5 Tháng Năm (tt)
Một vài ngày sau đó, Cha Dmitry đến gặp Sigorsky, người coi sóc lãnh địa, và ngỏ lời xin cho Klara được phép đến sống trong nhà của đức cha, để vợ cha có thể huấn dụ cô bé trở thành kẻ hầu hạ cho nhà Berenovksy và để cô bé được học hành sơ đẳng. Sigorsky đồng ý lời đề nghị khác thường đó, xem như đổi lại chuyện Cha Dmitry nhắm mắt làm ngơ những vụ lừa đảo của gã. Tôi không có gì mang theo khi đến căn nhà của gia đình Koskov, trừ chiếc áo dài thô, đôi guốc gỗ và một chiếc áo khoác da cừu bẩn thỉu. Tối hôm đó Vasilisa cho tôi được tắm bồn nước nóng, lần đầu tiên kể từ khi tôi chết ở Nhật, rồi cho tôi một áo dài sạch và một tấm chăn len. Cuộc lội ngược dòng bước đầu khá khả quan. Trong khi tôi đang tắm, mẹ của Klara xuất hiện, đòi một rúp tiền “bồi thường”. Cha Dmitry trả tiền, với điều kiện bà ta sẽ không bao giờ đòi thêm nữa. Sau đó tôi vẫn thấy bà quanh lãnh địa, nhưng bà không bao giờ nhìn mặt tôi, và mùa đông năm kế tiếp, bà say rượu và ngã vào con mương đông cứng một tối nọ, không bao giờ tỉnh dậy nữa.
Ngay cả một Vô Thời Khách lành tính cũng không thể cứu vớt tất cả.
Thật không hề khiêm tốn khi nói những lời này. Nhưng trong vai trò của một đứa con gái, mặc dù không có danh phận chính thức, tôi đã mang mục đích sống và tình yêu trở lại với nhà Koskov. Vasilisa mở lớp học trong nhà thờ để dạy cho con em nông dân nhận mặt chữ, làm tính sơ đẳng và Kinh thánh, đến tối lại dành thời gian dạy tiếng Pháp cho tôi. Lucas Marinus từng nói tiếng Pháp, nên tôi là một trò sáng dạ, học nhanh, làm bà rất vừa lòng. Năm năm trôi qua, tôi lớn như thổi, nhưng mỗi mùa hè khi Berenovksy về thăm, tôi lo ngại hắn sẽ để mắt đến tôi khi đi nhà thờ, và sẽ hỏi tại sao đứa nông nô của hắn lại được đối xử chẳng giống với phận tôi tớ. Nếu tôi muốn bảo vệ thành quả và tiếp tục lội ngược dòng, Mạnh Thường Quân của tôi cần có Mạnh Thường Quân của riêng mình.
Chú của Dmitry, Pyotr Ivanovich Chernenko là ứng cử viên hàng đầu, mà thực ra cũng là duy nhất. Nếu ở thời này ông ta sẽ được ca tụng như một doanh nhân đi lên từ hai bàn tay trắng, đời sống riêng tư sẽ tha hồ phơi trên mặt báo lá cải. Nhưng thời trai trẻ khi còn là một thanh niên sống ở St Petersburg thế kỷ mười chín, ông đã gây tai tiếng khi bỏ nhà theo gái, và tệ hơn là cưới luôn nữ diễn viên lớn hơn mình năm tuổi ấy. Thiên hạ hớn hở dự đoán một cuộc sống phóng đãng kéo theo kết cục suy đồi nhục nhã, nhưng Pyotr Ivanovich vừa khởi nghiệp đã làm nên chuyện bằng cách giao thương với người Anh, trong bối cảnh lệnh cấm vận toàn châu Âu lục địa mà Napoleon áp với nước Anh. Giờ đây ông vẫn tiếp tục ăn nên làm ra khi môi giới các lò nấu kim loại của người Phổ cho những xưởng đúc trên khắp vùng Ural. Cuộc hôn nhân vì tình yêu của ông vẫn bền vững, hai đứa con trai nhà Chernenko đang là sinh viên ở Gothenburg. Tôi thuyết phục Vasilisa mời Ông cậu Pyotr đến thăm nhà để kiểm tra lớp học của bà lần tới ông đến Perm.
Ông đến vào một sáng mùa thu. Tôi sắp xếp để mình tỏa sáng. Ông cậu Pyotr và tôi nói chuyện nguyên một giờ chỉ về luyện kim. Pyotr Ivanovich Chernenko là một người khôn ngoan, từng thấy từng học được nhiều thứ trong năm mươi năm cuộc đời, nhưng ông sững sờ trước một đứa con gái nông nô mà vô cùng thông thạo những lãnh vực nam tính như giao thương và nấu kim loại. Vasilisa nói rằng hẳn các thiên thần đã thì thầm vào tai tôi khi tôi ngủ. Làm sao tôi có thể học tiếng Đức và cả tiếng Pháp nhanh đến thế, rồi còn biết cách nắn xương gãy, rồi nắm vững cơ bản môn đại số? Tôi đỏ mặt và lí nhí về sách vở, các bậc trưởng thượng và những người giỏi hơn.
Đêm khi nằm trên giường tôi nghe Ông cậu Pyotr Ivanovich nói với Dmitry, “Chỉ cần một cơn giận của con lừa Berenovksy ấy, cháu trai ạ, chỉ cần có thế là con bé tội nghiệp sẽ phải sống cả đời trồng củ cải trong bùn đất đông đá và phải lấy một con lợn lòi làm chồng. Ta phải làm gì đó! Ta sẽ làm gì đó” cậu Pyotr lên đường ngày hôm sau trong màn mưa không dứt - mùa xuân và mùa thu là địa ngục bùn nhão ở nước Nga - trước khi đi cậu có nói với Dmitry rằng cả nhà Koskov đã bị đày quá lâu ở cái xứ quê mù này rồi…
Mùa đông năm 1816 thật tàn khốc. Dmitry chôn cất khoảng năm mươi nông dân trong đất cứng như sắt, sông Kama đóng băng, bầy sói trở nên dạn người hơn và đến các linh mục và gia quyến cũng đói ăn. Mùa xuân mãi không chịu về, cho đến giữa tháng tư. Xe ngựa đưa thư từ Perm cũng thôi những chuyến thường kỳ đến Orobino, cho mãi đến ngày 3 tháng Năm. Nhật ký của Klara Marinus đánh dấu ngày hôm đó là ngày hai bức thư trang trọng được gởi đến nhà của gia đình Koskov. Hai bức thư được đặt trên bệ lò sưởi, chờ Dmitry trở về lúc chiều muộn, sau khi làm thánh lễ an táng cho con trai của một người thợ mộc chết vì bệnh viêm màng phổi cách đó vài dặm. Dmitry mở lá thư đầu tiên bằng dao rọc giấy, gương mặt ông phản chiếu lại sự kiện trọng đại trong thư. Ông phùng má thở ra, rồi nói, “Cái này can hệ đến con, Klara,” và đọc to: ““Kiril Andreyevich Berenovksy, Lãnh chúa của Lãnh địa Berenovksy thuộc Tỉnh Perm, từ đây ban cho nữ nông nô Klara, con gái của nông nô Gota quá cố, quyền tự do hoàn toàn và vô điều kiện, là thần dân của Hoàng đế vĩnh viễn về sau.” Trong ký ức tôi, khi đó chim cúc cu đang gọi nhau từ hai bên sông và nắng ngập tràn phòng khách nhỏ của nhà Koskov. Tôi hỏi Dmitry và Vasilisa liệu họ có muốn nhận tôi làm con nuôi không. Vasilisa ôm chầm lấy tôi, nước mắt giàn giụa trong khi Dmitry húng hắng, mân mê ngón tay rồi nói, “Ta dám nói là chúng ta có thể liệu được việc ấy, Klara.” Chúng tôi biết rằng chỉ có Pyotr Ivanovich mới có thể làm nên phép màu về giấy má ấy, nhưng phải mất vài tháng sau chúng tôi mới biết đích xác ông chú làm như thế nào. Tôi đã được trả tự do, đổi lại Ông cậu Pyotr đã đứng ra dàn xếp món nợ với tay buôn rượu vang của gã chủ nô.
Trong lúc sung sướng, chúng tôi quên đi bức thư thứ hai. Trong đó là giấy điều động từ Văn Phòng Giám Mục của Giám Mục St Petersburg, yêu cầu Cha Dmitry Koskov nhận nhiệm vụ mới tại Nhà Thờ Truyền tin Đức mẹ đồng trinh ở Phố chính Primorsky, St Petersburg, vào đúng hoặc trước ngày 1 tháng Bảy năm đó. Vasilisa hỏi, vẻ nghiêm túc, rằng phải chăng ta đang mơ. Dmitry đưa cho bà bức thư. Khi Vasilisa đọc thư, bà trẻ lại mười tuổi trước mắt chúng tôi. Dmitry nói ông rùng mình khi nghĩ đến cậu Pyotr đã phải trả món gì cho một vị trí tươm đến thế. Câu trả lời là một chuyến hàng chở cẩm thạch Sienna đến một tu viện được Đức Thượng Phụ ưu ái, nhưng một lần nữa, chúng tôi không biết điều đó từ chính miệng của Pyotr Ivanovich. Sự tàn độc của con người có thể vô hạn. Lòng hào hiệp của con người cũng có thể vô biên.
Kể từ cuối những năm 1780 tôi mới có dịp sống ở một thủ đô châu Âu văn minh, vậy là sau khi ổn định ở ngôi nhà mới gần nhà thờ của Dmitry của St Petersburg, tôi ngấu nghiến âm nhạc, sân khấu và những cuộc chuyện trò, cố hết sức của một cô bé nông nô mười ba tuổi vừa được tự do. Tôi cứ nghĩ xuất thân thấp kém của mình sẽ là trở ngại khi giao du, nhưng trái lại, chính nguồn gốc đó lại củng cố địa vị của tôi, như một hiện tượng đặc sắc đối với giới thượng lưu St Petersburg vốn thèm khát cái mới. Chẳng mấy chốc, “Tiểu thư Koskov thần đồng tỉnh Perm” được đưa ra kiểm tra bằng nhiều thứ tiếng trong nhiều lãnh vực. Tôi nói rằng nhờ có mẹ nuôi mà tôi mới có được khối kiến thức ấy, bởi một khi bà đã dạy tôi đọc, tôi có thể tự thu nhận hoa trái từ Kinh Thánh, từ điển, niên giám, các tập sách nhỏ, thơ ca đứng đắn và văn chương để sửa mình. Những người chủ trương giải phóng nông nô viện dẫn Klara Koskov như bằng chứng rằng nông nô và chủ nô chỉ khác nhau ở chỗ sinh ra trong gia đình nào, trong khi những kẻ đa nghi gọi tôi là con ngỗng bị ép ăn để chuẩn bị cho món foie gras, bị nhồi nhét những dữ kiện mà tôi chỉ biết lặp lại chứ không hiểu được.
Một ngày tháng Mười một cỗ xe bốn ngựa trắng thuần chủng dừng lại ở Primorsky, giám mã của Nữ hoàng Elizabeth chuyển đến gia đình tôi một lời mời đến Cung điện Mùa đông để hầu chuyện Nữ hoàng. Dmitry và Vasilisa không thể chợp mắt đêm trước đó, rồi bị choáng ngợp trước những căn phòng tráng lệ mà chúng tôi đi qua trước khi đến căn hộ của Nữ hoàng. Cuộc đời siêu linh đã chủng ngừa cho tôi trước những xa hoa phù phiếm từ hàng thế kỉ trước. Về Nữ hoàng Elizabeth, tôi nhớ rõ nhất là giọng nói như tiếng kèn bass clarinet trầm buồn. Cha mẹ nuôi và tôi được sắp ngồi trên trường kỉ cạnh lò sưởi, còn Elizabeth an tọa ghế lưng cao. Bà hỏi tôi bằng tiếng Nga về phần đời nông nô, rồi chuyển sang tiếng Pháp để thử trình độ của tôi ở nhiều chủ đề. Bằng thứ tiếng Đức bản ngữ, bà hỏi rằng hẳn tôi thấy mệt mỏi với lịch trình khách khứa? Tôi đáp hầu chuyện nữ hoàng không bao giờ là việc mệt mỏi, tuy vậy tôi cũng sẽ không tiếc rẻ gì khi tôi đến lúc hết thời. Elizabeth đáp rằng giờ đây tôi đã hiểu cảm giác của một nữ hoàng. Bà có đàn pianoforte mới nhất từ Hamburg và hỏi tôi muốn thử không. Vậy là tôi chơi một bản hát ru Nhật mà tôi từng học ở Nagasaki, bản nhạc làm nữ hoàng xúc động. Trong tâm trạng ấy Elizabeth hỏi người chồng trong mộng của tôi là người như thế nào. “Con gái tiểu dân hãy còn non nớt, thưa Lệnh bà.” Dmitry rón rén mở lời, “đầu óc nó hẳn còn mơ mộng hão huyền.”
“Ta đã thành thân trước sinh nhật thứ mười lăm.” Nữ hoàng quay sang tôi và Dmitry rụt lưỡi trở lại.
Hôn phối, tôi lên tiếng, không phải là một địa hạt tôi nóng lòng được đến.
“Thần Cupid luôn nhắm chính xác,” Elizabeth nói. “Rồi ngươi sẽ thấy. Rồi ngươi sẽ thấy.”
Sau một ngàn năm, Lệnh bà quý mến, tôi nghĩ mà không đáp trả, mũi tên của thần ấy thường dội ngược lại khi bắn đến tôi. Tôi đồng ý, rằng đương nhiên lời Ngài nói là chân lý. Nhưng nữ hoàng nhận ra ngay được một câu trả lời né tránh, và nói có lẽ tôi chuộng sách vở hơn các đấng lang quân. Tôi đồng ý rằng sách thường không tùy tiện mà thay đổi câu chuyện. Dmitry và Vasilisa ngượng nghịu trở người trong bộ xiêm y đẹp đẽ đi mượn. Vị nữ hoàng mỏi mệt của một triều đình nơi thông dâm ngoại tình đã thành một môn giải trí, nhìn thẳng vào tôi, ánh vàng của ngọn lửa nhảy nhót trên ánh vàng tóc bà. “Một câu nói thật già dặn,” bà tiếp, “từ một cặp môi thật non trẻ.”
Chuyến viếng thăm cung điện của gia đình tôi làm gợn lên một đợt đồn thổi về huyết thống thực sự của Klara Koskov, khiến cha nuôi tôi thấy ngượng ngùng, vậy là chúng tôi quyết định đã đến lúc chấm dứt sự nghiệp làm thiên tài giữa giới thượng lưu. Quyết định đó cũng trùng với dịp cậu Pyotr trở về sau nửa năm ở Stockholm, và dinh thự của nhà Cherchenko trên phố Dzerzhinsky trở thành ngôi nhà thứ hai của chúng tôi. Yuliya Grigorevn, người vợ cựu diễn viên của Pyotr trở thành một người bạn tốt của chúng tôi. Bà thường tổ chức tiệc tối, nơi tôi gặp nhiều thành phần ở Petersburg hơn khi còn giao du với xã hội thượng lưu. Chuyên viên nhà băng, thầy thuốc và thi sĩ đứng cạnh với giám đốc nhà hát, thầy phán và thuyền trưởng. Tôi tiếp tục đọc sách ngấu nghiến, và viết thư cho nhiều tác giả, ký tên “K. Koskov” để che giấu tuổi tác và giới tính. Kho lưu trữ của Trắc Thời Phái còn giữ những bức thư gởi K.Koskov từ bác sĩ René Laënnec, nhà phát minh Humphry Davy và nhà thiên văn học Giuseppe Piazzi. Trường đại học lúc đó vẫn chưa nhận phụ nữ, nhưng qua năm tháng, nhiều trí thức chuộng tự do ở Petersburg đã đến nhà Cherchenko để thảo luận công trình của họ với nữ trí thức thông tuệ. Dần dà, tôi còn nhận được một vài lời cầu hôn, nhưng cả Dmitry lẫn Vasilisa Koskov đều không hề nóng lòng để mất tôi, còn tôi cũng không hề muốn trở thành tài sản của một người đàn ông lần thứ hai.
Giáng Sinh thứ hai mươi của Klara đến, cũng là Giáng sinh thứ mười hai cùng với gia đình Koskov. Cô được tặng ủng lót lông thú từ Dmitry, tờ nhạc piano từ Vasilisa và áo khoác lông chồn từ gia đình Chernenko. Nhật ký của tôi ghi rằng vào 6 tháng Giêng năm 1823 Dmitry thuyết giảng về sách Job và ý Chúa tiềm ẩn. Ca đoàn của Nhà thờ Truyền Tin Đức mẹ đồng trinh hôm đó hát rất tẻ vì bị đau họng và cảm lạnh. Tuyết rơi đầy máng xối, sương khói bao phủ những con hẻm, mặt trời chỉ còn trong ký ức, nước đóng băng thành cột nơi mái chìa, hơi nước bốc lên trắng xóa từ lỗ mũi lạnh cóng của ngựa, và những tảng băng lớn như con tàu trôi trên sông Neva dưới bầu trời xam xám mây giông.
Sau bữa trưa, Vasilisa và tôi ngồi trong phòng khách. Tôi viết thư bằng tiếng Hà Lan về hiện tượng thẩm thấu ở những cây lớn cho một học giả ở Đại học Leiden. Mẹ nuôi của tôi chấm bài luận tiếng Pháp của học trò. Ngọn lửa gặm nhấm những khúc củi. Galina, quản gia của chúng tôi châm đèn bàn, phàn nàn chuyện tôi không giữ gìn con mắt. Bỗng có tiếng gõ cửa. Jasper, con chó không rõ giống gì của chúng tôi xộc thẳng ra và sủa ăng ẳng về lối sảnh. Vasilisa và tôi nhìn nhau, nhưng cả hai người đều không có hẹn khách hôm đó. Qua tấm rèm đăng ten chúng tôi một cỗ xe lạ với cửa sổ che màn. Galina mang vào một tấm danh thiếp, do người hầu xe đưa ở cửa. Ngờ vực, mẹ tôi đọc thành tiếng: “Ông Shiloh Davydov. ‘Shiloh’? Nghe có vẻ ngoại quốc. Con có thấy vậy không, Klara?” Tuy nhiên địa chỉ của Davydov là ở Phố chính Mussorgsky danh giá. “Có lẽ họ là bạn của Cậu Pyotr chăng?”
“Bà Davydov cũng đang ở trong xe, như tôi được biết,” Galina nói thêm. Vasilisa đột ngột đổi ý, mà sau này tôi mới biết là do bị áp Huấn Lệnh, mọi nghi ngờ bỗng tan biến. “Thế thì mời họ vào đi, Galina! Họ sẽ nghĩ sao về ta chứ? Phu nhân tội nghiệp hẳn đang lạnh cóng!”
“Xin lượng thứ cho sự đường đột của chúng tôi,” một người đàn ông nhanh nhẹn, tóc mái dài, có giọng ngân nga, vận đồ tối màu cắt kiểu ngoại quốc lên tiếng, “thưa phu nhân và tiểu thư Koskov. Là lỗi tại tôi cả. Tôi có thư giới thiệu đã thảo trước thánh lễ nhưng rồi người giữ ngựa của chúng tôi bị ngựa đá, chúng tôi phải gọi thầy thuốc. Giữa cơ sự rối reng tôi sơ sót không gởi thư trên đến trước. Tên tôi là Shiloh Davydov, rất hân hạnh.” Ông ta đưa mũ cho Galina, mỉm cười. “Cha tôi người Nga, tôi sống ở Marseille, nhưng rày đây mai đó. Và cho phép tôi…” ngay cả khi đó tôi chú ý tiếng Nga của ông ta có âm hưởng Trung Hoa “… cho phép tôi giới thiệu nhà tôi, phu nhân Claudette Davydov, người mà có lẽ tiểu thư Koskov rõ hơn…” ông ta vung vẩy cây gậy “…qua tên trước khi thành thân và cũng là bút danh ‘C. Holokai’.”
Thật bất ngờ. Tôi từng vài lần trao đổi thư từ với “C. Holokai”, tác giả của một luận văn triết về Sự luân hồn của Linh hồn. Tôi không ngờ rằng người đó lại là nữ giới. Phu nhân Davydov có nước da tối màu và ánh nhìn chăm chú, khiến người ta nghĩ đến một gốc gác Cận đông hay Ba Tư. Bà vận lụa màu xám lông bồ câu và đeo chuỗi ngọc trắng đen. “Phu nhân Koskov,” bà nói với Vasilisa, “cảm tạ bà đã vô cùng hiếu khách với hai kẻ xa lạ trong một buổi chiều đông.” Bà ta nói tiếng Nga chậm hơn chồng, nhưng phát âm kỹ càng khiến người nghe tập trung chú ý. “Đáng nhẽ chúng tôi nên đợi đến ngày mai rồi hẵng mời gia đình ông bà lại nhà, nhưng cái tên ‘K.Koskov’ được nhắc đến chỉ một giờ trước tại nhà của Giáo sư Obel Andropov và tôi xem đó như… như một điềm báo.”
“Giáo sư là chỗ thân hữu với gia đình chúng tôi,” mẹ nuôi tôi đáp.
“Và là một nhà ngôn ngữ học cổ điển hàng đầu,” tôi tiếp lời.
“Đúng thế. Chuyện là, Giáo sư Andropov nói với tôi rằng chữ ‘K’ là viết tắt của ‘Klara’; vậy nên trên đường về nhà, tình cờ tôi nhìn ra cửa xe và thấy nhà thờ của cha tiểu thư. Ma xui quỉ khiến tôi dừng chân xem tiểu thư có nhà không và tôi e là tôi…” Claudette Davydov hỏi chồng bằng tiếng Ả rập rằng ‘cầm lòng không đậu’ nói ra sao trong tiếng Nga, rồi Shiloh Davydov lặp lại cho vợ “…tôi cầm lòng không đậu.”
“Thật là quý hóa,” Vasilisa lên tiếng, chớp mắt nhìn những người xứ lạ mình vừa mới mời vào nhà. “Quý hóa thay. Chúng tôi rất hân hạnh. Ông nhà tôi sẽ sớm về. Xin cứ tự nhiên cho. Nhà tôi nào phải cung điện gì nhưng…”
“Chưa có cung điện nào lại thân tình đến vậy.” Shiloh Davydov nhìn quanh phòng khách của chúng tôi. “Bà nhà tôi rất nóng lòng muốn diện kiến ‘K. Koskov’ kể từ ngày tôi quyết định đến Petersburg.”
“Quả có thế.” Claudette Davydov đưa đôi bao tay lông thú cho Galina, thầm thì cảm ơn. “Và từ vẻ ngạc nhiên của tiểu thư Koskov, tôi đoán rằng chúng tôi đã viết thư cho nhau, cùng tin rằng người nhận thư là nam giới - tôi đoán có đúng không, tiểu thư?”
“Tôi không thể chối được, thưa phu nhân Davydov,” tôi nói, chúng tôi ngồi xuống.
“Chuyện thật mà như đùa, còn hơn cả hài kịch.”
“Một thế giới lầm lạc,” Shiloh Davydov thở dài, “nơi mà nữ giới phải phủ nhận giới tính của mình, nếu muốn được người ta lắng nghe.”
Chúng tôi nghĩ về sự thật đó. “Klara con yêu,” Vasilisa lên tiếng, sực nhớ ra vai trò chủ nhà của mình, “con châm củi thêm vào lửa khi Galina mang thức giải khát cho khách nhé?”
“Biển cả là công việc của tôi, thưa ngài,” Shiloh Davydov trả lời. Dmitry thích thú trước cuộc thăm viếng bất ngờ của ông bà Davydov, và với hai người đàn ông, bánh ngọt và trà mau chóng được thế bởi rượu brandy và hộp cigar mà Shiloh tặng cho cha nuôi tôi. “Thương thuyền, vận chuyển, nhà xưởng, đóng tàu, bảo hiểm hàng hải…” Ông phất tay mơ hồ. “Tôi đến Petersburg theo chỉ thị của Đô đốc hải quân Nga, nên lẽ dĩ nhiên tôi phải kín kẽ. Chúng tôi sẽ nhận nhiệm sở ở đây ít nhất là một năm, và tôi được phép tùy nghi sử dụng căn nhà công vụ trên Phố chính Mussorgsky. Phu nhân Koskov, ở đây tìm gia nhân vừa có năng lực lại trung thực có khó không? Ở Marseille, tôi rất tiếc phải nói là, tìm được người có cả hai đức tính ấy khó như tìm răng gà mái.”
“Nhà Chernenko sẽ giúp ông bà,” Vasilisa đáp. “Với cậu của Dmitry, Pyotr Ivanovich và vợ, tìm răng gà mái chẳng khó khăn gì. Đúng thế không hả Dmitry?”
“Với Pyotr thì sẽ tìm món ấy được ngay, còn bọc trong chăn lông vàng nữa kia.” Dmitry phập phù cigar, ra vẻ cảm kích. “Thế ông bà định sẽ giải khuây thế nào trong mấy tháng ở miền bắc lạnh lẽo hoang vu này, thưa phu nhân Davydov?”
“Cũng như ông nhà, tôi có linh hồn của một kẻ khám phá,” Claudette Davydov đáp, như thể đó là câu trả lời đầy đủ. Lửa lò sưởi phun nhả những tia tí tách. “Nhưng trước hết, tôi định sẽ hoàn tất bài bình tác phẩm Metamorphoses của Ovid. Tôi còn đang khấp khởi hi vọng rằng ‘K. Koskov’ sẽ cho tôi cái vinh dự ấy, rằng tiểu thư sẽ hạ cố lướt mắt qua mấy dòng nguệch ngoạc của tôi, nếu…”
Tôi đáp rằng vinh dự là của tôi, rằng những học giả nữ giới bí mật như chúng tôi có nghĩa vụ đoàn kết với nhau. Rồi tôi hỏi liệu ‘C. Holokai’ đã nhận được lá thư cuối cùng của tôi chưa, thư gởi tháng Tám năm ngoái đến Sứ quán Nga tại Marseille.
“Tôi quả đã nhận được,” Claudette Davydov đáp. “Ông nhà tôi, thưa tiểu thư, cũng yêu thích triết học như tôi vậy. Ông nhà tôi lẫn tôi đều rất tâm đắc khi đọc về khái niệm Bụi Tối của tiểu thư.”
Đến lượt Vasilisa tò mò. “Bụi Tối gì vậy hở con yêu?”
Tôi không thích dối, hay thậm chí là tránh né với cha mẹ nuôi, nhưng Vô Thời Tính trong một thế giới vô thần, vô Chúa không phải là một chủ đề hay ho trong gia đình mộ đạo của chúng tôi. Khi thêu dệt một lời giải thích dài dòng, tôi lướt mắt đến Shiloh Davydov. Mắt ông ta nhắm hờ và một chấm sáng lên ở vị trí mà nhờ có những lưu thể đông phương, tôi biết chính là con mắt chakra. Tôi nhìn Claudette Davydov. Một chấm y hệt đang sáng lên. Điều gì đó đang xảy ra, Tôi nhìn cha mẹ nuôi, nhận ra Vasilisa và Dmitry Koskov tĩnh tại như tượng sáp. Vasilisa vẫn còn vẻ chăm chú trên gương mặt, nhưng tâm trí dường như đã tắt ngóm. Hay đã bị tắt ngóm. Điếu cigar của Dmitry bốc khói giữa ngón tay, nhưng thân thể ông bất động.
Sau một ngàn hai trăm năm tôi từng nghĩ mình đã miễn nhiễm với sốc, nhưng tôi đã lầm. Thời gian chưa hề ngừng lại. Lửa lò sưởi vẫn cháy. Tôi vẫn nghe được tiếng Galina thái rau củ ngoài bếp. Theo bản năng, tôi bắt mạch nơi cổ tay Vasilisa, mạch đều và mạnh. Hơi thở của bà chậm rãi, nông nhưng đều. Dmitry cũng thế. Tôi gọi tên hai người. Họ không nghe thấy tôi. Họ như không có ở đó. Chỉ có thể có một nguyên nhân, hay đúng hơn, một cặp nguyên nhân.
Ông bà Davydov, trong khi đó, đã trở lại bình thường và đang chờ câu trả lời của tôi. Tôi đứng sững, bối rối nhưng giận dữ, tôi nắm lấy que cời than rồi nói với vợ chồng Davydov, hay là ai đi chăng nữa, bằng điệu bộ không giống gì với con gái hai mươi tuổi của một linh mục, “Nếu các người làm hại cha mẹ tôi, tôi thề…”
“Tại sao chúng tôi lại muốn làm hại những con người chân thành ấy?” Shiloh Davydov ngạc nhiên. “Chúng tôi chỉ đặt Đoạn Lệnh lên họ. Có thế thôi.”
Claudette Davydov tiếp lời: “Chúng tôi đã mong được gặp riêng cô, Klara. Chúng tôi có thể đoạn lệnh cha mẹ nuôi cô như thế…” bà ta búng tay “…khi tỉnh dậy họ sẽ không hề biết chuyện gì vừa xảy ra.”
Vẫn xem cặp Davydov như mối nguy, tôi hỏi “đoạn lệnh” có phải là một hiện tượng gần như thôi miên chăng.
“Franz Mesmer[61] là một kẻ khoác lác mua vui,” Claudette Davydov trả lời. “Chúng tôi có tâm biệt năng. Tâm biệt năng của Phái Dòng Sâu.”
Thấy tôi vẫn còn ngơ ngác, Shiloh Davydov hỏi, “Cô chưa bao giờ thấy việc như thế hay sao, hả tiểu thư Koskov?”
“Chưa,” tôi đáp. Vợ chồng Davydov nhìn nhau, ngạc nhiên. Shiloh Davydov gỡ điếu cigar từ giữa ngón tay Dmitry trước khi tay ông kịp bỏng, đặt nó lên gạt tàn. “Cô không đặt que cời xuống được sao? Nó sẽ không giúp cô hiểu thêm gì đâu.”
Thấy mình thật ngốc nghếch, tôi đặt que cời về chỗ. Tôi nghe có tiếng vó ngựa, tiếng ghì cương và tiếng rao của người bán than trên Phố chính Primorsky. Bên trong phòng khách, cuộc đời siêu linh của tôi đang sang một trang mới. Tôi hỏi các vị khách. “Các người là ai? Thực là ai?”
Shiloh Davydov đáp, “Tên tôi là Xi Lo. Ở châu Âu “Shiloh” là tên gần nhất mà tôi nghĩ ra được. Đồng nghiệp của tôi đây, người buộc phải đóng vai vợ tôi ở nơi công cộng, là Holokai. Đó là những cái tên thật mà chúng tôi mang theo từ những cuộc đời đầu tiên. Tên của linh hồn, đại để là thế. Câu hỏi đầu tiên của tôi dành cho cô, Tiểu thư Klara Koskov, là thế này: tên thật của cô là gì?”
Tôi quên mất phép tắc con nhà, nốc hết nửa phần brandy của Dmitry. Từ lâu tôi đã chôn vùi giấc mơ rằng có một ngày tôi sẽ gặp những kẻ giống mình, những Vô Thời Khách khác, mà giờ đây điều đó đang xảy ra, tôi thấy mình sơ hở đến tội nghiệp.
“Marinus,” tôi đáp, lời nói the thé, khàn khàn, sau hơi rượu. “Tôi là Marinus.”
“Rất hân hạnh, Marinus,” Holokai-trong-Claudette Davydov đáp. “Tôi biết cái tên đấy,” Xi Lo-trong-Shiloh nhíu mày. “Tại làm sao nhỉ?”
“Tôi làm sao quên được ông, nếu đã gặp,” tôi cam đoan.
“Marinus.” Xi Lo vuốt hàm râu quai nón. “Marinus người Tyre, thợ vẽ bản đồ? Có liên hệ không? Không. Hoàng đế Philip người Ả rập có cha là Julius Marinus. Không. Tôi không thể nghĩ được. Chúng tôi đoán từ trong thư rằng cô là Hồi Khách, không phải Lưu Khách?” Tôi thú nhận rằng mình không hiểu câu hỏi ấy.
Hai người có vẻ bối rối ái ngại trước lời thú nhận của tôi. Holokai-trong-Claudette nói, “Hồi Khách chết đi, đến Bụi Tối, được tái sinh sau bốn mươi chín ngày. Lưu Khách, như Xi Lo đây, chỉ tiếp tục đến một lưu thể mới khi lưu thể cũ suy yếu.”
“Vậy thì đúng thế.” Tôi ngồi xuống. “Vậy tôi là Hồi Khách.”
“Marinus.” Xi Lo-trong-Shiloh quan sát tôi. “Chúng tôi là những Vô Thời Khách đầu tiên mà cô từng gặp?”
Cổ họng tôi nghèn nghẹn như có viên sỏi kẹt trong đó. Tôi gật đầu.
Holokai rút điếu thuốc của bạn đồng hành, rít một hơi. “Vậy thì cách cô hành xử thật đáng ngưỡng mộ. Khi Xi Lo phá vỡ sự cô lập của tôi, tôi bị choáng, đánh mất lí trí đến hàng giờ. Có người nói rằng đến giờ vẫn chưa hồi phục. Thôi thì. Chúng tôi mang tin tốt đến. Hoặc không. Đại để là còn có những kẻ khác như chúng ta.”
Tôi rót thêm brandy từ bình rượu của Dmitry. Viên sỏi ở cổ họng cũng tan đi phần nào. “Vậy các người… chúng ta có bao nhiêu người?”
“Không quá nhiều,” Xi Lo đáp. “Bảy người là thành viên của Hội Trắc Thời đóng ở một địa chỉ tại Greenwich, London. Chín người khác từ chối lời mời của chúng tôi, chuộng cảnh độc hành hơn. Cửa vẫn luôn mở cho họ nếu họ muốn có bầu bạn. Chúng tôi đã gặp mười một, hay mười hai, nếu tính cả gã người xứ Swabia - những Vô Thời Khách ‘tự thân’ qua nhiều thế kỉ. Chữa cho những kẻ ấy hết thói khát máu chính là nhiệm vụ chính của Trắc Sĩ trong Trắc Thời Phái, đó cũng là việc chúng tôi làm.”
Sau đó tôi được biết những thuật ngữ rối rắm ấy có ý nghĩa gì.
“Nếu cô bỏ quá cho câu hỏi khiếm nhã này, Marinus,” Holokai-trong-Claudette mân mê chuỗi ngọc, “cô được sinh ra khi nào?”
“640 sau Công Nguyên,” tôi đáp, cảm giác ngây ngây khi lần đầu tiên được chia sẻ sự thật về bản thân mình. “Tôi là người xứ San Marino trong cuộc đời đầu tiên. Tôi là con trai của người nuôi chim ưng.”
Holokai nắm chặt tay vịn ghế, như thể chiếc ghế đang bay với tốc độ kinh hoàng về trước. “Cô gấp đôi tuổi tôi, Marinus! Tôi không có năm sinh hay nơi sinh chính xác. Có lẽ là Tahiti, có lẽ là đảo Marquesas, nếu quay lại đó hẳn tôi sẽ nhận ra, nhưng tôi không màng. Một cái chết kinh khủng. Lưu thể thứ hai của tôi là một cậu bé nô lệ Hồi giáo trong nhà của một tay thợ bạc Do Thái, ở Bồ Đào Nha. Vua João chết khi tôi ở đó, tức ấn định cột mốc năm 1433. Xi Lo thì…”
Những đám khói cigar nồng thơm lượn lờ cao thấp.
“Tôi được sinh ra lần đầu tiên vào cuối đời nhà Chu,” người đàn ông tôi vẫn gọi là ông Davydov lên tiếng, “trên một con thuyền ở châu thổ sông Hoàng Hà. Cha tôi là lính đánh thuê. Chừng năm 300 sau Công Nguyên. Đến giờ đã năm mươi lưu thể. Tôi thấy cô dễ dàng hiểu được thứ ngôn ngữ này, có đúng không tiểu thư Koskov?”
Đến khi gật đầu tôi mới nhận ra rằng ông ta đang nói tiếng Hoa.
“Tôi đã có bốn lưu thể người Hoa.” Tôi vận đến vốn tiếng Quan Thoại đã có phần mai một. “Lưu thể người Hoa cuối cùng là chừng giữa thời nhà Minh, những năm 1500. Khi đó tôi là một phụ nữ sống ở Côn Minh. Hành nghề bốc thuốc.”
“Tiếng Hoa của cô nghe hiện đại hơn thời đó nhiều,” Xi Lo nói.
“Trong lưu thể trước lưu thể này tôi sống ở xưởng Hà Lan tại Nagasaki, và thường trò chuyện với một vài nhà buôn người Hoa.”
Xi Lo gật đầu lia lịa, trước khi thốt lên bằng tiếng Nga, “Lạy Chúa! Đúng rồi, Marinus - bác sĩ, ở Dejima. Người cao lớn, mặt đỏ, tóc trắng, dân Hà Lan, nhà thông thái cau có. Cô ở đấy khi tàu HMS Phoebus bắn phá cảng tan tành.”
Tôi có cảm giác chóng mặt như đang ở trên cao. “Ông cũng có ở đó sao?”
“Tôi tận mắt chứng kiến. Từ đình quan phủ.”
“Nhưng… ông là ai? Hay khi đó ông trú trong lưu thể nào?”
“Tôi có vài lưu thể, nhưng không có người Hà Lan nào cả, nếu không tôi đã biết cô là Vô Thời Khách và đã khỏi phải phiền hà Klara Koskov. Vì người Hà Lan bị bỏ rơi khi Batavia thất thủ, con đường vào ra Nhật Bản của tôi là theo tàu của thương lái người Hoa. Quan phủ Shiroyama là lưu thể của tôi trong vài tuần.”
“Tôi đã diện kiến quan phủ vài lần. Quanh cái chết của ông ấy chôn giấu một vụ tai tiếng rất lớn. Nhưng vì sao ông đến Nagasaki?”
“Chuyện dài lắm,” Xi Lo đáp, “liên quan đến một đồng nghiệp, Ōshima, vốn là người Nhật trong lưu thể đầu tiên, và một tay trụ trì bất chính tên Enomoto, kẻ đã tìm ra một địa điểm thanh linh từ thời tiền-Thần đạo ở Kirishima.”
“Enomoto từng đến Dejima. Sự hiện diện của ông ấy luôn khiến tôi thấy lạnh gáy.”
“Linh cảm khôn ngoan hơn người ta vẫn tưởng. Tôi đã dùng Huấn Lệnh để thuyết phục Shiroyama chấm dứt thế lực của Enomoto. Bằng thuốc độc. Đáng tiếc là phải trả giá bằng mạng sống của chính quan phủ, nhưng âu cũng là toan tính của hi sinh. Rồi một ngày kia cũng sẽ đến lượt tôi.”
Con chó Jasper thừa thời cơ Vasilisa ngồi yên, nhảy tót lên lòng bà, việc mà mẹ nuôi tôi không bao giờ cho phép.
Tôi hỏi, “‘Huấn Lệnh’ là gì, có giống ‘Đoạn Lệnh’ không?”
“Cả hai đều là những lệnh trong Tâm Biệt Năng,” Holokai-trong-Claudette đáp. “Đoạn Lệnh dừng còn Huấn Lệnh đẩy. Tôi đoán hiện tại phương cách cải số của cô,” bà ta chỉ vào căn phòng ấm cúng nhưng khiêm tốn của nhà Koskov, “là tìm người đỡ đầu bảo trợ, đúng không?”
“Đúng thế. Và dùng những kiến thức tích lũy được qua các lưu thể. Tôi thường làm nghề y. Với các lưu thể nữ giới, đó là một trong những cách ít ỏi để tiến thân.”
Galina vẫn đang thái rau củ trong bếp.
“Vậy hãy để chúng tôi chỉ cho cô vài lối tắt, Marinus.” Xi Lo chồm về trước, ngón tay gõ trống lên cây gậy. “Để chúng tôi hé lộ một lịch sử bí mật, và một thế giới mới.”
“Có người đang ở tận đâu đâu.” Unalaq dựa vào khung cửa, cầm cốc in biểu tượng của Metallica, ban nhạc heavy metal bất diệt ấy. “Cái cốc này à? Là quà của em trai Inez. Hai tin cập nhật đây: L’Ohkna đã trả tiền khách sạn bảy ngày cho Holly; và Holly vừa trở mình thức dậy, nên tôi đoạn lệnh cô ấy, chờ đến khi chị sẵn sàng.”
“Bảy ngày.” Tôi đặt tấm phủ dạ lên phím đàn. “Tôi tự hỏi ta sẽ ở đâu sau bảy ngày nữa. Vào việc thôi, trước khi Holly lại bị nẫng ngay trước mắt ta.”
“Ōshima bảo rằng chị đang tự đánh đòn mình.”
“Đừng nói anh ấy đã dậy rồi chứ? Tối qua anh ấy không ngủ, còn buổi sáng thì bận làm người hùng.”
“Chợp mắt sáu mươi phút rồi anh ấy bật dậy, tỉnh như sáo. Giờ đang ăn mứt sô cô la hạt dẻ, ăn bằng thìa, xúc thẳng từ lọ. Tôi không thể nhìn nổi.”
“Inez đâu rồi? Cô ấy không nên rời căn hộ lúc này.”
“Cô ấy đang giúp Toby, chủ hiệu sách. Khiên linh chắn của ta bao phủ cả hiệu sách, nhưng tôi đã dặn cô ấy đừng đi xa hơn. Cô ấy sẽ không đi đâu.”
“Liệu cô ấy nghĩ gì về những trò điên rồ nguy hiểm này?”
“Inez là dân lớn lên ở khu Oakland mà, California. Xem như cũng đã có căn bản. Mà thôi. Đi săn Esther nào.” Vậy là tôi theo chị xuống cầu thang đến căn phòng trống nơi Holly đang chịu đoạn lệnh, nằm trên một chiếc giường xếp. Đánh thức cô lúc này thật tàn nhẫn. Ōshima xuất hiện từ thư viện. “Tang tính tình tang, thật là êm tai, Marinus.” Anh làm động tác chơi piano.
“Lát nữa tôi sẽ chìa mũ ngửa tay.” Tôi đáp rồi ngồi xuống cạnh Holly và cầm tay cô, ấn ngón giữa xuống chakra trong lòng bàn tay.
Tôi hỏi các đồng nghiệp, “Mọi người sẵn sàng cả chứ?”
Holly bật thẳng dậy, như thể gắn lò xo, đánh vật với một ký ức hiện tại hoàn thành có cảnh sát giết người, có Đoạn Lệnh, có Ōshima, Unalaq và tôi, và cả căn phòng xa lạ này. Cô để ý thấy mình đang ấn móng tay xuống cổ tay tôi. “Xin lỗi.”
“Không sao cả, chị Sykes. Đầu chị sao rồi?”
“Rối tung beng. Phần nào là thật?”
“Tất cả là thật, tôi e. Kẻ thù của chúng tôi đã đưa chị đi. Tôi xin lỗi.”
Holly không biết phải nghĩ gì. “Tôi đang ở đâu?”
“154 đường số 10 phía Tây,” Unalaq đáp. “Căn hộ của tôi, của tôi và bạn đời. Tôi là Unalaq Swinton. Bây giờ là hai giờ chiều, cùng ngày. Chúng tôi để chị nghỉ ngơi một lát.”
“Ồ.” Holly nhìn nhân vật mới này. “Rất hân hạnh.”
Unalaq nhấp cà phê. “Tôi mới là người thấy vinh dự, chị Sykes. Chị có muốn chút caffeine không? Hay chất kích thích nhẹ nào khác?”
“Cô cũng giống như… Marinus và người kia, cái cậu…?”
“Arkady? Đúng vậy, tuy nhiên tôi trẻ hơn. Đây mới chỉ là lưu thể thứ năm của tôi.”
Câu nói của Unalaq đưa Holly về cái thế giới mà cô vừa rơi vào. “Marinus, những cảnh sát đó… họ… tôi nghĩ họ muốn giết tôi.”
“Sát thủ chuyên nghiệp,” Ōshima lên tiếng. “Toàn người trần mắt thịt, nhưng không làm những việc như chữa răng, bán địa ốc hay dạy toán mà là chuyên giết người. Tôi làm cho họ bắn nhau trước khi kịp bắn cô.”
Holly nuốt khan. “Anh là ai? Nếu không quá đường đột…”
Ōshima tủm tỉm. “Tôi là Ōshima. Đúng rồi, tôi cũng là Trắc Sĩ. Đang ở lưu thể thứ mười một, nếu nói chuyện đong đếm.”
“Nhưng… anh không ở trong xe cảnh sát… phải thế không?”
“Tôi ở trong đó, nhưng chỉ là phần hồn, không phải phần xác. Với cô, tôi là Ōshima Con Ma Thân Thiện. Với những kẻ bắt cóc cô, tôi là Ōshima tên khốn tàn nhẫn. Tôi cũng chẳng chối gì, diệt được chúng tôi thấy sướng tay lắm.” Những thanh âm hỗn tạp của thành phố nhòa đi trong màn mưa bụi dai dẳng. “Tuy nhiên cuộc Chiến Tranh dài, lạnh lẽo của chúng tôi chỉ vừa nóng lên.”
“Vậy thì xin cảm ơn anh, anh Ōshima,” Holly nói, “nếu đó là…” Một suy nghĩ bọc kẽm gai nảy đến. “Aoife! Marinus… những cảnh sát đó, họ… họ… họ nói rằng Aoife đã bị tai nạn!”
Tôi lắc đầu. “Họ nói dối. Để lừa chị lên xe.”
“Nhưng họ biết tôi có con gái! Nếu họ hại nó thì sao?”
“Khoan, khoan, khoan đã. Chị nhìn đây,” Unalaq chuyền cho cô một máy bảng. “Blog của Aoife. Hôm nay cô ấy tìm được ba mảnh vỡ từ vò hai quai Phoenicia và một chút xương mèo. Blog mới được cập nhật bốn mươi lăm phút trước, lúc mười sáu giờ mười bảy phút giờ Hi Lạp. Cô ấy ổn. Chị có thể nhắn tin cho cô ấy, nhưng đừng, đừng, kể gì đến những việc hôm nay. Làm vậy sẽ khiến cô ấy liên lụy.”
Holly đọc bài blog của con gái, đỡ hoang mang hơn. “Nhưng những người đó chưa hại nó thì không có nghĩa là…”
“Tuần này Ẩn Sĩ tập trung vào Manhattan,” Ōshima nói. “Nhưng để an toàn, con gái chị có một vệ sĩ. Roho cũng là người của chúng tôi.” Và là một người đáng ra rất cần cho Sứ Mệnh Thứ Hai, Ōshima ngầm-nhắc tôi.
Một lần nữa, Holly hoang mang chới với. Cô nhét mấy lọn tóc lòa xòa dưới khăn quấn đầu. “Aoife đang đi khảo cổ, ở một hòn đảo Hi Lạp xa xôi. Làm thế nào… ý tôi là, tại sao… Không.” Holly tìm giày. “Nghe này, tôi chỉ muốn đi về nhà.”
Tôi nhẹ nhàng công bố sự thật tàn nhẫn: “Chị sẽ đi được xa nhất là đến Khách sạn Empire, nhưng sẽ không sống sót mà rời khỏi khách sạn. Tôi rất tiếc.”
“Ngay cả khi chị lọt lưới,” Ōshima lạnh lùng khai triển cái sự thật tàn nhẫn ấy, “lần tiếp theo chị dùng thẻ ATM, dùng máy tay, máy bảng, sẽ có Ẩn Sĩ sẽ tìm ra chị chỉ trong vòng vài phút. Ngay cả khi không dùng những phương cách đó, trừ khi chị được che giấu bởi ngụy lệnh Dòng Sâu, họ có thể tìm ra vô cùng dễ dàng.”
“Nhưng tôi sống ở phía tây Ireland! Đâu phải là xứ xã hội đen.”
“Chị sẽ không được an toàn dù chị bò lên được Trạm vũ trụ quốc tế, chị Sykes à,” Ōshima tiếp. “Ẩn Sĩ của Nhà Nguyện Bụi Tối ghê gớm hơn nhiều so với xã hội đen.”
Cô nhìn tôi. “Vậy tôi phải làm sao để được an toàn? Ở đây mãi mãi sao?”
“Tôi nghĩ,” tôi nói, “chị chỉ có thể được an toàn nếu chúng tôi giành chiến thắng trong Chiến Tranh.”
“Nếu chúng tôi thất bại,” Unalaq nói, “thì tất cả chúng ta đều toi.”
Holly Sykes nhắm mắt lại, cho chúng tôi cơ hội cuối cùng để biến mất và để quay lại cuộc sống như lúc ở Nghĩa Trang Blithewood trước khi một bác sĩ tâm thần mũm mĩm người Canada gốc Phi xuất hiện.
Mười giây sau, chúng tôi vẫn còn ở đó.
Cô thở dài và nói với Unalaq. “Làm ơn cho tôi trà. Ít sữa, không đường.”
“Trắc Thời?” Holly lặp lại trong bếp của Unalaq. “Tức là liên quan tới đồng hồ?”
“Khi Xi Lo lập ra Hội Trắc Thời,” tôi nói, “từ đó có nghĩa là ‘ngành học nghiên cứu cách đo thời gian.’ Một nhóm tự chủ, nói thế cũng chẳng sai. Người sáng lập của chúng tôi là một bác sĩ London những năm 1660 - à mà ông ấy có xuất hiện trong nhật ký của Pepys đấy, ông ấy mua một căn nhà ở Greenwich làm tổng hành dinh, kho lưu trữ và bảng tin nội bộ, giúp chúng tôi liên kết với nhau qua thời gian, từ lưu thể này đến lưu thể khác.”
“Năm 1939,” Unalaq nói, “chúng tôi chuyển về 119A - nơi chị đến thăm sáng nay - vì hiểm họa quân Đức xâm lược.”
“Vậy Trắc Thời Phái giống như một câu lạc bộ sinh hoạt cho… Vô Thời Khách?”
“Đúng thế,” Unalaq nói, “nhưng Trắc Thời Phái còn có chức năng cứu chữa nữa.”
“Chúng tôi tìm diệt,” Ōshima tiếp, “những Vô Thời Khách khát máu - như Ẩn Sĩ, những kẻ hút linh hồn có tâm áp từ người vô tội để duy trì sự bất tử của mình. Tôi tưởng Marinus đã nói điều này với chị rồi.”
“Chúng tôi cho họ cơ hội để sửa đổi,” Unalaq nói.
“Nhưng họ không bao giờ chịu sửa,” Ōshima tiếp, “vậy là chúng tôi phải sửa giúp họ, vĩnh viễn.”
“Họ là những kẻ giết người hàng loạt,” tôi nói với Holly. “Họ giết trẻ em như Jacko, thiếu niên như chị ngày trước. Cứ thế lặp đi lặp lại. Họ không dừng tay. Thực Nhục Khách là những con nghiện và ma túy của họ chính là sự trường sinh nhân tạo.”
Holly hỏi, “Và Hugo Lamb cũng là một kẻ giết người hàng loạt như thế?”
“Đúng vậy. Hắn đã săn mồi được mười một lần kể từ… Thụy Sĩ.”
Holly xoay chiếc nhẫn vĩnh cửu. “Và Jacko là người của các anh chị?”
“Xi Lo lập ra Trắc Thời Phái,” Ōshima nói. “Xi Lo dẫn dắt tôi vào Dòng Sâu. Vào tâm biệt năng. Anh ấy là người không ai có thể thay thế.”
Holly nghĩ đến một cậu bé con, người đã cùng cô đón Giáng Sinh vẻn vẹn tám lần. “Vậy các anh chị có bao nhiêu người?”
“Bảy, chắc chắn. Tám, có lẽ. Chín, hi vọng thế.”
Holly nhíu mày. “Một cuộc chiến quy mô hơi bị nhỏ, nhỉ?”
Tôi nghĩ đến vợ của Oscar Gomez. “Với gia đình Sykes, khi Jacko mất tích thì đó có phải chuyện ‘quy mô nhỏ’ không? Tám là con số ít ỏi, nhưng chúng tôi chỉ có mười người khi tôi chủng ngừa cho chị. Chúng tôi gầy dựng mạng lưới. Chúng tôi có đồng minh và bạn bè.”
“Vậy có bao nhiêu Thực Nhục Khách?”
“Chúng tôi không biết,” Unalaq nói. “Hàng trăm người, trên khắp thế giới.”
“Nhưng mỗi khi chúng tôi tìm diệt thêm được một người…” Ōshima ngừng giữa câu ý nhị, “tức là bớt đi được một.”
“Thế nhưng Ẩn Sĩ vẫn sống sót,” tôi nói. “Ẩn Sĩ là kẻ thù truyền kiếp của chúng tôi. Chúng tôi có thể ngăn ngừa việc giết chóc của hết thảy Thực Nhục Khách trên thế giới không? Không. Nhưng cứu được càng nhiều càng tốt, và mỗi người cứu được đều là một thắng lợi.”
Bồ câu gù gật, túm tụm trên bồn hoa bên cửa sổ của Unalaq.
“Giả sử tôi tin cô,” Holly nói. “Thì tại sao là tôi? Tại sao những ‘Ẩn Sĩ’ này - lạy Chúa, tôi không thể tin là mình vừa nói thế - lại muốn giết tôi? Mà tôi là gì với các người?” Cô nhìn quanh bàn. “Tại sao tôi lại liên quan đến cuộc Chiến Tranh này?”
Ōshima và Unalaq nhìn tôi. “Bởi vì chị đã đồng ý, bốn mươi mốt năm về trước, với một người đàn bà tên Esther Little đứng câu cá trên cầu cảng bằng gỗ cheo leo ngoài sông Thames.”
Holly nhìn tôi chằm chằm. “Làm sao cô biết chuyện đó?”
“Esther kể lại với tôi. Đêm đó, năm 1984.”
“Cô có ở Gravesend khi đó? Ngày Thứ Bảy Jacko mất tích?”
“Linh hồn của tôi lúc đó náu trong hộp sọ của Jacko, khi Jacko nằm trên giường trong quán Thuyền trưởng Marlow. Linh hồn của Esther Little cũng có ở đó, còn có linh hồn của Holokai, một đồng nghiệp nữa. Cùng với linh hồn Xi Lo, tổng cộng có bốn tên lính Hi Lạp nấp trong bụng con ngựa thành Troy. Constantin xuất hiện trong phòng, qua Khê
Môn, và dẫn dắt Jacko đi lên Thạch Đạo để vào Nhà Nguyện Bụi Tối.”
“Chỗ do Thầy Cathar Mù lập nên?” Giọng Holly ráo hoảnh.
“Chỗ do Thầy Cathar Mù lập nên.” Tốt, cô ấy đã bắt đầu tiếp thu. “Jacko là mồi nhử của chúng tôi. Chúng tôi đã trêu ngươi Constantin bằng cách chủng ngừa chị, và đoán rằng ả sẽ không kìm được mà trả đũa bằng cách chăn dắt và bắt cóc cậu em trai của cô chị đã được cứu vớt. Phần đó suôn sẻ, lần đầu tiên Trắc Sĩ vào được địa điểm thanh linh cổ nhất, khát máu nhất và được canh giữ cẩn thận nhất từ cổ chí kim. Tuy nhiên, trước khi chúng tôi nghĩ ra cách phá hủy nơi đó, Thầy Cathar Mù thức giấc. Ông ta tập hợp tất cả Ẩn Sĩ, rồi thì… thật khó mà mô tả lại một cuộc giao tranh tâm biệt năng mà ta đã đích thân dự phần…”
“Cô cứ tưởng tượng ra máy bắn bóng tennis, nhưng thay bóng bằng lựu đạn,” Ōshima góp lời, “bị kẹt trong một công-ten-nơ chở hàng, trên tàu giữa bão cấp mười.”
“Đó là ngày tồi tệ nhất trong lịch sử Trắc Thời Phái.” Tôi nói
“Chúng tôi diệt được năm Ẩn Sĩ,” Ōshima tiếp, “nhưng chúng giết Xi Lo và Holokai. Giết-giết.”
“Tôi tưởng họ sẽ… tái sinh chứ?” Holly hỏi.
“Nếu chúng tôi chết trong Bụi Tối,” tôi giải thích, “thì sẽ chết hẳn. Điều khoản đi kèm. Không hiểu sao Bụi Tối vô hiệu hóa tái sinh. Tôi sống sót vì Esther Little mở đường chạy khỏi Thạch Đạo với linh hồn tôi bao bọc trong linh hồn chị ấy. Nếu chỉ có một mình, hẳn tôi đã chết, nhưng ngay cả trong sự che chở của Esther tôi vẫn bị thương trầm trọng, Esther cũng thế. Chị ấy mở Khê Môn gần chỗ chị lúc đó, Holly à, ngay trong khu vườn của một ngôi nhà trên đảo Sheppey.”
“Tôi đoán địa điểm ấy không phải là tình cờ?” Holly hỏi.
“Không hề. Trong khi linh hồn của tôi và Esther đang hồi phục, thì Ẩn Sĩ Thứ Ba, một gã Joseph Rhîmes xuất hiện. Gã đã lần bám theo chúng tôi. Gã tiện tay giết chết Heidi Cross và Ian Fairweather, chuẩn bị giết chị thì tôi cố hồi phục vừa đủ để điều khiển Fairweather. Rhîmes điều khiển một vũ khí bay thẳng vào đầu tôi, khiến tôi chết tại chỗ. Bốn mươi chín ngày sau đó tôi được tái sinh trong lưu thể này, trong một chiếc xe cấp cứu bị hỏng ở một khu phố hoang vu tại Detroit. Rất lâu sau đó tôi cứ nghĩ rằng Rhîmes đã giết chị trong căn nhà đó, và rằng linh hồn của Esther đã bị thương quá nặng, không thể hồi phục được. Nhưng khi tôi liên lạc với 119A, Arkady - trong lưu thể trước của anh ấy, không phải lưu thể chị vừa gặp - nói với tôi rằng chị chưa chết. Ngược lại, xác của Joseph Rhîmes đã được tìm thấy ở hiện trường vụ án.”
“Chỉ người có tâm biệt năng mới có thể giết Joseph Rhîmes,” Ōshima nói. “Rhîmes theo U Minh Phái đã mười bảy thập kỷ.”
Holly hiểu ra. “Vậy các vị nghĩ người đó là Esther Little?”
Unalaq nói, “Đó là cách giải thích ít vô lý nhất.”
“Nhưng Esther Little chỉ là… một bà lão hiền lành cho tôi uống trà.”
“Đúng rồi,” Ōshima hừ mũi, “còn tôi là ông lão hiền lành chỉ biết ngồi xe buýt cả ngày bằng thẻ đi xe cho người già.”
“Tại sao tôi không nhớ gì cả?” Holly nói. “Và Esther đi đâu sau khi giết tay Rhîmes này?”
“Câu hỏi thứ nhất đơn giản hơn,” Unalaq đáp, “Mỗi người có tâm biệt năng đều có thể xóa ký ức. Muốn xóa chính xác cần kỹ năng cao, nhưng Esther có kỹ năng đó. Chị ấy có thể đã xóa khi nhập vào.”
Mơ màng, Holly nắm chặt lấy bàn. “Khi nhập vào… vào đâu?”
“Vào thị sai ký ức của chị,” tôi nói. “Vào nơi trú ẩn mà chị đã hứa với chị ấy. Linh hồn Esther chịu trận tơi tả trong Nhà Nguyện Bụi Tối, bị đốt cháy khi chị ấy cố mở đường máu xuống Thạch Đạo và cạn kiệt tâm áp sau khi giết Joseph Rhîmes.”
“Linh hồn của chị ấy cần có nhiều năm để hồi phục,” Unalaq nói. “Trong nhiều năm đó Esther sẽ rất yếu đuối, như một người bị hôn mê sâu.”
“Tôi… đại khái đã hiểu.” Ghế của Holly kêu răng rắc. “Esther Little ‘nhập linh’ vào tôi, giúp tôi thoát khỏi hiện trường án mạng, xóa ký ức của tôi về những việc đã xảy ra… Hiểu rồi. Nhưng rồi bà ấy đi đâu sau khi… hồi phục?”
Ōshima, Unalaq và tôi cùng nhìn đầu của Holly.
Holly nhướng mày, rồi hiểu ra. “Các người giỡn chơi sao.”
Đến bảy giờ tối, bóng nhập nhoạng phủ lên căn gác xép những sắc tím, xám và đen. Chiếc đèn nhỏ trên cây dương cầm ửng sắc vàng hoa thủy tiên. Bốn tầng lầu bên dưới, tôi thấy tay quản lý hiệu sách đang chào tạm biệt nhân viên. Rồi anh ta bước đi, tay trong tay với một quý cô be bé xinh xinh. Cặp đôi tạo nên một cảnh tượng rất cổ điển dưới ánh đèn đường mờ sương của đường số 10 phía Tây. Tôi kéo rèm che kính chống đạn lấm tấm mưa bụi. Ōshima, Unalaq và tôi dành trọn buổi chiều giải thích thêm với Holly về Trắc Thời Phái và Chiến Tranh với Ẩn Sĩ, vừa nói vừa ăn món bánh kếp của Inez. Đi ra ngoài lúc này thật là liều lĩnh một cách không cần thiết sau thảm họa đường tơ kẻ tóc sáng nay, và chúng tôi cũng sẽ tránh nhà 119A cho đến cuộc hẹn với D’Arnoq vào Thứ Sáu. Arkady và tấm choàng ngụy lệnh Dòng Sâu sẽ đảm bảo an toàn cho nơi đó. Trong bản tin tối, “Vụ thanh toán lẫn nhau trên đại lộ số Năm của những kẻ đóng giả cảnh sát” là tin chính, phóng viên phỏng đoán rằng những kẻ đã chết là một băng cướp ngân hàng, cãi nhau một trận chí mạng trước phi vụ. Các đài truyền hình quốc gia không đưa tin vụ này, bởi hôm qua đã có vụ thảm sát bằng súng ở Beck Creek, Texas, vụ tranh chấp Senkaku/ Điếu Ngư vừa được nhóm lại giữa Nhật Bản và Trung Quốc, thêm cuộc li dị lần thứ năm của Justin Bieber. Ẩn Sĩ sẽ biết rằng Brzycki bị giết bằng can thiệp tâm biệt năng, nhưng việc đó sẽ ảnh hưởng đến những kế hoạch chúng vạch sẵn cho Sứ Mệnh Thứ Hai ra sao, tôi không thể đoán. Tôi vẫn chưa nghe gì thêm từ kẻ đào ngũ Elijah D’Arnoq. Tôi nghe tiếng bước chân của Unalaq và Holly trên cầu thang kẽo kẹt, hai người xuất hiện ở bậc cửa.
“Còn có cả ghế băng của bác sĩ tâm lý.” Holly nói.
“Bác sĩ Marinus sẽ khám cho chị ngay đây” Tôi nói. “Thêm lần nữa. Chị sẵn sàng chưa?”
Holly tháo dép, nằm lên ghế. “Tôi có hơn nửa thế kỷ ký ức được cất kỹ, đúng không?”
Tôi xắn tay áo sơ mi lên. “Một sự vô hạn hữu hạn, đúng thế.”
“Làm sao cô biết tìm Esther Little ở đâu trong đó?”
“Tôi được gởi một manh mối qua một tài xế taxi ở Poughkeepsie,” tôi đáp.
Unalaq đặt gối tựa dưới đầu Holly. “Thư giãn nhé.”
“Marinus?” Holly nao núng. “Cô sẽ thấy tất cả những gì tôi từng làm chứ?”
“Phân linh là vậy đó. Nhưng tôi là bác sĩ tâm thần từ thế kỷ thứ 7, chị nhớ cho. Hầu như chẳng có gì là tôi chưa thấy.”
Holly thấy đôi tay mình thừa thãi. “Vậy khi được phân linh tôi có tỉnh táo không?”
“Tôi có thể áp đoạn lệnh cho chị khi phân linh, nếu chị muốn.”
“Ừ… không cần đâu. Vâng. Tôi không biết. Cô quyết định đi.”
“Được thôi. Kể tôi nghe về nhà của chị, gần Bantry.”
“Ô kê. Nhà nghỉ Dooneen vốn là của bà trẻ Eilísh. Nhà nằm trên bán đảo Đầu Cừu, bán đảo như một ngón tay bằng đá chỉ ra Đại Tây Dương. Từ cuối vườn có dốc xuống một bãi biển, và có đường mòn xuống cầu cảng và…”
Khi nhập linh, tôi cũng áp đoạn lệnh cho cô. Làm vậy dường như cũng tử tế hơn với Holly. Ký ức hiện tại-hoàn thành của Holly đầy những sự kiện kỳ lạ ngày hôm nay, nhưng chẳng mấy chốc những ký ức cũ hơn bồng bềnh quanh linh hồn tôi như những tấm trải giường trên dây phơi trong ngày gió. Holly đón taxi từ khách sạn Empire lúc sáng sớm. Gặp tôi ở quán Santorini Café, và ở Blithewood. Đáp máy bay xuống Boston tuần trước. Tôi đi lùi lại xa, trở về ký ức của quá khứ - hoàn thành. Holly vẽ tranh trong studio, trải rong biển trên luống khoai tây, xem TV với Aoife và bạn trai của Aoife. Những con mèo. Chim báo bão. Tua nhanh. Trộn mứt làm nhân bánh Giáng Sinh. Tang lễ của Kath Sykes ở Broadstairs. Sâu hơn, nhanh hơn, như tua một đĩa DVD kiểu cũ, một khuôn hình mỗi tám, mười sáu, ba mươi hai, sáu mươi tư… Nhanh quá. Chậm lại. Quá chậm, tôi thấy mình như đang đi tìm một chiếc hoa tai đánh rơi đâu đó ở Wyoming, tôi phải hết sức cẩn thận. Một ký ức sống động về bác sĩ Tom Ballantyne: ‘Tôi đã gởi ba mẫu đến ba phòng thí nghiệm khác nhau. Quá trình thuyên giảm rất khó nói, nhưng hiện giờ thì đúng là chị không có bệnh. Tôi sẽ không giả vờ là mình hiểu tại sao - nhưng chúc mừng chị.’ Sâu hơn, xa hơn. Ký ức Holly gặp Crispin Hershey ở Reykjavik, ở Thượng Hải, ở đảo Rottnest. Hai người đã yêu nhau, như tôi thấy, nhưng cả hai chỉ ngờ ngợ điều đó. Chuyến đi Mỹ giới thiệu sách đầu tiên của Holly, cho cuốn Người Trên Đài. Văn phòng của Holly ở trung tâm hỗ trợ người vô gia cư. Cô bạn kiêm đồng nghiệp người xứ Wales tên Gwyn. Gương mặt Aoife khi Holly nói rằng Ed đã chết trong một trận tấn công tên lửa. Giọng của Olive Sun trên điện thoại, trước đó một tiếng. Những ngày hạnh phúc hơn. Xem Aoife biểu diễn trong vở Phù thủy xứ Oz, cầm tay Ed trong bóng tối. Học môn Tâm lý học với Trường Đại học Mở. Gì đây, thấp thoáng Hugo Lamb… Dừng lại. Đêm của hai người trong căn phòng ở một thị trấn Thụy Sĩ, không phải việc của tôi, nhưng đôi mắt người trai trẻ ấy mới sung sướng, hạnh phúc ngây dại làm sao. Anh ta cũng yêu Holly. Nhưng Ẩn Sĩ tìm đến. Số phận hay định mệnh? Kịch Bản hay Phản Kịch Bản? Không có thời gian. Nhanh lên. Sâu hơn. Một vườn nho ở Pháp. Một bãi biển xám đá - nơi trú ẩn ở đây chăng? Khôn