Xứ Đầu Cừu 2043-26 Tháng Mười
Ở chân cầu thang tôi nghe trong đầu mình có suy nghĩ, Hắn đang tới, và hai cánh tay tôi rờn rợn sởn gai ốc. Ai kia? Phía trước, Zimbra quay lại nhìn, không biết vì sao tôi vẫn chưa đi lên theo nó. Tôi gạn lọc những âm thanh của buổi chiều tối. Tiếng bếp lò lang cang, lục cục khi đang nguội dần. Sóng biển vỗ lên bãi đá phía dưới khu vườn. Tiếng xương cốt rệu rã của căn nhà cũ. Rồi cả tiếng xương cốt rệu rã của Holly Sykes. Tôi rướn người qua tay vịn cầu thang, nhìn qua cửa sổ nhà bếp đến con dốc dẫn lên nhà của Mo. Đèn phòng ngủ vẫn sáng. Bên đó vẫn bình yên. Không có bước chân trên lối đi rải sỏi vào vườn. Zimbra không đánh hơi thấy mùi khách lạ. Đám gà mái im lặng, giờ này như vậy là ổn. Lorelei và Rafiq cười khúc khích trong phòng của Lorelei, hai đứa đang chơi trò múa rối bóng. “Chẳng giống kangaroo gì cả, chị Lol!”; “Nhưng làm sao cưng biết?”; “Vậy thì làm sao chị biết?” Cách đây chưa lâu, tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ nghe tiếng hai đứa trẻ mồ côi cười đùa như vậy nữa.
Mọi việc bình thường. Không còn những suy nghĩ thành tiếng trong đầu. Lúc nào mà chẳng có người đang đi tới. Nhưng, không, suy nghĩ đó là Hắn đang tới, tôi chắc mà. Hoặc, chỉ có thể chắc chắn trong khả năng của mình. Vấn đề ở chỗ, nếu đã từng nghe thấy giọng nói trong đầu một lần, ta sẽ không bao giờ biết chắc một suy nghĩ tình cờ chỉ là một suy nghĩ tình cờ, hay là gì khác nữa. Rồi nhớ đến ngày tháng: ngày mai là kỷ niệm năm năm cơn Giga-bão’38 - máy bay 797 chở Aoife và Örvar bị gãy ở độ cao sáu nghìn mét, cùng với hai trăm chiếc máy bay đang băng qua Thái Bình Dương, như thể có một cậu bé hờn dỗi đang bẻ gãy những chiếc máy bay mô hình Airfix, thứ đồ chơi mà Brendan hồi nhỏ hay treo trên trần phòng ngủ.
“Ôi, đừng lo cho ta,” tôi lẩm bẩm với Zimbra, rồi đi tiếp lên cầu thang, những bậc thang tôi từng chạy như bay lên xuống. “Thôi mà,” tôi nói với Zimbra, “nhấc mông lên.” Tôi vuốt xoáy lông giữa hai tai nó, một bên vểnh, một bên cụp. Zimbra nhìn lên, như thể đang đọc tâm trí tôi bằng đôi mắt to đen đó. “Mày sẽ báo cho tao nếu có chuyện đáng lo, phải không Zimbra?”
Nếu còn chuyện gì khác để lo lắng nữa, ngoài nỗi sợ cứ dai dẳng bên tôi rằng bệnh ung thư sẽ tái phát; lo chuyện gì sẽ xảy ra với Lorelei và Rafiq nếu tôi chết; lo ngại tuyên bố của Thủ tướng Ireland về Hinkley Point và thái độ khăng khăng của chính phủ Anh quốc rằng “Một vụ nóng chảy hạt nhân toàn diện ở lò phản ứng tại Hinkley E sẽ không xảy ra”; lo rằng Brendan đang sống chỉ cách vùng cách ly mới chỉ vài dặm; lo tình hình thuyền nhân vừa đến ở gần Wexford, hàng nghìn đàn ông, đàn bà và trẻ em đó sẽ đi đâu, sẽ sống ra sao qua mùa đông; rồi những tin đồn về Cúm Chuột ở Belfast; và dự trữ insulin đang cạn dần; rồi cổ chân của Mo; rồi…
Những ngày âu lo, Holly Sykes.
“Biết ngay mà” Rafiq nói, thằng nhỏ như bơi trong áo khoác đỏ cũ của Aoife, giờ đã thành áo choàng ngủ của nó. Nó ngồi bó gối dưới chân giường Lorelei. “Khi Marcus phát hiện ra cái cài áo choàng bị mất là con đoán được ngay. Làm gì có chuyện chôm con đại bàng vàng từ một tộc người như Người Xăm mà được yên. Với họ thì khác gì Marcus và Esca đã chôm Chúa. Đương nhiên họ sẽ đi bắt anh ta cho bằng được.” Rồi, vì thằng nhỏ biết tôi yêu truyện Con Đại Bàng của Quân đoàn thứ Chín ra sao, nó nài nỉ: “Bà Holly, đọc thêm một chút xíu chương mới không được sao?”
“Gần mười giờ rồi,”Lorelei nói, “ngày mai còn đi học nữa,” và nếu nhắm mắt lại tôi gần như có thể tưởng tượng ra một Aoife mười lăm tuổi.
“Máy bảng đã nạp điện chưa bà?”
“Rồi, nhưng không có sợi mạng, cũng không có Mạng.”
“Có thật không hả bà,” Rafiq chẳng có vẻ gì muốn rời khỏi giường của Lorelei cả, “có thật là khi bà bằng tuổi Rafiq, bà muốn có bao nhiêu điện cũng được, lúc nào cũng được?”
“À có người đang kiếm cớ câu giờ để khỏi đi ngủ, đúng không hả anh bạn?”
Nó nhe răng cười. “Có điện kiểu đó thật là tời.”
“Thật là sao kia?”
“Tời. Ai cũng nói vậy mà. Bà biết mà: tời là tuyệt vời đó, đỉnh của đỉnh, hay ho.”
“Ồ. Giờ nghĩ lại thì đúng là ‘tời’, nhưng lúc đó người ta thấy bình thường lắm.” Tôi nhớ lại Ed sung sướng dùng điện thoải mái mỗi khi về đến nhà chúng tôi ở Stoke Newington từ Baghdad, nơi mà anh và các đồng nghiệp phải sạc laptop và điện thoại vệ tinh bằng ắc qui xe hơi, do người bán ắc qui mang đến. Đảo Đầu Cừu cũng đang cần một anh bán ắc qui, nhưng xe của anh này sẽ cần diesel, hiện giờ đã hết, chính lại là lý do ta cần anh bán ắc qui.
“Với lại hồi đó lúc nào cũng có máy bay, phải không bà?” Rafiq thở dài. “Không phải chỉ có người bên Xứ Dầu Mỏ hay Mặt Trận Bình Ổn mới được đi máy bay?”
“Ừ, nhưng mà…” tôi loay hoay tìm cách chuyển đề tài. Tối nay Lorelei hẳn cũng suy nghĩ những chuyện buồn về máy bay.
“Vậy bà đã đi những đâu hả bà Holly?” Rafiq không bao giờ thấy mệt khi hỏi tôi những chuyện như vậy, hỏi bao nhiêu lần cũng được.
“Đi khắp nơi,” Lorelei nói, con nhỏ thật cứng rắn, chiều em. “Colombia, Australia, Trung Quốc, Iceland, Cựu New York. Phải vậy không hả ngoại?”
“Ừ, đúng rồi.” Tôi tự hỏi không biết cuộc sống ở Cartagena, ở Perth, ở Thượng Hải bây giờ ra sao. Mười năm trước tôi có thể lên mạng xem bản đồ đường phố trực tuyến ở những nơi đó, nhưng Mạng bây giờ quá bệ rạc, ngay cả khi có tín hiệu tốc độ cũng chỉ bằng thời tiền -broadband. Máy bảng của tôi cũng cũ dần, mà tôi chỉ còn một cái dự trữ. Nếu có máy bảng mới đến Nhượng Địa Ringaskiddy, chúng chẳng bao giờ lọt nổi ra ngoài thành phố Cork. Tôi còn nhớ những hình ảnh lũ lụt nước biển ở Fremantle trong trận đại hồng thủy ‘33. Hay là trận đại hồng thủy ‘37? Hay tôi đang nhầm lẫn với hình ảnh nước biển tràn vào đường tàu điện ngầm New York, năm nghìn người chết đuối dưới lòng đất? Hay vụ đó ở Athens? Hay Mumbai? Những đoạn phim thảm họa trôi qua dày đặc, nhanh chóng trong suốt những năm ba mươi, thật khó nhớ vùng duyên hải nào đã bị tàn phá trong tuần, hay thành phố nào cứ mười người lại có một người chết vì Ebola hay Cúm Chuột. Bản tin trở thành một bộ phim thảm họa vô tận không có cốt truyện mà tôi không thể xem nổi. Nhưng kể từ Vụ Sụp Mạng Lần Thứ Nhất, chúng tôi gần như chẳng có tin tức gì nữa, không tệ hại hơn được nữa.
Cơn gió lung lay kính cửa sổ. “Tắt đèn thôi. Để mà giữ bóng nữa.” Tôi chỉ còn sáu bóng đèn, cất dưới ván sàn trong phòng ngủ với chiếc máy bảng cuối cùng kể từ sau khi rộ lên nạn đột nhập ăn trộm dưới mạn Durrus. Tôi hôn mái tóc như gai của Rafiq khi thằng bé thơ thẩn đi về căn phòng bé xíu, và nói. “Ngủ ngoan nha cưng.” Tôi nói thật lòng, không phải thói quen: Những cơn ác mộng của Rafiq đã giảm còn một trong mười đêm, nhưng mỗi khi có ác mộng, tiếng hét của nó có thể đánh thức cả người đã chết.
Rafiq ngáp: “Ngủ ngon, bà Holly.”
Lorelei co người dưới chăn và mảnh da cừu khi tôi đóng cửa lại. “Ngủ ngon nha ngoại.” Ngày đó ba chúc tôi ngủ ngon, rồi tôi chúc Aoife, Aoife truyền lại cho Lorelei, và giờ đây Lorelei lại chúc tôi.
Ta cứ tiếp tục sống, miễn là còn có người để mà sống tiếp.
Đã tối hẳn, nhưng giờ đây ngoài bảy mươi, tôi chỉ cần ngủ vài tiếng - một trong những sự bù đắp ít ỏi của tuổi già. Vậy là tôi châm thêm một khúc củi vào lò, vặn đèn lớn lên và lấy hộp kim chỉ ra vá quần jeans của Lol cho Rafiq mặc, rồi còn vá bít tất. Ước gì tôi đừng mơ đến được tắm nước nóng trước khi đi ngủ. Thỉnh thoảng Mo và tôi hành hạ lẫn nhau, ngồi mơ mộng hoài niệm về mỹ phẩm Body Shop, và những thứ mùi tuyệt vời: xạ hương và trà xanh, cam bergamot, hoa linh lan; xoài, hạt brazil, chuối; dừa, dầu jojoba, quế… Rafiq và Lorelei chưa bao giờ biết đến những mùi hương đó. Với hai đứa, “xà phòng” là một khối không mùi từ “Vùng Pale”, tức là biệt danh của khu vực chế xuất ở Dublin. Mãi đến năm ngoái ta vẫn còn mua được xà phòng Trung Quốc ở chợ phiên Thứ Sáu, nhưng đường dây chợ đen mang xà phòng ra Kilcrannog đã bị triệt tiêu.
Khi chắc chắn hai đứa nhỏ đã say ngủ, tôi bật radio lên. Tôi luôn sợ hãi rằng sẽ không nghe được gì cả, nhưng không sao: cả ba đài đều có sóng. Đài RTÉ là cơ quan truyền thông của Mặt Trận Bình Ổn, chỉ phát đi những tin tức đã được chính thức kiểm duyệt mỗi giờ, chen ngang là những chương trình hướng dẫn thực tế như trồng cây lương thực, sửa chữa đồ đạc và xoay xở ở cái đất nước mỗi lúc một tạm bợ này. Tối nay phát lại chương trình sơ cứu, hướng dẫn cách cố định nẹp gãy tay, vậy là tôi chuyển sang kênh JKFM, kênh tư nhân cuối cùng ở Ireland, để nghe chút nhạc. Không thể đoán được người ta sẽ phát nhạc gì, nhưng chắc chắn đều là nhạc từ năm năm tuổi trở lên. Tôi nhận ra điệp khúc của Damon MacNish và ban Tàu Chìm trong bài “Cá chuồn cho bữa sáng,” rồi nhớ lại một bữa tiệc ở Colombia… hay ở Mexico City?…nơi tôi gặp tay ca sĩ ấy. Crispin cũng có mặt, nếu tôi không nhầm. Tôi biết bài hát tiếp theo: “Memories Can’t Wait” của Talking Heads, nhưng nó khiến tôi nghĩ đến Vinny Costello vậy là tôi chuyển sang đài thứ ba, Radio Đảo Ngọc. Radio Đảo Ngọc được phát từ Nhượng Địa Trung Quốc ở Ringaskiddy, bên ngoài Cork. Hầu hết bằng tiếng Quan Thoại, nhưng thỉnh thoảng lại có tin nhanh bằng tiếng Anh, và nếu Mạng bị đứt sợi, đây là cách duy nhất để có được tin tức chưa bị Mặt Trận Bình Ổn kiểm duyệt. Đương nhiên, tin tức nghiêng về phía Trung Quốc - Ed nếu còn sống sẽ gọi đó là thứ “tuyên truyền trần trụi”… và sẽ không có một lời nào về Hinkley E, vốn được xây dựng và vận hành bởi một tập đoàn Trung Quốc-Pháp, mãi cho đến vụ tai nạn năm năm trước. Các nhà đầu tư nước ngoài rút ra, để lại người Anh tìm cách khống chế phần lõi bị nung chảy một nửa. Đêm nay không có bản tin tiếng Anh, nhưng giọng phát thanh viên người Trung Quốc nghe êm tai, khiến tôi thấy thư giãn và đương nhiên, tôi nghĩ về Jacko; và về những ngày đêm với Trắc Sĩ ở New York, và vượt ra ngoài New York, cách đây đã gần hai mươi năm…
Nhà Nguyện, trận giao tranh, mê lộ: đúng vậy, tôi tin tất cả những chuyện đó là có thật, ngay cả khi tôi biết rằng nếu mô tả lại những thứ mình đã thấy, tôi sẽ bị gán ngay tội ưa gây sự chú ý, điên rồ hay chơi thuốc. Nếu chỉ nhớ những phần lạ lùng, nếu tôi đã tỉnh dậy trong phòng ở khách sạn Empire, biết đâu tôi đã có thể nghĩ rằng tất cả chỉ là ảo giác, là một vụ ngộ độc thức ăn, một vụ mất trí nhớ tạm thời, hay đơn giản là nhớ sai mà thôi. Nhưng có quá nhiều những chuyện khác không thể giải thích được. Chẳng hạn như sau khi chạm vào quả táo vàng trong căn phòng có vòm trần đầy bóng chim, tôi biến mất trong một cơn choáng váng, rồi thấy mình tỉnh dậy không phải trong phòng khách sạn mà là phòng khách ở nhà 119A, với ngón tay giữa chạm lên quả táo vàng trên bức Bronzino, bên bệ cửa sổ ở ngoài có một con bồ câu đang gù và tất cả Trắc Sĩ đã biến mất. Cây cán bột bằng đá cẩm thạch không còn trong ngăn kéo nhà bếp nữa. Đầu gối tôi trầy trụa và đau đớn từ khi bị Constantin phục kích trong mê lộ. Tôi không biết tại sao Marinus không về cùng tôi - có lẽ quả táo chỉ có tác dụng với một người? Cuối cùng, khi trời tối, tôi bỏ cuộc, không chờ một Vô Thời Khách thân thiện hiện ra nữa. Tôi bắt taxi qua công viên Central Park về lại phòng khách sạn, nơi người ta nói rằng mọi chi phí trong tuần đã được trả bằng thẻ tín dụng của một người khác. Nếu một nhân viên lễ tân khách sạn New York nói rằng có người đã trả tiền phòng cho ta, ta có thể đem mạng sống ra mà cược rằng mình không hề nằm mơ.
Vậy nên tôi tin rằng câu chuyện đã xảy ra, nhưng cuộc sống bình thường vẫn tiếp diễn, theo nhịp thời gian, và ngày hôm sau không màng đến những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của những ngày trước đó. Với người lái taxi, tôi chỉ là một cuốc xe đến sân bay LaGuardia, là người khách suýt nữa đã để quên kính trên ghế sau. Với tiếp viên hãng Aer Lingus, tôi chỉ là một người phụ nữ trung niên đi hạng phổ thông với bộ tai nghe bị hư. Với đám gà mái, tôi là một người khổng lồ hai chân, đến để vung vãi hạt bắp và ăn trộm trứng của chúng. Trong “kỳ cuối tuần bị mất” ở Manhattan có lẽ tôi đã được thấy một khía cạnh khác của cuộc sống mà chỉ vài trăm người trong lịch sử từng thấy, nhưng rồi sao? Tôi không thể kể lại với ai được. Ngay cả Aoife hay Sharon cũng sẽ nói, “Em/con tin là chị/mẹ tin điều đó đã xảy ra, nhưng có lẽ chị/mẹ cần đi gặp bác sĩ chuyên khoa…”
Không có hồi tiếp. Marinus, nếu cô ấy thoát ra được căn phòng có vòm trần, thì cô ấy vẫn chưa từng tái xuất, mà có lẽ sẽ không đến nữa. Tôi có tìm nhà 119A trên bản đồ trực tuyến vài lần, tôi nhận ra căn nhà phố bằng đá nâu cao sừng sững, với những ô cửa sổ đủ dạng, vậy là vẫn có người đang coi sóc nó - địa ốc New York lúc nào cũng vậy, ngay cả khi nước Mỹ tan rã - nhưng tôi chưa bao giờ quay trở lại, hay cố tìm hiểu xem ai đang sống ở đó. Có lần tôi gọi máy cho hiệu sách Ba Cuộc Đời, nhưng khi nhân viên trả lời, tôi hoảng sợ và dập máy trước khi hỏi liệu Inez còn ở gác trên không. Cuốn sách cuối cùng Sharon gởi cho tôi trước khi dịch vụ bưu chính bị ngừng lại là sách về mười hai nhà du hành Apollo từng lên mặt trăng, tôi cảm thấy thời gian của mình trong Bụi Tối có lẽ cũng như thế. Và giờ đây khi trở về Trái Đất, tôi có hai lựa chọn, hoặc là dần dần trở nên loạn trí bằng cách cố trở lại xứ sở đó, trở lại với tâm biệt năng, nhà 119A và Trắc Thời Phái; hoặc không làm thế, mà chỉ tự nhủ rằng, “Việc đã xảy ra, nhưng đã qua rồi” và tiếp tục sống cuộc đời bình thường với gia đình. Đầu tiên, tôi không chắc là mình làm được vậy, tôi thực không chắc làm sao có thể viết biên bản cho Ủy Ban Bảo Vệ Môi Trường Kilcrannog, khi tôi biết rằng, trong lúc chúng tôi ngồi đây nói chuyện cấp quỹ cho sân chơi mới, những linh hồn đang di cư qua một vùng Bụi Tối, đến một khoảng hư vô gọi là Bể Cuối - nhưng rồi tôi cũng làm được. Vài tuần trước sinh nhật lần thứ mười sáu năm xưa, tôi gặp một phụ nữ gấp đôi tuổi mình tại cơ sở phá thai nấp trong bóng sân vận động Wembley. Bà ấy trông sang trọng, bình thản. Khi đó tôi bấn loạn, hoảng sợ, khóc lóc. Vừa châm điếu thuốc mới từ đốm lửa đang lụi dần trên điếu cũ, bà ta nói với tôi thế này: “Cưng à, rồi cưng sẽ thấy, có chuyện gì mình cũng sống nổi.” Đời đã dạy tôi rằng bà ấy đã đúng.
… Tôi mơ thấy Zimbra sủa. Tôi thức dậy trên ghế cạnh bếp lò, Zimbra vẫn còn sủa, ở lối sảnh. Loạng choạng, tôi đứng dậy, đánh rơi bít tất đang vá dở, rồi bước ra hiên nhà: “Zimbra!” Nhưng Zimbra không nghe tiếng tôi: Zimbra không còn là Zimbra nữa, nó đã trở thành một con chó nguyên thủy đánh hơi thấy một kẻ thù xa xưa. Có ai ở ngoài đó không? Lạy Chúa, tôi ước gì đèn pha an ninh vẫn còn hoạt động được. Tiếng sủa của Zimbra im bặt một giây - đủ lâu để tôi nghe thấy tiếng gà mái hoảng sợ. Ôi không, lại có cáo rồi. Tôi chụp lấy đèn pin, mở hé cửa nhưng con chó nhà đã xộc ra, cào bới ở chỗ có lẽ là lỗ cáo đào dưới lớp rào gai. Bụi đất tung tóe khắp người tôi, đám gà hoảng loạn chạy quanh chuồng. Tôi chiếu đèn pin vào, không thấy cáo, nhưng Zimbra rất chắc chắn. Một con gà chết: hai; ba; một con đập cánh yếu ớt; và kia, hai hình tròn trên đầu một mảng đo đỏ ngay trên chuồng gà. Zimbra - mười lăm kilo bẹc-giê lai Labrador đen và gì gì nữa - chui vào chuồng, xông thẳng vào ổ gà, ổ gà đổ nhào, gà oang oác, vỗ cánh chạy quanh. Nhanh như cắt, con cáo nhảy về lại lỗ đào và đầu nó đã chui qua lỗ trước khi Zimbra ghim răng nanh vào cổ nó. Con cáo nhìn tôi trong tích tắc trước khi bị giật lại, bị giày vò, quăng quật và tiếp tục chịu đòn. Rồi cổ nó bị xé toang và mọi thứ kết thúc. Đám gà vẫn còn hoảng loạn cho đến khi một con nhận ra cuộc giao tranh đã kết thúc, và cả đám im bặt. Zimbra đứng trên xác con mồi, mõm nó đỏ máu. Chầm chậm, nó trở lại như cũ, và tôi cũng vậy. Cửa sảnh mở ra, Rafiq đứng đó trong áo choàng ngủ. “Có chuyện gì vậy bà Holly? Con nghe tiếng Zim sủa như điên luôn.”
“Có cáo trong chuồng gà, cưng à.”
“Trời, bỏ mẹ!”
“Ăn nói đàng hoàng, Rafiq.”
“Con xin lỗi. Nhưng nó ăn hết mấy con gà?”
“Hai ba con gì đó thôi. Zim giết nó rồi.”
“Cho con xem được không?”
“Không. Con cáo chết rồi.”
“Vậy cho tụi con ăn thịt gà được không?”
“Nguy hiểm lắm. Nhất là bây giờ bệnh dại đã trở lại.”
Mắt Rafiq mở to hơn. “Bà không bị cắn, hay…”
Tội nghiệp thằng nhỏ. “Đi ngủ lại đi mà. Thiệt tình, bà không sao đâu.”
Có lẽ là không sao thật. Rafiq đã lóc cóc lên gác và Zimbra bị nhốt lại ở lối sảnh. Bốn con gà mái chết, chứ không phải ba, tức là thiệt hại ở mức vừa, nhất là khi tôi chủ yếu dùng trứng để đổi chác ở chợ phiên Thứ Sáu, trứng cũng là nguồn đạm chính của Lorelei và Rafiq. Zimbra trông ổn nhưng tôi chỉ có thể hi vọng nó sẽ không phải cần thuốc men gì. Thuốc men tổng hợp cho con người đã cạn kiệt, nói gì đến cho chó. Tôi vặn nhỏ pin mặt trời, moi ra một chai rượu tăm nấu từ khoai của Declan O’Daly, làm một tách cho ấm dạ, như kiểu Ba ngày xưa vẫn nói. Tôi để rượu đốt dây thần kinh và nhìn mặt sau hai bàn tay già nua của mình. Gân guốc gợn lằn, mạch máu loằng ngoằng, da bọc xương. Tay trái tôi dạo này hơi run. Không run lắm. Mo có để ý thấy, nhưng vờ như không biết. Bọn nhóc bằng tuổi Lol và Raf nghĩ người già nào cũng bị run tay, nên chúng không lo lắm. Tôi kéo chăn lên người, thấy mình như bà của Cô bé quàng khăn đỏ, trong một thế giới có quá nhiều sói và không đủ các bác thợ săn. Bên ngoài trời đang lạnh. Ngày mai tôi sẽ hỏi thăm Martin dưới quán của Fitzgerald xem mùa đông này có chở than đến không, mặc dù tôi biết kiểu gì anh ta cũng sẽ nói, “Yên tâm đi bà Holly, nếu mà có than thì chở chứ.” Niềm tin vào số phận là một thứ thuốc chống trầm cảm yếu ớt, nhưng bác sĩ Kumar không có thuốc gì mạnh hơn thế. Qua cửa sổ bên hông tôi thấy khu vườn như phủ lớp phấn trắng dưới ánh trăng chớm tròn, trăng đang lên trên bầu trời bán đảo Mizen. Tôi phải thu hoạch đám hành sớm, rồi còn trồng cải xoăn nữa.
Trên cửa sổ tôi thấy phản chiếu hình ảnh một bà lão đang ngồi trong chiếc ghế và tôi nói với bà ấy, “Đi ngủ đi.” Tôi gượng đứng dậy, cố lờ đi chỗ đau nhói nơi hông, nhưng dừng một lúc trước chiếc hộp thờ bằng gỗ rều đặt trên kệ tủ. Tôi làm chiếc hộp năm năm trước trong những tuần đau đớn đến tê dại sau trận Giga-bão. Lorelei trang trí hộp bằng vỏ sò. Bên trong có ảnh của Aoife và Örvar, nhưng đêm nay tôi chỉ vuốt ngón cái dọc mép trên hộp, cố nhớ lại cảm giác vuốt tóc Aoife.
“Ngủ ngon nha cưng.”