôi hỏi, “Thế ‘Marinus’ là tên riêng, là họ, hay là biệt danh?” Nhưng Esther Little nói, “Marinus là Marinus,” và nhờ tôi nói với cô… nói với cô…”

“Tôi nghe đây chị Wendy. Chị nói đi.”

“Ba giờ, Ngày của Ngôi Sao Riga.”

Cả thế giới lặng phắt. “Ba giờ, Ngày của Ngôi Sao Riga?”

“Không hơn không kém một từ.” Chị ta nhìn tôi.

Ngôi sao Riga. Tôi biết mình từng biết cụm từ ấy, tôi lục tìm trong trí nhớ, nhưng ngón tay tôi như lướt xuyên qua nó. Không. Tôi phải kiên nhẫn.

“‘Riga’ chẳng có nghĩa gì cả,” Wendy Hanger nhai mẩu kẹo hẳn chẳng còn chút vị nào, “khi tôi còn nằm trên giường bệnh ở Milwaukee, vậy là tôi nhờ bà ấy đánh vần rõ ra: R-I-G-A. Rồi tôi hỏi bà ấy tôi phải tìm Marinus ở đâu, để chuyển lời nhắn. Esther đáp không, chưa phải lúc. Tôi hỏi vậy khi nào thì đến lúc. Rồi bà ấy nói,” Wendy Hanger nuốt khan, động mạch cảnh đập nhanh. “Ngày cô trở thành một người bà.”

Thật đúng là Esther Little. “Chúc mừng chị,” tôi nói với Wendy Hanger. “Cháu trai hay cháu gái?”

Phản ứng của tôi khiến chị ta trông càng lo lắng. “Con gái. Con dâu tôi sinh ở Santa Fe, sáng sớm hôm nay. Hai tuần nữa mới đến ngày dự sinh, nhưng Rainbow Hanger ra đời chỉ sau nửa đêm. Bố mẹ nó là dân hippie. Nhưng, cô phải… Ý tôi là, tôi nghĩ có khi Esther bị mất trí chập chờn, hay… Trời đất ơi. Người tỉnh táo bình thường ai lại đi nhờ vả kỳ quặc vậy, chưa nói đến chuyện nhờ một con nghiện vừa nuốt hết một trăm viên thuốc ngủ? Tôi có hỏi bà ấy. Esther nói rằng con nghiện trong tôi đã chết, nhưng con người thật của tôi thì sống sót. Từ giờ trở đi tôi sẽ ổn, bà ấy nói. Bà ấy nói rằng lời nhắn ‘Riga’ và ngày đã định được viết bằng bút không phai, và vào đúng ngày ấy, nhiều năm nữa, Marinus sẽ đến tìm tôi, nhưng với cái tên khác và…” Wendy Hanger sụt sùi, nước mắt giàn giụa. “Tại sao tôi lại khóc nhỉ?” Tôi đưa cho chị ta một gói khăn giấy.

“Bà ấy còn sống không? Nếu còn, hẳn bà ấy… già lắm.”

“Người mà chị gặp đã qua đời.”

Người vừa được làm bà gật đầu, không ngạc nhiên. “Thật đáng tiếc. Tôi muốn cảm ơn bà ấy. Tôi nợ bà ấy rất nhiều.”

“Nợ ra sao kia?”

Wendy Hanger có vẻ ngạc nhiên, nhưng quyết định kể với tôi. “Sau đó tôi ngủ gục, không tỉnh dậy nữa cho đến sáng. Esther đã đi khỏi. Y tá mang bữa sáng đến và nói lát nữa người ta sẽ chuyển tôi đến phòng riêng. Tôi nói hẳn là có sự nhầm lẫn, vì tôi không có bảo hiểm, nhưng y tá nói, ‘Bà của cưng đã trả hết chi phí, cưng à,’ và tôi nói, ‘Bà nào kia?’ Y tá mỉm cười như thể tôi vừa bị choáng, rồi nói, ‘Bà Little, đúng không?’ Rồi sau đó, trong phòng riêng, y tá mang vào cho tôi một… một cái kẹp hồ sơ màu đen có khóa miệng. Bên trong là một thẻ Ngân hàng Hoa Kỳ với tên tôi trên đó, một chìa khóa cửa và vài thứ giấy tờ. Chính là,” Wendy Hanger thở dài nặng nhọc, “giấy tờ của một ngôi nhà ở Poughkeepsie. Đứng tên tôi. Hai tuần sau tôi được ra viện ở Milwaukee. Tôi đến chỗ chị tôi, xin lỗi vì đã cố tự tử trên ghế sofa của chị ấy, và nói là tôi sẽ đi về phía đông, để mà… cô biết đó, làm lại từ đầu, ở đó không ai biết tôi. Tôi nghĩ hẳn chị tôi thấy nhẹ cả người. Hai chuyến xe Greyhound sau đó, tôi bước vào nhà mình ở Poughkeepsie… Ngôi nhà mà một bà tiên đỡ đầu có thật trên đời vừa tặng tôi. Chớp mắt mà đã hơn bốn mươi năm. Tôi vẫn còn sống ở đó, và cho đến ngày nay chồng tôi vẫn tin rằng đó là món quà từ một bà dì lập dị. Tôi chưa bao giờ kể sự thật với ai. Nhưng mỗi lần tôi vặn chìa khóa nhà, tôi nghĩ đến bà ấy, tôi nghĩ, ‘Ba giờ, Ngày của Ngôi Sao Riga’, và hầu như mỗi giờ sau khi tôi biết con dâu có thai, tôi đều tự hỏi liệu tôi sẽ gặp một Marinus… Sáng hôm nay… trời đất, tôi bấn loạn! Ngày tôi trở thành một người bà. Chồng tôi bảo tôi hãy nghỉ ở nhà, vậy là tôi xin nghỉ. Nhưng Carlotta, người điều hành công ty taxi, gọi máy nói rằng Jodie bị trặc cổ chân còn con của Zeinab thì bị sốt, vậy nên, làm ơn, làm ơn, làm ơn, giúp họ đến ga để đón bác sĩ I. Fenby? Và cô biết không, chẳng có lý gì cô lại là Marinus, nhưng khi thấy cô, tôi…” chị ta lắc đầu “…biết. Vậy nên tôi mới thần hồn nát thần tính thế. Xin lỗi cô.”

Những vệt nắng run rẩy. “Không sao. Cảm ơn chị.”

“Lời nhắn Riga đó. Cô có hiểu không?”

Tôi phải cẩn thận. “Hiểu một phần. Có thể sẽ hiểu.”

Wendy Hanger nghĩ đến mạng lưới tội phạm, FBI, Mật mã Da Vinci… nhưng mỉm cười, ngượng ngùng. “Tôi chịu, chịu thôi, nhỉ? Cô biết không, tôi thấy… nhẹ nhàng hẳn.” Chị ta chặm mắt bằng cổ tay, thấy mấy vệt phấn mắt lem, liền kiểm tra lại trong gương. “Như Quái vật từ Phá Nước Đen! Phiền cô cho tôi… cho tôi sửa soạn lại chút?”

“Tôi sẽ đi dạo, chị cứ thong thả.” Tôi ra khỏi xe và bước về phía ghế băng. Tôi ngồi xuống, nhìn dòng sông Hudson oai nghiêm ở dãy núi Catskill, rồi xuất linh, vận linh trở ngược vào xe và nhập linh Wendy. Đầu tiên tôi xóa hết tất cả ký ức từ khi xe dừng lại. Rồi tôi lần theo linh tuyến ký ức trở về bốn mươi mốt năm trước, ở một bệnh viện Milwaukee. Xóa đi ký ức về Esther khiến tôi cảm thấy đau đớn, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Người đưa tin sẽ quên đi thông điệp mà mình mang theo chừng đó năm, và những gì khác mà chị ta vừa nói với tôi. Sẽ có những lúc chị ta lo lắng về một khoảng trống trong ký ức, nhưng một suy nghĩ vẩn vơ khác sẽ vờn đến, nhảy nhót và tâm trí không được rèn luyện ấy sẽ mất tập trung mà đuổi theo nó…

Wendy Hanger để tôi xuống xe ở vòng xoay có những cụm hoa thủy tiên trong khuôn viên trường Blithewood, ngay bên dưới nhà hiệu trưởng có dây trường xuân phủ như mạch máu. “Rất hân hạnh, Iris.”

“Cảm ơn chị rất nhiều, Wendy. Chị đã cho tôi được tham quan một chuyến thật chu đáo.”

“Tôi thích giới thiệu thành phố với những người thích nó mà, đặc biệt là vào ngày đầu tiên trong mùa xuân.”

“À, tôi biết trợ lý của tôi đã trả bằng thẻ nhưng…” Tôi đưa cho chị ta một tờ hai mươi đô la “…mua một chai gì đó uống mừng lên chức bà nhé.” Chị ta ngập ngừng, nhưng tôi ấn tờ bạc vào tay.

“Cô thật hào phóng, Iris. Tôi sẽ mua, và hai vợ chồng tôi sẽ uống chúc sức khỏe cô. Cô tự liệu được chuyến về chứ?”

“Tôi sẽ ổn. Bạn tôi sẽ lái xe đưa cả hai về New York.”

“Chúc cô có một buổi họp tốt, và một ngày vui, và nhớ tận hưởng ánh nắng. Dự báo nói mấy ngày tới sẽ thất thường lắm.” Wendy đánh xe đi, vẫy tay và khuất dạng. Tôi nghe giọng Ōshima ngân vang, ngầm-gọi tôi: Tìm Hội Nữ Sinh sao?”

Tôi cố tìm nhìn cho ra anh, nhưng chỉ thấy sinh viên băng qua thảm cỏ ngay ngắn, tay khệ nệ kẹp giấy và túi xách. Bốn người đàn ông đang khuân một chiếc piano. Ōshima, tôi vừa nhận được một mật hiệu từ Esther Little.

Cửa trước của nhà hiệu trưởng mở, Ōshima hiện ra, dáng người mảnh khảnh, tay đút sâu vào túi, anh mặc áo thun dày liền cổ dài đến đầu gối, trông như dân bụi đời. Mật hiệu gì kia?

Một chìa khóa có mã trí nhớ, tôi ngầm-đáp, bước về phía ngôi nhà. Những cụm hoa đuôi sóc ướt như phủ lông lên mấy cành cây liễu. Tôi chưa giải được, nhưng tôi sẽ giải ra. Có ai ở ngoài nghĩa trang không? Tôi cởi nút áo khoác.

Chỉ có sóc thôi, hết nhảy nhót đến nhảy nhau, Ōshima hất mũ áo ra sau và ngẩng gương mặt Kenya râu trắng, đã thất tuần, hứng lấy ánh nắng, cho đến chừng cách đây mười lăm phút. Đi theo lối dẫn lên phía trái chị, tính từ chỗ tôi đang đứng.

Tôi qua mặt Ōshima trong vài thước. Ta có biết người đó không?

Cứ đi rồi biết. Cô ấy choàng khăn quấn đầu Jamaica.

Tôi đi theo lối đã chỉ: Khăn quấn đầu Jamaica là cái gì thế?

Ōshima đóng cửa lại sau lưng rồi đi theo hướng ngược lại. Hò lơ một tiếng nếu cần tôi.

Dưới chân lá cũ vỡ vụn lép nhép; trên đầu, lá mới nảy rộ, nứt ra từ những chồi cây chín muồi, khu rừng cây như cài Bluetooth ngập tiếng chim hót. Tại một gốc cây to cỡ chân khủng long, tôi thấy một tấm bia mộ. Rồi một tấm nữa, rồi một tấm nữa, phủ đầy dây trường xuân. Nghĩa trang trường Blithewood không phải ma trận ngay ngắn của người chết, mà là một cánh rừng với những ngôi mộ chìm giữa cây cối, nuôi nấng rễ thông, tuyết tùng, thủy tùng và phong. Chớp thị của Esther là chính xác: Những ngôi mộ giữa cây cối. Vòng qua một cây nhựa ruồi um tùm tôi bắt gặp Holly Sykes, rồi nghĩ thầm, Còn ai vào đây nữa? Tôi chưa gặp cô ấy kể từ lần ở Rye, bốn năm trước. Bệnh ung thư vẫn đang thuyên giảm nhưng trông cô chưa bao giờ hốc hác đến thế, nhìn đâu cũng thấy xương và gân. Khăn quấn đầu màu đỏ, xanh lục và vàng, như màu cờ Jamaica. Tôi dụi chân xuống lá để Holly biết có người đang đến, cô liền mang kính râm che gần hết mặt. “Chào chị,” tôi đánh liều.

“Chào cô” cô đáp lại, chừng mực.

“Xin lỗi đã làm phiền chị, nhưng tôi đang tìm mộ của Crispin Hershey.”

“Ngay đây.” Holly chỉ tay về phía phiến đá cẩm thạch trắng.

“Thật ngắn gọn,” tôi nhận xét, “Không một chút sáo ngữ.”

“Đúng thế, anh ấy vốn không thích văn vẻ hoa lá cành.”

“Và một nơi an nghỉ yên tĩnh, như tinh thần của Emerson,” tôi tiếp, “Tôi không thể hình dung nổi. Trang viết đậm chất thành thị, duyên hóm thâm thúy, nhưng tâm hồn lại điền dã. Khiến người ta nghĩ đến Trevor Upward trong Tiếng Vọng Phải Chết, ông ta chỉ thấy thanh thản giữa công xã đồng tính nữ trên Đảo Rác.”

Holly dò xét tôi qua mắt kính tối màu: lần trước gặp tôi cô ấy còn mơ màng vì phải uống rất nhiều thuốc, tôi không nghĩ là Holly còn nhớ tôi, nhưng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng: “Cô là đồng nghiệp của Crispin ở trường sao?”

“Không, không, tôi làm việc ở mảng khác. Nhưng tôi là một người hâm mộ. Tôi đã đọc đi đọc lại Phôi Thai Tan Tác.”

“Anh ấy vẫn ngờ rằng cuốn đấy sẽ sống lâu hơn mình.”

“Đạt được sự bất tử lại dễ hơn kiểm soát được những điều kiện đi kèm.” Một con giẻ cùi lam sà xuống gốc cây cụt mọc đầy nấm cạnh mộ của Hershey, tuôn một tràng giễu nhại chói tai, rồi bồi thêm một câu lảnh lót muốn hụt hơi.

“Ở quê tôi làm gì có thứ chim như vậy,” Holly nói.

“Giẻ cùi lam,” tôi đáp, “hay Cyanocitta cristata. Trong tiếng Algoquin là sideso, tiếng Yakama là xwáshxway, nhưng lãnh địa của chúng là bầu trời Thái Bình Dương, và đến đây thì tôi nói nhiều quá rồi.”

Holly tháo kính râm. “Cô là nhà ngôn ngữ học sao?”

“Mặc định là vậy thôi. Tôi là bác sĩ tâm thần, đến đây vì một cuộc gặp gỡ. Còn chị?”

“Tôi chỉ đến thăm mộ.” Holly cúi xuống, nhặt một chiếc lá sồi từ trên mộ rồi bỏ vào túi xách. “Rất vui được nói chuyện với cô. Chúc cô có cuộc gặp tốt đẹp.”

Con giẻ cùi lam lượn đi, kéo một đường chỉ giữa những dải sáng nắng và dải tối xanh rêu. Holly bắt đầu bước đi.

“Cho đến lúc này thì vẫn tốt đẹp, nhưng tôi e là sắp khó khăn hơn rồi.” Holly bất ngờ vì câu trả lời kỳ lạ của tôi, liền dừng bước.

Tôi hắng giọng. “Chị Sykes, ta cần nói chuyện.”

Như có cửa chớp đóng sập xuống, giọng Gravesend thô tháp bật ra. “Tôi không dính gì đến truyền thông, không tham gia lễ hội gì hết.” Cô lùi lại. “Tôi đã nghỉ hưu rồi, không làm những việc đó nữa.” Một cành thông quét xuống đầu Holly, cô thụp người xuống, căng thẳng. “Vậy nên, không, cô là ai đi nữa, cô …”

“Lần này là Iris Fenby, nhưng chị từng biết tôi dưới cái tên Marinus.”

Cô sững sờ, suy nghĩ, nhướng mày và tỏ vẻ kinh tởm. “Ôi lạy Chúa! Yu Leon Marinus chết năm 1984, ông ấy là người Trung Quốc, còn nếu chị mà có cha mẹ người Trung Quốc, thì tôi là… Vladimir Putin. Đừng bắt tôi phải vô lễ. Thật là láo xược.”

“Holly, bác sĩ Yu Leon Marinus đúng là không có con cái gì, và thân xác đó đã chết năm 1984. Nhưng linh hồn của ông ấy, nhân vật ‘tôi’ đang nói chuyện với chị đây lại chính là Marinus Thật Sự.”

Một con chuồn chuồn bay đến, rồi bay đi như vừa đổi ý. Holly đã quay bước. Ai biết được cô ấy đã gặp bao nhiêu Marinus, từ những kẻ điên khùng đến bọn lừa đảo, chỉ nhăm nhe chia phần tiền sách?

“Chị bị mất hai tiếng đồng hồ vào ngày 1 tháng Bảy năm 1984,” tôi gọi với theo, “giữa Rochester và Đảo Sheppey. Tôi biết chuyện gì đã xảy ra.”

Cô dừng lại. “Tôi cũng biết chuyện gì đã xảy ra!” Không kìm được, Holly quay lại đối mặt tôi, thực sự giận dữ. “Tôi vẫy xe. Một phụ nữ cho tôi quá giang, thả tôi xuống ở cầu Sheppey. Làm ơn, để tôi yên.”

“Ian Fairweather và Heidi Cross cho chị đi quá giang. Tôi biết chị biết những cái tên đó, nhưng chị không biết rằng mình đã ở nhà họ trong sáng hôm đó, trong ngày hôm đó, khi họ bị giết.”

“Sao cũng được! Đi mà đăng lên trang vớvẩnhoangtưởng.com. Bọn điên khùng sẽ chú ý đến cô như cô muốn.” Đâu đó một máy cắt cỏ bắt đầu rục rịch ồn ã. “Cô ngấu nghiến cuốn Người Trên Đài, nôn nó ra, trộn với bệnh của mình rồi âm thầm làm một chương trình thực tế cho chính mình. Như con bé khốn nạn đã bắn Crispin. Tôi đi đây. Đừng theo tôi, tôi sẽ gọi cảnh sát đấy.”

Chim chóc bay đi lượn lại, hót líu lo giữa những dải nắng.

Suôn sẻ thế, Ōshima - Kẻ Khuất Mặt Ưa Châm Biếm ngầm góp chuyện.

Tôi ngồi xuống gốc cây chỗ con giẻ cùi. Bắt đầu thế thôi.