← Quay lại trang sách

6 Tháng Tư

Linh hồn của Esther xuất ra trước từ trán của Holly, tôi theo sau, bước vào một buổi sáng ngày mới. Holly vẫn đang nằm trên ghế, bất động, với cơ thể tôi cạnh đó, cũng bất động. Chưa ai thấy chúng tôi. Unalaq đang đọc sách còn Arkady từ 119A sang đang viết lên máy bảng. Tôi nhập linh Iris Marinus-Fenby và se sợi linh hồn mình vào trong não. Mũi tôi ngửi thấy mùi bánh mì cháy, tai tôi nghe tiếng xe cộ, bắp chân và ngón chân tôi nhức nhối, dạ dày trống rỗng và trong miệng tôi như có chuột bọ chết. Tìm dây thần kinh thị giác luôn tốn nhiều thời gian hơn. Đột nhiên Unalaq phá ra cười sung sướng và nói, “Cứ tự nhiên” và tôi biết linh hồn của Esther đã đi đâu. Đôi mắt tôi, khi tôi mở được mí mắt ra, thấy Arkady đang chồm tới “Marinus? Chị đã về chưa?”

“Đáng ra anh phải trông chừng Sadaqat chứ.”

“L’Ohkna bay về tối hôm qua. Chị có tìm ra Esther không?”

“Tại sao anh không đi mà hỏi Unalaq thử?”

Arkady quay lại vừa lúc thấy Esther-trong-Unalaq đánh rơi cuốn sách, đưa bàn tay lên rồi nhìn chong chong vào đó, như thể bàn tay vừa được gắn vào. “Ngón tay,” chị nói, giọng như người say rượu. “Lâu không dùng cũng quên mất. À này.” Chị co giãn cơ khóe miệng. “Arkady. Nghe nói vậy.” Arkady đứng bật dậy như một nhân vật tội lỗi trong phim bộ tâm lý xã hội.

“Ta vừa quay lưng được vài thập kỷ vớ vẩn,” Esther-trong-Unalaq gầm gào, “mà ngươi đã từ một nhà thần kinh học Việt Nam thành… tiền đạo chính trong đội bóng rổ New York Knicks?”

Arkady nhìn tôi. Tôi gật đầu. “Lạy Chúa tôi. Lạy Chúa tôi. Lạy Chúa tôi.”

“Ngươi phải bỏ cái đuôi ngựa ấy đi. Mà ngươi đang cầm thứ gì đó? Đừng nói ti-vi đã thành cái của đó chứ?”

“Máy bảng, để lên Internet. Giống như laptop nhưng không có bàn phím.”

Esther-trong-Unalaq nhìn tôi. “Đang nói tiếng Anh đó sao? Vậy còn gì nữa đã thay đổi từ năm 1984?”

“Dầu mỏ đang dần cạn kiệt,” tôi bắt mạch cho Holly, nhìn kim giây trên đồng hồ. “Dân số thế giới đạt tám tỉ, nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng, quá trình biến đổi khí hậu đang khép lại kỷ Holocene. Chủ nghĩa Apartheid đã chết, quyền riêng tư cũng vậy. Liên Xô tan vỡ; khối các nước Đông Âu sụp đổ; Đức tái thống nhất; EU đã trở thành liên bang; Trung Quốc là một siêu cường - mặc dù không khí ở đó chỉ toàn khí thải công nghiệp. Người Kurd trên thực tế đã có nhà nước riêng; khắp Trung Đông đâu đâu cũng Sunni đánh với Shi’a; người Tamil ở Sri Lanka bị tàn sát; người Palestine vẫn phải chật vật kiếm ăn từ rác rưởi của Israel. Người ta dựa vào những trung tâm dữ liệu thay cho trí nhớ của chính mình, dựa vào máy bảng thay cho những kỹ năng cơ bản. Ngày mười một tháng Chín năm 2001, không tặc Ả Rập Saudi đâm hai máy bay vào Tháp Đôi. Hệ quả là Afghanistan và Iraq bị trong nhiều năm đầy lính Mỹ và một ít lính Anh. Tình trạng bất bình đẳng đã đến mức ngột ngạt. Hai mươi bảy người giàu nhất thế giới sở hữu nhiều tài sản hơn năm triệu người nghèo nhất, và người ta chấp nhận đó là chuyện bình thường. Nhưng mặt khác, máy bảng của Arkady có sức mạnh điện toán nhiều hơn tổng số máy móc trên thế giới khi chị ghé lại lần trước; một tổng thống người Mỹ gốc Phi giữ Nhà Trắng qua hai nhiệm kỳ; và ta có thể mua quả dâu vào dịp Giáng Sinh.” Tôi kiểm tra đồng hồ một lần nữa. “Mạch của Holly ổn, nhưng ta nên hủy đoạn lệnh với cô ấy. Cô ấy sẽ rất khát. Ōshima đâu rồi?”

“Nghe đâu,” Ōshima xuất hiện ở bậc cửa, “có Rip van Winkle[62] hạ cố đến thăm chúng ta.”

Esther-trong-Unalaq nhìn người tình khi có khi không của mình. “Ta rất muốn nói, ‘Ngươi không già đi một ngày,’ Ōshima, nhưng nói vậy lại không đúng.”

“Nếu chị nhắn trước, có khi tôi đã đi ra ngoài mà tìm một lưu thể xinh hơn. Nhưng ai cũng nghĩ chị đã chết.”

“Thì ta đã suýt chết, sau khi xong việc với Joseph Rhîmes.”

“Một ông giáo ở Na Uy biết được sự thật! Một con nghiện ở Milwaukee cũng biết sự thật! Hay không nói cho tôi biết mới là ‘tuân theo Kịch Bản’?”

“Không phải, có quái gì mà không hiểu, Ōshima.” Arkady ngầm-hỏi tôi, Chị tin nổi hai người này không?

“Nếu Ẩn Sĩ nghi ngờ rằng ta đã sống sót qua Sứ Mệnh Thứ Nhất,” Esther-trong-Unalaq nói, “chúng hẳn sẽ tìm diệt bất cứ kẻ nào có thể cho ta trú nhờ. Hồi năm 1984, Xi Lo nhất trí với ta rằng nếu vụ đột nhập Nhà Nguyện thất bại, Pfenninger và Constantin sẽ xóa sổ hết thảy những Trắc Sĩ còn lại, để mà rảnh tay trong một thập kỷ. Cũng có nghĩa rằng ngươi là một mục tiêu, Ōshima. Nếu vậy, ngươi đã chỉ phải chết một lần, vì người là Hồi Khách, nhưng là một Lưu Khách bị trọng thương, ta sẽ chết-chết hẳn. Chiến lược an toàn nhất là tìm nơi ẩu náu trong một đứa trẻ hữu thời mạnh mẽ, sẽ sống qua vài thập kỷ, và không cho ai biết cho đến lúc phải thức dậy.”

“Holly đã rất mạnh mẽ,” tôi nói. “Ta nên để cô ấy đi.”

Esther miết ngón tay như hồng ngọc của Unalaq lên cọng hoa tulip. “Sau vài năm ta nhớ màu tím…”

Khi Esther cố né tránh, tôi thấy lo. “Holly đã trả nợ đủ rồi, Esther. Xin chị đấy. Cô ấy đáng được yên ổn.”

“Đúng thế,” Esther nói. “Nhưng không đơn giản là thế.”

“Lại theo như Kịch Bản?” Ōshima hỏi.

Esther hít đầy buồng phổi của Unalaq và chậm rãi thở ra. “Có một đường nứt.”

Không ai hiểu gì cả. Arkady hỏi, “Đường nứt ở đâu kia?”

“Đường nứt trong kết cấu của Nhà Nguyện Bụi Tối.”

Thư viện trong căn hộ của Unalaq và Inez như một giếng vuông sâu, tường bao quanh là những giá sách. Sàn lát gỗ chỉ đủ chỗ đặt chiếc bàn tròn, cầu thang xoắn ốc dẫn lên không phải một mà là hai ban công nối với những kệ sách cao hơn, ánh nắng sáng Thứ Hai tràn vào qua cửa sổ trần cách chúng tôi sáu mét trên cao. Nắng rọi sáng một hình chữ nhật lấp đầy những gáy sách. Ōshima, Arkady, Esther-trong-Unalaq và tôi ngồi quanh bàn, nói chuyện công việc của Trắc Thời Phái cho đến khi có tiếng gõ cửa và Holly bước vào, đã ăn uống, tắm rửa và mặc áo quần rộng mượn của Inez. Khăn quấn đầu mới của cô màu xanh dương sẫm, lấm tấm sao trắng. “Chào,” người đàn bà mệt mỏi, đã có nếp nhăn lên tiếng. “Tôi hi vọng đã không để các anh chị phải chờ lâu.”

“Ngươi đã chứa ta bốn mươi mốt năm, thưa bà Sykes,” Esther-trong-Unalaq nói. “Một vài phút thì có là gì.”

“Cứ gọi tôi là Holly. Các vị cứ tự nhiên. Ui chao. Nhìn sách ở đây này. Thời nay thật hiếm khi thấy nhiều sách như vậy.”

“Sách sẽ trở lại,” Esther-in-Unalaq đoán. “Đợi đến khi mạng điện bắt đầu trục trặc vào cuối những năm 2030 và những kho chứa dữ liệu bị xóa sạch. Cũng chẳng lâu nữa. Tương lai trông rất giống với quá khứ.”

Holly hỏi, “Đó là… là lời tiên tri chính thức sao?”

“Đó là kết quả không thể tránh được,” tôi nói, “của bùng nổ dân số và những lời nói dối về trữ lượng dầu mỏ. Nhưng thôi. Ghế này là của chị.”

“Bàn đẹp quá,” Holly nhận xét, ngồi xuống.

“Nó lớn tuổi hơn đất nước này đấy,” Arkady nói.

Holly rà ngón tay lên những vân gỗ thủy tùng trong chốc lát. “Nhưng vẫn nhỏ tuổi hơn các vị, đúng không?”

“Tuổi tác là một khái niệm tương đối,” tôi nói, gõ đốt ngón tay nhẹ nhàng lên mặt gỗ đã cũ xưa. “Vào việc nào.”

Esther-trong-Unalaq hất mớ tóc màu đồng của Unalaq vừa xòa xuống trước mặt. “Holly. Nhiều năm trước ngươi đã vội vàng hứa với một bà già câu cá trên cầu cảng. Ngươi hẳn đã không thể biết được những hệ quả thực sự của lời hứa đó, nhưng ngươi vẫn giữ lời. Chính vì thế ngươi đã bị kéo vào Chiến Trạm của Trắc Thời Phái với Ẩn Sĩ. Khi Marinus và ta xuất linh từ ngươi lúc nãy, vai trò thứ nhất của ngươi trong Chiến Trạm chấm dứt. Xin nhận lấy lời cảm tạ. Từ ta, từ Trắc Thời Phái. Ta nợ ngươi mạng sống của mình.” Những Trắc Sĩ còn lại tỏ vẻ đồng ý. “Tin tốt lành là đây. Trước sáu giờ tối mai, theo như đồng hồ trên thế giới, Chiến Tranh sẽ chấm dứt.”

“Một hiệp định hòa bình?” Holly hỏi. “Hay đánh nhau chí mạng?”

“Đánh nhau chí mạng,” Arkady trả lời, cào ngón tay qua mớ tóc mướt mát. “Người canh rừng và lâm tặc không thể nào kí hiệp định hòa bình.”

“Nếu chúng ta thắng,” Esther-trong-Unalaq nói, “ngươi sẽ được về nhà tự do, Holly. Nếu không, ta sẽ không thể dựng thêm những màn cứu hộ ly kỳ nữa. Chúng ta sẽ chết-chết. Ta sẽ không nói dối. Chúng ta không biết kẻ thù sẽ làm gì sau khi chiến thắng. Đặc biệt là Constantin vốn nhớ dai.”

Holly thấy bất an, đương nhiên. “Chứ không phải bà có khả năng tiền thức hay sao?”

“Ngươi biết tiền thức là như thế nào mà, Holly,” Esther nói. “Chỉ là những chớp thị nhấp nhoáng. Là những điểm trên bản đồ, nhưng có bao giờ là cả tấm bản đồ đâu.”

Holly cân nhắc. “Vai trò đầu tiên của tôi trong Cuộc Chiến của các vị, như bà vừa nói. Tức là có vai trò thứ hai nữa.”

“Ngày mai,” tôi tiếp lời, “một Ẩn Sĩ bậc cao tên Elijah D’Arnoq có hẹn ở phòng khách nhà 119A. D’Arnoq ngỏ ý muốn đi cùng chúng tôi đến Nhà Nguyện Bụi Tối và giúp phá hủy nó. Gã nói rằng mình là một kẻ đào ngũ, vì không thể nào chịu được sự tàn ác vô đạo của việc thanh linh những kẻ ‘hiến linh’ vô tội.”

“Nghe như cô không tin gã.”

Ōshima gõ ngón tay trên bàn. “Tôi không tin.”

Holly hỏi, “Chẳng lẽ cô không thể thâm nhập vào tâm trí của tên đào ngũ đó để kiểm tra?”

“Tôi đã làm thế rồi,” tôi giải thích, “những gì tôi nhìn thấy khớp với câu chuyện của gã. Nhưng bằng chứng nào cũng có thể bị can thiệp. Tất cả những kẻ đào ngũ đều có mối quan hệ phức tạp với sự thật.”

Holly đặt câu hỏi hiển nhiên: “Vậy tại sao lại đi liều vậy?”

“Bởi vì bây giờ ta có một thứ vũ khí bí mật,” tôi trả lời, “và thông tin tình báo mới.”

Chúng tôi cùng nhìn về phía Esther-trong-Unalaq. “Trở lại hồi năm 1984,” chị nói với Holly, “và với cái mà chúng ta gọi là Sứ Mệnh Thứ Nhất nhắm vào thành trì của kẻ thù, ta đã tìm ra một vết nứt như sợi tóc chạy từ đỉnh xuống hình tượng. Ta tin rằng ta… có thể mở toang vết nứt đó.”

“Bụi Tối,” tôi giải thích tiếp, “sau đó sẽ tràn vào Nhà Nguyện, và phá hủy nó. Thầy Cathar Mù với những vết tích vẫn còn tri giác của ông ta náu bên trong Nhà Nguyện sẽ tàn lụi. Mọi Ẩn Sĩ bị Bụi Tối chạm đến sẽ chết. Những Ẩn Sĩ khác sẽ mất đi điểm thanh linh và sẽ bị già đi như người thường.”

Holly đặt câu hỏi ít hiển nhiên hơn: “Bà nói rằng Thầy Cathar Mù là một thiên tài, một ông Einstein bí hiểm, người có thể ‘suy nghĩ’ vật chất thành hiện thực. Vậy tại sao ông ta không nhận thấy rằng kiệt tác của mình bị móp một chút trên áo giáp?”

“Nhà Nguyện được xây bằng lòng tin,” Esther đáp. “Nhưng lòng tin cần nỗi hoài nghi, như vật chất cần phản vật chất. Vết nứt ấy chính là nỗi hoài nghi của Thầy Cathar Mù. Nó đã có từ rất lâu, trước khi ông ta hóa thân. Nỗi hoài nghi rằng ông ta đang phụng sự Thiên Chúa. Hoài nghi rằng ông ta có quyền lấy đi linh hồn của kẻ khác để mà đánh lừa cái chết.”

“Vậy bà có ý định… nhét thuốc nổ vào vết nứt đó?”

“Nitroglycerin sẽ không làm trầy được lớp sơn tường,” Ōshima nói. “Nơi đó đã chịu được Bụi Tối qua hàng thế kỷ. Một vụ nổ bom hạt nhân có thể làm nên chuyện, nhưng huy động vũ khí thì cách rách lắm. Ở đây ta cần thuốc nổ tâm biệt năng.”

Esther hắng giọng của Unalaq. “Là chính tôi.”

Holly nhìn tôi: “Một sứ mệnh tự sát?”

“Nếu kẻ đào ngũ là giả tạo, và lời hứa chỉ cho chúng ta cách phá hủy Nhà Nguyện an toàn là dối trá và là một cái bẫy, thì khả năng đó là thật.”

“Ý Marinus là đúng vậy,” Ōshima nói. “Một sứ mệnh tự sát.”

“Trời đất,” Holly tiếp. “Vậy bà lên đó một mình sao Esther?”

Esther lắc đầu của Unalaq. “Nếu D’Arnoq muốn dụ dỗ những Trắc Sĩ cuối cùng lên Thạch Đạo, gã sẽ muốn hết thảy những Trắc Sĩ cuối cùng, chứ không chỉ một người. Nếu Sứ Mệnh Thứ Hai là một vụ phục kích, ta cần người khác câu giờ cho ta. Làm nổ linh hồn mình đâu phải chuyện giỡn chơi.”

Tôi nghe có tiếng đàn piano, nhè nhẹ. Inez đang chơi “My Wild Irish Rose.”

Holly hỏi, “Vậy nếu Esther phải cho nổ tung cái… cái trung tâm đầu não của kẻ thù này, và giả sử bà ấy thành công…” Cô nhìn những người con lại.

“Bụi Tối hòa tan mọi mô sống,” Ōshima nói. “Hết phim.”

“Trừ khi,” tôi chen ngang, “có một cách quay trở lại Ánh Sáng Của Ngày mà ta vẫn chưa biết. Một con đường do đồng minh xây nên. Ở bên trong.”

Nửa dặm trên đầu chúng tôi, một đám mây bay qua giữa cửa sổ trần và ngôi sao gần nhất, hình chữ nhật ánh nắng nhạt đi.

Holly đọc ý tôi. “Vậy có gì mà các vị vẫn chưa nói với tôi?”

Tôi nhìn Esther, chị nhún đôi vai của Unalaq: Ngươi quen với cô ta lâu nhất còn gì. Vậy là tôi nói ra điều mà về sau tôi sẽ không rút lại được: “Khi Sứ Mệnh Thứ Nhất diễn ra, cả tôi lẫn Esther đều không tận mắt thấy Xi Lo chết.”

Có những khoảng khắc hiếm hoi, thư viện như cũng có tâm trí riêng. Holly ngọ nguậy trên ghế. “Vậy cô thấy gì?”

“Tôi thì không thấy gì nhiều,” tôi nói. “Khi đó tôi cố trút hết tâm áp vào linh chắn của chúng tôi. Nhưng Esther đứng cạnh Jacko khi Xi Lo xuất linh và…” Tôi nhìn người đồng nghiệp.

“Và nhập linh qua mắt chakra trên hình tượng của Thầy Cathar Mù. Hắn không bị kéo vào đó như một nạn nhân. Xi Lo vận linh vào trong, như một viên đạn. Và… ngay trước lúc hắn biến mất, ta nghe Xi Lo ngầm-nói với ta bốn tiếng Ta sẽ ở đây.”

“Ta không biết,” tôi thừa nhận, “liệu đây là một hành động bột phát, hay là một kế hoạch mà Xi Lo chưa thổ lộ, vì lý do riêng. Nếu Xi Lo hi vọng phá hủy được Nhà Nguyện, anh ấy đã thất bại. Một trăm sáu mươi tư người đã mất mạng sống và linh hồn trong Nhà Nguyện Bụi Tối từ năm 1984. Một người đàn ông tội nghiệp đã bị bắt cóc từ một khoa tâm thần được canh giữ nghiêm ngặt ở Vancouver chỉ tuần trước. Nhưng… Esther nghĩ rằng từ đó đến nay Xi Lo đã dọn đường cho Sứ Mệnh Thứ Hai. Holly? Chị ổn chứ?”

Holly chặm mắt bằng cổ tay áo của Inez. “Xin lỗi, tôi… Câu Ta sẽ ở đây,” chị nói. “Tôi cũng nghe thấy câu đó. Trong cơn ác mộng ban ngày khi tôi ở trong đường hầm, lúc gần tới Rochester.”

Esther đặc biệt quan tâm. “Những giọng nói, những linh cảm đó ngươi từ lâu đã không còn, nhưng ngươi có nhớ ngày trước, khi dường như chúng luôn cố nói một điều gì đó? Có lẽ ý nghĩa của điều đó không rõ rằng, nhưng Kịch Bản không muốn thay đổi. Ngươi còn nhớ cảm giác đó không?”

Holly nuốt khan và ngồi ngay lại. “Tôi còn nhớ.”

“Kịch Bản khăng khăng rằng Xi Lo, kỳ lạ thay, vẫn còn sống. Cho đến hôm nay.”

“Tôi không biết,” tôi nói, “chị đang nghĩ Xi Lo là kẻ ăn cắp cơ thể, hay…” dáng vẻ Holly như đang nung nấu một sự giận dữ “…một cái kệ sách, chẳng hạn, một cái kệ nhiều sách, cuốn mới nhất trên đó là Jacko Sykes. Không ai ở đây nói rằng, ‘Nếu chị tham gia Sứ Mệnh Thứ Hai, chị sẽ đưa được em trai về,’ bởi vì ngay chính chúng tôi cũng không biết, nhưng…”

“Xi Lo của các vị,” Holly cắt ngang, “là Jacko của tôi. Các vị yêu thương người sáng lập, người bạn của mình, cũng như tôi yêu thương, rất yêu thương em trai tôi. Tôi cũng không biết, có lẽ tôi thật khờ khạo. Suy cho cùng, các vị là một hội các giáo sư bất tử, có lẽ đã đọc hết chừng đó sách…” cô chỉ tay vào bốn bức tường kệ sách cao thẳng lên cửa sổ trần “…còn tôi bỏ ngang trung học. Có khi còn tệ hơn vậy, có khi tôi chỉ đang cố níu kéo, hão huyền, cố hi vọng, hi vọng một cách đáng thương, như một người mẹ trả tiền cho thầy bói bịp bợm để ‘gọi’ đứa con trai đã chết về… Nhưng các vị biết sao không? Jacko vẫn là em trai tôi, ngay cả khi nó thật ra là Xi Lo và lớn tuổi hơn cả chúa Jesus, và nếu chuyện xảy ra với tôi, hẳn nó đã đi tìm tôi. Vậy, Marinus, nếu chỉ có một phần nghìn cơ hội rằng Xi Lo hay Jacko vẫn còn trong cái Nhà Nguyện Bụi Tối hay Cồn Cát hay đâu đâu nữa và Sứ Mệnh Thứ Hai của các vị sẽ đưa tôi đến với nó, tôi muốn tham gia. Các vị không thể cản tôi. Đừng hòng.”

Khoảng nắng hình chữ nhật trở lại, những hạt bụi xoáy vòng trong vạt nắng chiếu xéo xuống bức tường sách. Một thứ phấn hoa bằng vàng.

“Với chị, Chiến Tranh của chúng tôi hẳn rất lạ lùng, nhưng chết trong Nhà Nguyện thì cũng như chết trong tai nạn xe hơi. Hãy nghĩ đến Aoife…”

“Lúc nãy cô có nói rằng cô không thể đảm bảo an toàn cho Aoife, hay cho tôi, trừ khi diệt được Ẩn Sĩ. Đúng vậy không?”

Lương tâm tôi muốn rút đi, nhưng tôi phải đồng ý. “Đúng thế, tôi đã nói vậy. Nhưng kẻ thù của chúng tôi rất nguy hiểm.”

“Nghe đây, tôi là người sống qua bệnh ung thư, đã năm mươi mấy tuổi, và tôi chưa bao giờ bắn một khẩu súng hơn và tôi không có…” tay cô múa may “năng lực tâm linh gì hết. Không giống như cácc vịị. Nhưng tôi là mẹ của Aoife và là chị của Jacko và những… những kẻ này đã làm hại, đã đe dọa những người tôi yêu thương. Nên nghe đây: tôi chẳng ngán gì đâu”

Dù sao đi nữa, Ōshima ngầm-nhắc tôi, tôi tin cô ta.

“Chị cứ nghĩ kỹ,” tôi nói với Holly. “Sáng mai hẵng quyết định.”