7 Tháng Tư
Inez lái xe. Cô đeo kính râm để che hậu quả của mất ngủ. Cứ vài giây cần gạt nước lại rít lên. Chúng tôi không nói gì nhiều, mà cũng không có gì nhiều để nói. Unalaq ngồi đằng trước và Ōshima, Holly, Arkady và tôi chen chúc ở ghế sau. Ōshima hôm nay mang Esther. New York ẩm ướt, tất bật, thờ ơ với chuyện các Trắc Sĩ chúng tôi và Holly đang đánh cược những cuộc đời siêu linh và cuộc đời bình thường cho những người xa lạ, những đứa con có tâm áp của họ và cho cả những đứa trẻ chưa sinh ra, cha mẹ còn chưa gặp nhau. Tôi để ý những chi tiết thường ngày vẫn bỏ qua. Những gương mặt, những bề mặt, chất liệu, dấu hiệu, dòng chảy. Có những ngày New York như đang làm trò ảo thuật với tôi. Tất cả những thành phố lớn đều và luôn luôn quay ngược trở lại thành rừng rậm, thành lãnh nguyên hay những bãi lộ triều dâng, nếu ta đợi thật lâu, và hơn ai hết tôi phải biết điều đó. Nhưng hôm nay, New York như ở mãi đây, không thể chối cãi, như thể thời gian phụ thuộc vào thành phố, chứ không phải thành phố phụ thuộc vào thời gian. Bàn tay, con mắt bất tử nào có thể mường tượng những dặm dài vuông vức, những rầm cầu vững chắc, những vỉa hè tấp nập, và những viên gạch còn nhiều hơn cả sao trời? Người ta làm sao hình dung được những tòa nhà dựng đứng sừng sững, như những hẻm núi lù lù vào thời của Klara Koskov, khi tôi lần đầu tới đây với Xi Lo và Holokai - những người bạn nhà Davydov? Vậy mà những thứ đó đã ở sẵn đây, chen chúc nhau như những món đồ trong kho của kẻ cắp vặt, như một cây sồi ngủ trong hạt sồi hay như tòa nhà Chrysler gấp lại đủ bé để vừa trong bộ não của William Van Alen. Nếu ý thức tồn tại ngoài Bể Cuối và hôm nay tôi sẽ đến đó, tôi sẽ nhớ New York, nhiều như nhớ bất kỳ nơi nào khác.
Inez rẽ từ Đại lộ số 3 vào con phố của chúng tôi. Lần cuối cùng chăng? Những suy nghĩ này thật vô ích. Liệu tôi sẽ chết mà chưa đọc xong Ulysses chăng? Nghĩ đến những hồ sơ bệnh án tôi còn để lại Toronto, nào giấy tờ, những email, những xúc cảm mà đồng nghiệp, bạn bè, hàng xóm và bệnh nhân sẽ phải trải qua nếu trạng thái của tôi thay đổi từ “Bác sĩ Fenby vắng mặt không phép” đến “Bác sĩ Fenby mất tích” đến “Bác sĩ Fenby, được cho là đã chết.” Không, đừng nghĩ thế. Xe dừng trước nhà 119A. Nếu Trắc Thời Phái có một chốn đi về, đây chính là nơi đó, ngôi nhà gạch đỏ như màu món xúp đuôi bò và những ô cửa sổ đủ dạng với khung màu sẫm. Inez nói với chiếc xe, “Đỗ xe,” và đèn báo nguy hiểm bật lên.
“Cẩn thận,” Inez nói với Unalaq. Unalaq gật đầu.
“Hãy mang cô ấy trở về,” Inez nói với tôi.
“Tôi sẽ cố hết sức,” tôi nói. Giọng tôi nghe yếu ớt.
Nhà 119A nhận ra Trắc Sĩ và để chúng tôi vào. Sadaqat chào cả đoàn từ sau linh chắn bên trong ở tầng một. Người quản gia trung thành của chúng tôi ăn vận như diễn trò sắp tận thế đến nơi, áo quần rằn ri, cả tá túi, cổ đeo la bàn. “Chào mừng bà đã về nhà, thưa bác sĩ.” Anh ta cầm lấy áo khoác của tôi. “Ông L’Ohkna đang ở trong thư phòng. Ông Arkady, Bà Unalaq, Ông Ōshima. Và bà Sykes.” Vẻ mặt Sadaqat chùng xuống. “Tôi chỉ hi vọng bà đã hồi phục từ trò tấn công hèn nhát mà tàn ác của kẻ thù. Ông Arkady có kể với tôi.”
Holly: “Tôi đã được chăm sóc chu đáo. Cảm ơn anh.”
“Ẩn Sĩ thật ghê tởm. Chúng là giống vô lại.”
“Cuộc tấn công của họ đã thuyết phục tôi về phe Trắc Thời Phái,” Holly nói.
“Tốt,” Sadaqat đáp. “Đúng thế. Trắng đen rõ như ban ngày.”
“Holly sẽ cùng tham gia Sứ Mệnh Thứ Hai với chúng ta,” tôi nói với anh quản gia.
Sadaqat ra vẻ ngạc nhiên, rồi một thoáng bối rối. “Ồ? Tôi không biết là bà Sykes đây đã học cả phương cách Dòng Sâu nữa?”
“Cô ấy chưa học,” Arkady nói, treo áo khoác lên. “Nhưng hết thảy chúng ta đều có một vai trò trong những giờ tới, phải không Sadaqat?”
“Đúng vậy, người anh em.” Sadaqat nằng nặc đòi cất áo khoác vào tủ cho tất cả mọi người. “Thật thế. Sứ Mệnh còn có… thay đổi phút cuối nào khác không?”
Sadaqat đã được chuẩn bị kỹ càng, nhưng anh ta không giấu được nỗi thèm khát trong giọng nói.
“Không,” Tôi nói. “Không có gì nữa. Ta sẽ hành động vô cùng cẩn trọng, nhưng ta tin lời Elijah D’Arnoq - trừ khi hắn phản bội ta.”
“Và Trắc Thời Phái còn có vũ khí bí mật nữa.” Sadaqat hí hửng. “Là chính tôi. Nhưng vẫn chưa đến mười giờ, mà ông D’Arnoq sẽ không xuất hiện cho đến mười một giờ, nên tôi đã làm bánh muffin. Các vị chắc cũng đã nghe được mùi, nhỉ?” Sadaqat mỉm cười như một nghệ nhân sô cô la đẫy đà đang dụ dỗ một đám bệnh nhân tiểu đường đã xiêu lòng. “Chuối và quả anh đào morello. Một đội quân không thể bụng đói mà lên đường được, thưa quý bằng hữu.”
“Tôi rất tiếc, Sadaqat,” tôi chen vào, “nhưng ta không nên ăn uống gì. Thạch Đạo có thể khiến ta buồn nôn. Bụng đói thực ra lại là tốt nhất.”
“Nhưng mà, thưa bà bác sĩ, một mẩu bé tí teo thì chắc không sao chứ? Bánh nóng hôi hổi mới ra lò. Tôi còn cho cả vụn sô cô la trắng vào nữa đấy.”
“Đến lúc về ăn vẫn ngon mà.” Arkady nói.
Sadaqat thôi không nài nỉ. “Vậy để sau. Để ăn mừng.”
Anh ta mỉm cười, để lộ hai mươi ngàn đô la chi phí điều trị nha khoa Mỹ, do Trắc Thời Phái chi trả, đương nhiên rồi. Sadaqat hầu như chẳng có gì ngoài những thứ được trả hay được chu cấp bởi Trắc Thời Phái. Nhưng làm sao có gì được? Anh ta dành phần lớn cuộc đời trong một bệnh viện tâm thần gần Reading, Anh quốc. Một Thực Nhục Khách hành sự tự do tìm được việc thư ký trong bệnh viện, đã chăn dắt một bệnh nhân có tâm áp, người này từng thổ lộ tâm tình với Sadaqat trước khi bị thanh linh. Tôi vứt xác Thực Nhục Khách sau một trận song đấu căng thẳng trong khu vườn trũng của ả, nhưng thay vì xóa sạch những gì Sadaqat đã biết từ thế giới Vô Thời, tôi quyết định cô lập phần não bị tâm thần phân liệt của anh ta, cắt đứt những đường dẫn thần kinh đến những phần khỏe mạnh. Anh ta khỏi bệnh, nói theo một cách nào đó, và khi anh ta thề thốt sẽ biết ơn tôi mãi mãi, tôi mang anh ta đến New York và cho làm quản gia ở nhà 119A. Việc đã năm năm trước. Năm ngoái, người cận vệ trung thành của chúng tôi đã thay lòng đổi dạ sau một loạt những cuộc gặp gỡ hẹn hò vô hình trong công viên Central Park, chính là nơi Sadaqat ngày nào cũng đến tập thể dục, bất quản nắng mưa. Ōshima là người đầu tiên nhận ra vân tay của Ẩn Sĩ để lại trên người quản gia, cứ khăng khăng muốn xóa sạch sáu năm trong ký ức của Sadaqat và áp huấn lệnh cho anh ta lên một con tàu chở hàng đến miền viễn đông Nga. Vừa thương hại, vừa dự cảm mơ hồ rằng ta có thể dùng tên gián điệp của Ẩn Sĩ để chống lại người chủ mới của anh ta, tôi đã cản Ōshima. Mười hai tháng qua khá là nguy nan, chúng tôi phải liên tục dò dẫm, đoán chừng ý định của kẻ thù, và L’Ohkna phải cài đặt lại hệ thống nhận biết của 119A để phát hiện chất độc, phòng khi Sadaqat được lệnh đầu độc chúng tôi, nhưng tất cả đến hồi kết ngay sáng nay, bất quản tốt hay xấu.
Tôi căm ghét cuộc Chiến Tranh làm sao.
“Lại đây,” Ōshima nói với Sadaqat. “Ta kiểm tra lại máy móc lần cuối nào…”
Cả hai đi lên lầu, để đảm bảo món vũ khí đã sẵn sàng. Arkady đi lên vườn tập Thái Cực Quyền trong màn mưa bụi yếu ớt. Unalaq lùi vào phòng sinh hoạt chung, gởi chỉ dẫn cho mạng lưới ở Kenya. Tôi vào thư phòng, chuyển các giao thức của Trắc Thời Phái cho L’Ohkna. Khá là nhanh chóng. Trắc Sĩ trẻ nhất bắt tay tôi và nói rằng anh hi vọng ta sẽ gặp lại, và tôi nói, “Tôi còn hi vọng nhiều hơn cả anh.” Rồi anh rời 119A bằng lối thoát bí mật. Ba mươi phút nữa D’Arnoq mới đến. Thơ? Nhạc? Một ván billiard.
Tôi xuống tầng hầm, Holly đang sửa soạn bàn billiard. “Hi vọng không phiền các vị. Mọi người dường như tản đi hết, nên tôi…”
“Đương nhiên. Cho tôi tham gia được không?”
Cô ngạc nhiên. “Cô cũng chơi sao?”
“Khi không phải cân não với cái ác, không gì khiến ta bình tĩnh bằng tiếng đầu cây cơ chạm bóng nhựa phenolic.”
Holly xếp bóng rồi nhấc tam giác xếp bóng ra. “Tôi hỏi thêm một câu về Vô Thời Khách được không?” Tôi nhìn cô, ra ý cứ tự nhiên. “Các vị có gia đình không?”
“Chúng tôi thường được tái sinh vào gia đình. Một Lưu Khách thường có bà con máu mủ, như Jacko chẳng hạn. Chúng tôi có bầu bạn, như Unalaq và Inez. Cho đến thế kỷ hai mươi, phụ nữ độc thân không dễ gì đi lại một mình được.”
“Vậy cô cũng từng kết hôn?”
“Mười lăm lần, nhưng kể từ năm 1870 đến nay thì không. Hơn cả Liz Taylor và vua Henry thứ Tám cộng lại. Chị muốn biết liệu chúng tôi có sinh con đẻ cái được không.” Tôi khua tay, để cô đỡ bối rối. “Không. Chúng tôi không sinh nở được. Điều khoản kèm theo.”
“Hiểu rồi,” Holly xoa phấn lên đầu cây cơ. “Có con hẳn rất khó, vì…”
“Vì cứ phải sống, mà biết rằng con cái mình đã già đi mà chết hàng chục năm trước. Hay chúng không chết, nhưng không muốn gặp kẻ điên khùng trên bậc thềm, cứ khăng khăng rằng anh ta là bố hay mẹ chúng, vừa tái sinh. Hay tình cờ phát hiện ra vừa ngủ với chắt gái của mình. Đôi khi chúng tôi nhận con nuôi, thường thế cũng tốt. Thời nào cũng có trẻ con cần mái ấm. Vậy nên tôi chưa bao giờ sinh nở hay làm cha, nhưng những gì chị cảm thấy với Aoife, cái cảm giác sẵn sàng nhảy vào tòa nhà đang bốc cháy ấy, tôi cũng từng trải qua. Mà tôi cũng từng chạy vào nhà đang cháy. Và một lợi thế đáng kể của vô sinh là những lưu thể nữ của tôi không bị thành cái máy đẻ suốt đời, như số phận của hầu hết phụ nữ sống giữa Thời Đồ Đá và Phong Trào Nữ Quyền.” Tôi huơ tay về phía bàn. “Ta chơi nhé?”
“Vâng. Ed vẫn hay nói rằng tôi có tật nhiều chuyện. Thật là ông nhà báo bẻm mép.” Cô lấy ra một đồng xu từ trong ví. “Ngửa hay sấp?”
“Cho tôi ngửa.”
Cô tung đồng xu. “Sấp. Hồi xưa tôi còn đoán được.” Holly nhắm cơ và phá bóng. Cây cơ lướt qua mớ bóng, bóng chạy thẳng đến băng cuối, nảy ra, lăn ngược trở lại.
“Tôi đoán cú đó không phải ăn may.”
“Brendan, Jacko và tôi hay chơi ở quán Thuyền trưởng Marlow, vào Chủ Nhật khi quán đóng cửa. Cô đoán xem thường thì ai thắng?”
Tôi bắt chước cú đánh của Holly, nhưng không đạt bằng. “Anh ấy đã chơi từ những năm 1750, chị nhớ cho. Gần đây cũng chơi. Xi Lo và tôi gần như ngày nào cũng chơi ở đây, hồi năm 1969.”
“Thật sao? Chơi ở ngay bàn này?”
“Bàn đã được thay vải hai lần kể từ đó, nhưng đúng vậy.”
Holly miết ngón tay cái dọc theo băng. “Khi đó Xi Lo trông ra sao?”
“Hơi thấp, chừng năm mốt năm hai tuổi hồi những năm 1969, có râu, người Do Thái. Anh ấy đã lập ra khoa nhân chủng học so sánh ở Đại học New York. Trong kho lưu trữ có hình anh ấy, nếu chị muốn xem.”
Cô cân nhắc. “Để khi khác, lúc ta không bận làm sứ mệnh tự sát. Xi Lo khi đó cũng là nam giới sao?”
“Đúng vậy. Lưu Khách thường chuộng một giới tính. Esther chuộng làm nữ giới. Còn Hồi Khách như chúng tôi thì sau mỗi lần tái sinh lại đổi giới tính, dù muốn dù không.”
“Vậy điều đó không làm cô đau đầu à?”
“Ở vài lưu thể đầu tiên thì hơi kỳ quặc, nhưng dần cũng quen.”
Holly đánh bi chủ dội khỏi băng cuối và băng cạnh bàn, thúc vào mớ bi đã vương vãi. “Cô nói những chuyện như vậy, như thể nó… bình thường.”
“Bình thường là những gì ta cho là hiển nhiên. Với tổ tiên ta sống vào năm 1024, cuộc sống năm 2024 rất không tưởng, bí hiểm, toàn những điều kỳ diệu.”
“Ừ, nhưng… không hẳn là vậy. Với tổ tiên đó và tôi, khi chúng tôi chết đi, chúng tôi chết hẳn. Còn cô… Như thế nào, hả Marinus?”
“Vô Thời Tính?” Tôi phủi bụi phấn xanh bám ở gốc ngón cái. “Chúng tôi già cỗi, ngay cả khi còn trẻ. Chúng tôi thường bỏ đi, hoặc bị bỏ lại. Chúng tôi sợ những mối ràng buộc. Cho đến năm 1823, khi được Xi Lo và Holokai tìm ra, tôi cô đơn không tả xiết nhưng cũng chỉ biết chịu đựng. Ngay cả bây giờ, thứ mà tôi gọi là ‘Nỗi sầu Vĩnh Cửu’ vẫn có thể làm tôi gục ngã. Nhưng công việc của một bác sĩ và Trắc Sĩ đã cho tôi mục đích sống.”
Holly chỉnh lại khăn quấn đầu màu xanh rêu, tháo nửa vòng khăn, để lộ da đầu lơ thơ tóc. Đây là lần đầu tiên cô làm vậy trước mặt tôi, và tôi thấy cảm động. “Câu hỏi cuối cùng: tại sao có Vô Thời Khách? Ý tôi là, Hồi Khách và Lưu Khách đã tiến hóa như vậy, như loài vượn hay cá voi? Hay các vị được… ‘tạo ra’? Có phải là bởi một điều gì đó từng xảy ra trong cuộc đời đầu tiên?”
“Ngay cả Xi Lo cũng không có câu trả lời. Đến Esther cũng không biết.” Tôi đánh bi số 5 màu cam xuống góc trái. “Tôi bi chấm, chị bi sọc.”
Mười giờ năm lăm, Holly đưa bi đen vào lỗ, thắng tôi một bi. “Tôi sẽ chơi ván trả với cô sau,” cô nói. Chúng tôi đi lên gác, vào phòng khách, nơi những người còn lại đã có mặt. Ōshima hạ rèm cửa. Holly đi vào bếp để lấy một ly nước lọc - Chỉ dùng nước vòi, đừng đụng vào nước đóng chai. Có thể đã bị can thiệp, tôi ngầm-gọi với theo. Một phút sau cô quay lại, đeo túi đi đường nhỏ, như thể chúng tôi sắp đi dạo trong rừng. Tôi không lòng dạ nào mà hỏi cô đã gói ghém gì theo - một phích trà, một chiếc áo len, một thỏi bánh bạc hà Kendal tăng lực? Đây đâu phải là chuyến đi bộ leo núi như thế. Chúng tôi nhìn những bức tranh. Còn nói gì được nữa đây? Chúng tôi đã thảo luận chiến lược hết nước hết cái trong thư viện của Unalaq: chia sẻ nỗi sợ hãi lúc này thật vô ích, mà cũng không ai muốn những phút cuối cùng lại nói chuyện tầm phào vẩn vơ. Bức Venus, Cupid, Dại Khờ và Thời Gian gọi tôi đến. Xi Lo từng nói rằng anh rất hối hận đã không tráo lại với bản chép ở London, nhưng anh không thể đối mặt với chừng đó Huấn Lệnh, những trò bịp, mưu mẹo cần có để sửa sai. Năm mươi năm sau tôi đứng đó, với cùng một nỗi hối tiếc. Với Vô Thời Khách, những ngày mai như một thứ tài nguyên vô tận. Mà giờ đây tôi thấy cạn kiệt.
“Khê Môn,” Unalaq nói, “Tôi có cảm giác nó đang mở ra.” Sáu người chúng tôi nhìn quanh, tìm đường thẳng vừa mở ra…
“Kia kìa,” Arkady nói, “cạnh bức Georgia O’ Keeffe.”
Một đường cắt thẳng đứng màu đen hiện ra ngay trước những dải ngang màu vàng và hồng của buổi bình minh New Mexico. Một bàn tay hiện ra, đường cắt mở rộng thành vết chém, và Elijah D’Arnoq lộ mặt. Holly khẽ buột miệng chửi thề rồi nói, “Ông ta ở đâu ra vậy?” và Arkady lẩm bẩm, “Từ chỗ ta sẽ tới.”
Elijah D’Arnoq cần cạo râu, mớ tóc như gai của hắn trông rối bời. Đúng thế, sự căng thẳng của một kẻ phản bội phải được thể hiện ra ngoài. “Các vị rất đúng giờ.”
“Trắc Sĩ không thể đi trễ được,” Arkady đáp.
D’Arnoq nhận ra Holly. “Bà Sykes. Tôi rất mừng là bà đã được giải cứu hôm nọ. Constantin vẫn xem bà như việc dang dở.”
Holly vẫn chưa thể nói chuyện với người đàn ông vừa hiện ra từ không khí.
“Bà Sykes sẽ tham gia đội phá hủy của chúng ta,” Tôi nói với D’Arnoq. “Unalaq sẽ truyền tâm áp tâm biệt năng của bà ấy vào linh chắn.”
Elijah D’Arnoq có vẻ nghi ngờ, và tôi tự hỏi Sứ Mệnh Thứ Hai phải chăng đang bị đe dọa. “Tôi không đảm bảo an toàn cho bà ấy được.”
“Tôi tưởng anh đã lường hết mọi việc?” Arkady lên tiếng.
“Chiến tranh chẳng đảm bảo được gì. Anh cũng biết thế mà, Arkady.”
“Và ông Dastaani đây,” tôi chỉ Sadaqat, “cũng sẽ đi cùng ta. Tôi đoán anh biết người quản gia của chúng tôi ở nhà 119A?”
“Ai cũng do thám mà,” D’Arnoq nói. “Vai trò của ông Dastaani là gì?”
“Là đặt mông ngồi xuống,” Ōshima nói, “ở đoạn giữa lối lên Thạch Đạo và tháo kíp nổ để gây ra trận bão lửa cấp mười nếu có ai đi theo sau chúng tôi. Hữu Thời, Vô Thời - bất kỳ ai trên đường dẫn vào cũng sẽ thành tro.”
D’Arnoq nhướng mày. “Đó cũng là một lệnh Dòng Sâu hay sao?”
“Không,” Ōshima nói. “Chỉ là cách tôi diễn tả hậu quả nếu quả bom được làm từ N9D - chất nổ nano từ Israel nổi tiếng, hiện thời nằm trong ba lô của ông Dastaani phát nổ bên trong Thạch Đạo.”
“Một thứ bảo hiểm chống tấn công từ sau lưng,” tôi nói, “khi ta phá hủy Nhà Nguyện.”
“Một sự thận trọng khôn ngoan,” Elijah D’Arnoq nói, có vẻ bị ấn tượng. “Dù thế tôi vẫn cầu Chúa rằng các vị không phải dùng đến nó.”
“Anh cảm thấy ra sao?” Ōshima hỏi. “Đào ngũ là chuyện lớn đó chứ.”
Thực Nhục Khách một trăm ba mươi hai tuổi nhìn Ōshima tuổi đời tám thế kỉ với vẻ thách thức. “Tôi đã dự phần vào hàng thập kỉ của tội ác vô độ, ông Ōshima. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ dự phần vào việc chặn đứng nó.”
“Nhưng không có Hắc Tửu,” Ōshima nhắc anh ta, “anh sẽ già đi, yếu đi, anh sẽ chết trong một nhà an dưỡng.”
“Sẽ không có chuyện đó nếu Pfenninger hay Constantin chặn đường chúng ta trước khi ta kịp đập tan Nhà Nguyện Bụi Tối. Vậy thì. Còn chần chờ gì nữa?”
Từng người một, chúng tôi đi qua Khê Môn tối tăm vào sàn đá tròn bề ngang cỡ mười bước chân. Ngọn Nến La Bàn đứng im, trắng như giấy và cao như một đứa trẻ. Tôi đã quên cái cảm giác ngột ngạt và rờn rợn nơi đây, cái mùi của những gian phòng khóa kín và không khí loãng. Màu sắc và ánh sáng rớt lại từ phòng khách tràn qua Khê Môn, được D’Arnoq giữ hé mở như một tấm rèm cho Holly vào, rồi giữ cho Sadaqat cùng với ba lô thuốc nổ. Gương mặt Sadaqat mang vẻ choáng ngợp hồi hộp, trong khi Ōshima, người cuối cùng bước qua lại có vẻ hờ hững dằn dỗi. “Đây đâu phải là Nhà Nguyện, đúng không?” Holly thầm thì. “Mà tại sao giọng tôi nhỏ vậy?”
“Đây là La Bàn ở Thạch Đạo,” tôi đáp. “Những bước đầu tiên dẫn lên Nhà Nguyện. Rìa của La Bàn hấp thụ ánh sáng và âm thanh, nên chị phải lớn tiếng hơn một chút để bù lại.”
“Không có màu sắc gì cả,” Holly nhận xét, “Hay chỉ tôi thấy vậy?”
“Ngọn Nến chỉ có một màu,” tôi đáp. “Đã cháy sáng qua tám thế kỷ.” Đằng sau, Elijah D’Arnoq đóng lại Khê Môn. Tôi thoáng thấy Venus của Bronzino, nhẹ nhàng cầm lấy quả táo vàng, trước khi lối trở về biến mất. Không có ngục tối nào lại kiên cố đến thế. Chỉ có Esther hay một người theo U Minh Phái có thể mở Khê Môn và đưa chúng tôi về nhà. Tôi nhói lòng khi nhớ lại lần cuối ở La Bàn, trong trạng thái vô thể, linh hồn của tôi và Esther tơi tả, Joseph Rhîmes đuổi theo sau chị, càng lúc càng tới gần. Esther thu mình náu kỹ trong đầu Ōshima, hẳn cũng đang nhớ lại ngày đó.
“Trên đá có khắc chữ,” Holly nhận xét.
“Chữ cái Cathar,” tôi nói. “Không còn ai đọc được nữa, kể cả những nhà nghiên cứu dị giáo. Chữ cái này có gốc gác từ Oc, một ngôn ngữ còn lâu đời hơn cả Basque.”
“Pfenninger nói với tôi,” D’Arnoq lên tiếng, “rằng ký tự đó là lời cầu nguyện trước Chúa, cầu xin Người giúp đỡ để dựng lại Chiếc Thang Của Jacob. Nghe đâu hồi ấy Thầy Cathar Mù tin rằng mình đang làm việc đó. Đừng chạm vào tường. Không biết từ vật liệu gì, nhưng vật liệu ấy và vật chất nguyên tử…” gã lấy ra một đồng xu từ trong túi “…không hợp với nhau lắm.” Gã tung đồng xu ra khỏi chu vi La Bàn. Nó tan biến, trong một khoảng khắc lân quang. “Đừng để sảy chân trên Thạch Đạo.”
“Tức là chỗ nào?” Ōshima hỏi.
“Nó được chắn kỹ,” D’Arnoq nhắm mắt và mở mắt chakra, “và luôn chuyển động, để tránh đám hạ lưu. Đợi một lát.” Gã đi những bước ngắn, chậm rãi ra rìa La Bàn, rất đúng phong cách nhạc ngắt âm của U Minh Phái và lẩm bẩm một Hiển Lệnh. Quay lưng về phía Nến, gã đi ngang quanh rìa. “Được rồi.” Ở mép La Bàn, cao chừng ba tấc, một phiến đá hiện ra, dài và rộng như mặt bàn. Phiến đá thứ hai theo sau đó, rồi thứ ba, thứ tư, cao hơn nữa, dẫn vào màu đen.
“Marinus,” Holly hỏi bên tai tôi, “cái này là công nghệ? Hay là…”
Tôi biết từ điền vào chỗ bỏ lửng ấy. “Nếu ta chữa cho vua Henry thứ Bảy khỏi bệnh lao phổi bằng phác đồ sử dụng ethambutol, hay cho Issac Newton một giờ với kính viễn vọng Hubble, hay đưa một máy in 3D sẵn cho những người khách quen ở quán Thuyền Trưởng Marlow hồi những năm 1980, người ta cũng sẽ buột miệng hai tiếng Ma Thuật với chị. Nhiều món ma thuật là những thứ bình thường mà ta vẫn chưa quen.”
“Nếu giáo sư ngôn ngữ không phản đối,” Ōshima nói, “phiền bà để sau hẵng giảng nốt bài?”
Elijah D’Arnoq đi trước, rồi đến tôi, rồi Holly, Arkady, Unalaq và Sadaqat với mười kilo N9D trong túi, và cuối cùng là Ōshima, chốt sau cùng. Đến phiến đá thứ năm hay sáu tôi quay lại nhìn qua đầu của những người đồng hành, nhưng La Bàn đã khuất khỏi tầm mắt. Đến cả tính bất thường của Thạch Đạo cũng vô cùng bất thường. Có những đoạn các bậc thang vặn xoắn lên trên, dốc và sắc lẻm, một cầu thang nằm trong vòng xoắn ốc. Rồi có những đoạn các phiến đá dài làm thành một con đường leo núi nhẹ nhàng. Thậm chí có cả đoạn mà người leo phải nhảy từ phiến đá này sang phiến đá kia, như nhảy lên đá giữa dòng sông. Cố không nghĩ đến chuyện trượt chân. Chẳng mấy chốc mồ hôi tôi đầm đìa. Tầm nhìn rất kém, gần với leo núi trên đường hẹp ban đêm, trong sương mù lợn cợn. Những phiến đá sáng một thứ ánh sáng tai tái, như ánh lửa trên Nến La Bàn, nhưng chỉ sáng lên khi chúng tôi tới gần, tạo ra ảo giác rằng Thạch Đạo đang dần tự xây khi chúng tôi đi lên. Bóng tối chung quanh vô cùng ngột ngạt, và dường như đang cất lên những giọng nói từ suốt cuộc đời siêu linh của tôi. Tôi nghe giọng cha đẻ mình, giải thích bằng thứ tiếng Latin thông dụng thời cuối cách cho chim cắt ăn chuột sóc. Giờ đến Sholeetsa, một bà lang của tộc Duwamish, mắng tôi đã luộc rễ quá lâu. Rồi đến tiếng cười như quạ rú của Arie Grote, người quản kho ở Dejima. Thân xác của những người đó đã thành cát bụi từ lâu, linh hồn của họ đã ra đến Bể Cuối. Trắc Sĩ bọn tôi đã đồng ý không ngầm-nói, phòng khi bị nghe lén, nhưng tôi tự hỏi liệu các Trắc Sĩ khác có đang nghe thấy những giọng nói từ những cuộc đời trước đó. Tôi không hỏi, sợ sẽ làm họ mất tập trung vào bước đi. Kẻ nào rơi khỏi Thạch Đạo sẽ rơi vào hư không.
• • •
Chúng tôi đến phiến đá hình tam giác duy nhất trong suốt hành trình. Phiến đá lõm vào giữa, đủ để sáu người có thể đứng trên đó. “Chào mừng đến Trạm Giữa,” D’Arnoq nói, và tôi nhớ lại Immaculée Constantin cũng gọi nó như thế với Jacko trong Sứ Mệnh Thứ Nhất. “Tôi nghĩ ta đã tìm được điểm canh cho anh rồi, Sadaqat,” Ōshima nói. “Từ đây nhìn xuống là tốt nhất rồi. Nằm ở chỗ lõm, ngay chính giữa, anh sẽ thấy bất kỳ người khác nào trước khi họ thấy anh.” Sadaqat gật đầu, nhìn tôi và tôi gật đầu đáp lại. “Được rồi, ông Ōshima”. Cẩn thận tỉ mỉ, Sadaqat ngồi xuống và lấy từ trong ba lô ra một khối iCube đã được sửa khá nhiều và một ống kim loại mảnh. Anh ta đặt khối iCube ở góc nhìn xuống của phiến đá.
“Quả bom lửa đó sao?” D’Arnoq hỏi, tò mò nghề nghiệp.
“Đây là máy phát linh chắn Dòng Sâu,” Sadaqat mở màn hình điều khiển của khối vuông trong không khí, lướt qua các lựa chọn, “cũng là máy báo động linh hồn. Tiếng động này sẽ phát ra…” một tín hiệu như tiếng ngỗng trời quang quác “…khi nó rà thấy một linh hồn chưa được nhận diện, chẳng hạn như của ông, ông D’Arnoq…” Ngón tay Sadaqat quẹt ngang và màn hình trong không khí lay động khi lưu lại dấu hiệu nhận biết não của D’Arnoq. “Giờ nó biết ai bạn ai thù.”
“Một cái máy khôn ngoan,” D’Arnoq nói, “và khôn khéo nữa.”
“Máy phát ngăn ngừa một người có tâm biệt năng dùng Huấn Lệnh để buộc tôi vô hiệu hóa thuốc nổ N9D”. Sadaqat tháo nắp của ống kim loại. “Máy rà báo tôi biết là có người đã cố làm vậy, đó cũng là lúc cho nổ bom lửa, tức là cái này.” Chân tripod bật ra từ đáy của ống kim loại và Sadaqat đặt nó dựng đứng. “Mười kilo N9D đã được nén trong ống - đủ để biến Thạch Đạo thành đường dẫn lửa ở năm trăm độ C. Nếu con ngỗng kêu ‘oang’, Sadaqat nhìn D’Arnoq, “cũng có nghĩa là tâm-bom sẽ nổ.”
“Hãy tỉnh táo nhé,” Ōshima nói. “Chúng tôi trông cậy vào anh đấy.”
“Tôi đã tuyên thệ, thưa Ông Ōshima. Tôi ở đây là để làm việc đó.”
“Quý vị quả có một cận vệ trung thành,” D’Arnoq nói với tôi. “Sẵn lòng hi sinh… ở mức cao nhất.”
“Tôi biết chúng tôi đã may mắn thế nào,” tôi nói với Sadaqat.
“Đừng rầu rĩ thế, bà bác sĩ!” Sadaqat đứng dậy và bắt tay với tất cả. “Ta sẽ gặp lại nhau sớm mà các bằng hữu. Tôi biết chắc Kịch Bản đã viết thế.” Khi đến chỗ tôi, anh ta vỗ tay lên trái tim. “Ngay ở đây.”
Chúng tôi leo tiếp, đá rồi lại đá rồi lại đá, nhưng thật khó để biết chúng tôi đã đi bao xa, hay đã lên cao bao nhiêu kể từ La Bàn Thạch Đạo, hay đã bao nhiêu phút trôi qua kể từ khi chúng tôi để Sadaqat lại làm nhiệm vụ canh giữ ở Trạm Giữa. Máy tay và đồng hồ đều đã để lại ở nhà 119A. Thời gian tồn tại ở đây nhưng nó không được đo đếm dễ dàng, ngay cả trong tâm trí của một Trắc Sĩ. Quyết tâm đếm bước của tôi đã bị gạt qua một bên, bởi những tiếng nói của những người đã khuất từ lâu. Vậy là tôi chỉ đi theo lưng Elijah D’Arnoq, cố giữ tỉnh táo cho đến khi cuối cùng chúng tôi đến phiến đá hình tròn thứ hai, gần như giống hệt La Bàn ở bên dưới. “Đá Đỉnh, là tên chúng tôi gọi chỗ này,” D’Arnoq, hồi hộp ra mặt. “Đến nơi rồi.”
“Nhưng chẳng phải đây là chỗ ta bắt đầu đi sao?” Holly hỏi. “Cây nến, hình tròn, đá tròn, chữ khắc…”
“Chữ khắc trên đá khác với ở dưới,” Tôi nói. “Phải vậy không thưa ông D’Arnoq?”
“Chưa bao giờ nghiên cứu cái đó,” kẻ đào ngũ thú thật. “Pfenninger rất mê văn chương chữ nghĩa, và Joseph Rhîmes ngày trước cũng thế, nhưng với hầu hết bọn tôi, Nhà Nguyện chỉ là một… cái máy có tri giác liên quan đến mình.”
“‘Đừng đổ lỗi cho tôi, tôi chỉ là tép riu?’, vậy chăng?” Arkady nói.
D’Arnoq trông bực bội. “Vâng. Có lẽ thế. Có lẽ bọn tôi đã tự nói thế với chính mình.” Gã dụi mắt cho khỏi hạt bụi tưởng tượng. “Được rồi, giờ tôi sẽ Cổng Đen - lối vào - nhưng cảnh báo trước: Thầy Cathar Mù phải được giữ ở thái tĩnh, trong hình tượng, ở góc phía bắc. Các vị sẽ cảm thấy ông ấy. Nhưng ông ấy về lý thuyết sẽ không cảm thấy được chúng ta. Vậy nên…”
“‘Về lý thuyết’?” Ōshima thắc mắc. “Vụ ‘về lý thuyết’ này là sao?”
“Sát thánh cũng có rủi ro đi kèm,” D’Arnoq cau mặt, “chứ không thì đâu còn là sát thánh nữa. Nếu sợ, Ōshima, anh đi mà đứng cùng Sadaqat dưới kia. Nhưng ở đây có ba cách làm giảm rủi ro: chú ý không nhìn vào mặt Thầy Cathar Mù trên hình tượng; không gây ra tiếng ồn lớn hay đột ngột di chuyển; không áp các lệnh tâm biệt năng của Dòng Sâu, kể cả ngầm-nói. Tôi có thể áp các lệnh của U Minh Phái mà không quấy rối Nhà Nguyện, nhưng Thầy Cathar sẽ phát hiện được ngay tâm biệt năng từ phe bên kia. Nhà 119A của các vị có đủ báo động, linh chắn và tấm choàng, chánh điện của bọn tôi cũng thế, và nếu Thầy Cathar Mù biết rằng Trắc Sĩ có mặt tại đây trước khi những bức tường sụp đổ, thì kết cục sẽ rất tồi tệ với tất cả chúng ta. Hiểu chứ?”
“Hiểu,” Arkady đáp. “Ác quỷ dracula chỉ có thể được đánh thức khi cọc đã đâm vào tim hắn.”
D’Arnoq hầu như không nghe câu trả lời khi hắn áp Hiển Lệnh. Một cổng ba nhánh khiêm tốn, cao bằng đầu người, lấp lánh hiện ra ở rìa của Đá Đỉnh. Cổng Đen. Qua cổng chúng tôi thấy Nhà Nguyện, tôi thấy chợn chạo, ngay cả khi theo Elijah D’Arnoq tiến về trước. “Ta vào thôi,” ai đó lên tiếng.
Nhà Nguyện Bụi Tối của Thầy Cathar Mù là thân xác của một chủ thể còn sống. Ta cảm nhận được nó, ngay lập tức. Nếu Cổng Đen là phía nam, thì gian giữa giáo đường hình thoi của Nhà Nguyện nằm chừng sáu mươi bước dọc theo trục bắc-nam, ba mươi bước từ đông sang tây và có chiều cao lớn hơn độ dài. Mọi mặt phẳng đều chỉ đến, đều gợi về hay phản chiếu hình tượng Thầy Cathar Mù, treo ở góc hẹp phía “bắc”, ta phải tập trung cao độ để không nhìn vào hình tượng. Những bức tường, sàn nhà và trần nhà dạng kim tự tháp đều làm từ chất đá lửa xám, đùng đục như sữa. Những thứ đồ đạc ít ỏi trong Nhà Nguyện là một cái bàn gỗ sồi dài đặt theo trục bắc- nam, hai bên có băng ghế dài, trên mỗi tường treo một bức tranh lớn. Lần trước Immaculée Constantin đã giải thích ý nghĩa những bức tranh ngộ đạo ấy với Jacko: Những Quả Táo Xanh Dương Ở Eden Buổi Ban Trưa Trong Ngày Tạo Dựng Thứ Tám; Ác Quỷ Asmodeus, bị Solomon lừa để xây Đền Vua; Mẹ Đồng Trinh thực sự, đang cho một đôi Chúa Jesus bú; và Thánh Thomas đang đứng trong một căn phòng hình thoi giống hệt Nhà Nguyện Bụi Tối. Lơ lửng bên dưới đỉnh mái là một con rắn quằn quại bằng đá đủ màu; đang tự nuốt lấy đuôi mình. Kết cấu đá của Nhà Nguyện hoàn hảo, hợp nhất và tạo ra ảo giác rằng căn phòng đã được khoét từ trong lòng núi, hay đã kết tinh mà thành. Không khí ở đây không tươi cũng không héo, không ấm cũng không mát, mặc dù vương vấn những ký ức tồi tệ. Holokai đã chết ở đây, và mặc dù chúng tôi đã gieo hi vọng vào Holly, tôi vẫn không có bằng chứng rằng Xi Lo không chết ở đây.
“Đợi tôi một phút,” D’Arnoq rầm rì. “Tôi phải hủy Miễn Lệnh, để ta có thể hòa tâm áp.” Gã nhắm mắt lại. Tôi bước về góc chếch phía tây, nơi có cửa sổ nhìn ra một dặm hay một trăm dặm Cồn Cát, đến Rặng Cao và Ánh Sáng Của Ngày. Holly theo tôi. “Thấy trên đó không?” Tôi nói. “Đó là chỗ ta ra đi.”
“Vậy những đốm sáng nhạt” Holly thì thầm, “đang băng qua cát, là linh hồn sao?”
“Vâng. Hàng nghìn, hàng nghìn linh hồn, ở bất kỳ thời điểm nào.” Chúng tôi bước về phía cửa sổ hướng đông, nơi Cồn Cát thoai thoải vô chừng qua ánh nhập nhoạng tối dần ra Bể Cuối. “Và đó là nơi họ sẽ đến.” Chúng tôi nhìn những đốm sáng nhỏ tiến vào bóng tối không một ánh sao và bước ra, từng đốm từng đốm một.
Holly hỏi, “Bể Cuối có thật là biển không?”
“Tôi không nghĩ thế. Chỉ là cái tên chúng tôi gọi thôi.”
“Vậy điều gì sẽ xảy ra khi họ đến đó?”
“Rồi chị sẽ biết, Holly à. Có lẽ một ngày nào đó tôi cũng thế.” Hôm nay chăng?
Cả hai về lại giữa phòng, D’Arnoq vẫn đang tập trung. Ōshima chỉ về đỉnh Nhà Nguyện, lần ra một đường vô hình chạy xuống góc phía bắc, nơi hình tượng trông như đang quan sát chúng tôi. Tôi nhắm mắt, mở mắt chakra và rà khắp trần nhà tìm khe nứt mà Esther đã nhắc đến.
Mất một lúc, nhưng tôi tìm ra. Đằng kia, bắt đầu từ đỉnh và chạy cong xuống những cái bóng ở góc phía bắc.
Đúng là có vết nứt, nhưng quá mỏng manh để mang ra đánh cược với những cuộc đời siêu linh của năm Vô Thời Khách và một cuộc đời hữu thời.
“Là tôi, hay…” Holly đang hỏi, và tôi nhắm mắt chakra, mở mắt thường, “hay chính bức tranh đó như… như đang kéo ta vào?”
“Không phải chỉ mình bà đâu,” Elijah D’Arnoq đáp, vừa quay lại. Chúng tôi nhìn vào hình tượng. Tu sĩ mặc áo choàng trắng, mũ áo phủ vai để lộ đầu và một gương mặt với hai khoảng trống ở đôi mắt. “Nhưng đừng nhìn vào ông ta,” D’Arnoq nhắc chúng tôi. Trên Thạch Đạo, âm thanh bị nhòa đi nên phải nói to gấp đôi. Ở đây trong Nhà Nguyện, những lời thì thầm, bước chân và đến cả tiếng áo quần sột soạt cũng được phóng đại, như thể đã được thu vào những chiếc micro giấu kín. “Nhìn ra chỗ khác đi, Bà Sykes. Hiện tại ông ta có thể đang mơ ngủ, nhưng ông ta là người dễ tỉnh giấc.”
Holly cố nhìn ra hướng khác. “Hai chỗ trống trong hốc mắt ấy. Chính chỗ đó như kéo mắt ta vào.”
“Chỗ này như có một thứ tâm trí bệnh hoạn.” Arkady nhận xét.
“Vậy hãy để ta giải thoát cho nó,” D’Arnoq nói. “Mê Lệnh đã hoàn tất. Theo kế hoạch: Marinus và Unalaq, các chị đoạn lệnh cho hình tượng, để đảm bảo ông ta không thức dậy trong khi Arkady, Ōshima và tôi tập trung tâm áp để tâm-đốt hình tượng.”
Chúng tôi tiến đến góc phía bắc, nơi hình tượng không mắt ánh lên tai tái như bụng cá mập. “Vậy ra tất cả những gì chị phải làm để phá chỗ này,” Holly hỏi tôi, “là phá bức tranh đó?”
“Chỉ bây giờ, ở điểm này trong chu kỳ,” D’Arnoq thay mặt tôi trả lời, “khi linh hồn của Thầy Cathar Mù được giữ kín bên trong hình tượng. Ở những lúc khác, ông ta lưu trong kết cấu của nhà nguyện, sẽ dò được ý đồ của chúng ta và nung chảy chúng ta như những món đồ chơi nhựa dưới lửa đèn hàn. Marinus: bắt đầu đi.”
Nếu Elijah D’Arnoq đang phản chúng tôi, gã rõ là diễn rất đạt đến phút cuối. “Chị bên trái,” tôi nói với Unalaq “Tôi bên phải.” Chúng tôi đứng trước Thầy Cathar Mù và nhắm mắt lại. Tay chúng tôi đồng loạt áp lệnh. Xi Lo đã dạy Đoạn Lệnh cho Klara Koskov-Marinus ở St Petersburg, và khi ở lưu thể Ấn Độ, Choudary, tôi đã dạy cho Unalaq. Để lệnh mạnh hơn và sâu hơn, môi chúng tôi im lặng đọc lệnh từ trong trí nhớ; như mắt của một người chơi piano lần tìm giữa một bản nhạc phức tạp nhưng quen thuộc. Tôi cảm thấy ý thức của Thầy Cathar Mù đang nổi lên bề mặt hình tượng, như một bầy ong. Chúng tôi đẩy nó lại. Thành công. Một phần. Tôi nghĩ thế. “Nhanh lên,” tôi nói với Elijah D’Arnoq. “Chúng tôi chỉ gây tê chứ không làm hôn mê sâu.”
Unalaq và tôi đứng qua một bên. D’Arnoq đứng trước người chủ cũ, hay người chủ hiện tại, tôi không biết, và đưa tay ra hai bên, lòng bàn tay ngửa. Bên trái và bên phải gã, Arkady và Ōshima ấn chakra ở bàn tay vào chakra của D’Arnoq. “Đừng có mà đổi ý bây giờ,” Ōshima lẩm bẩm.
Mặt tái và mồ hôi nhễ nhại, D’Arnoq nhắm hai mắt, mở mắt chakra, và truyền ánh sáng màu đỏ như than hồng rực của U Minh Phái vào ngay cổ họng của Thánh Thiêng.
Thầy Cathar Mù không còn trong giấc mơ nữa. Ông ta biết mình đang bị tấn công. Như một người khổng lồ say thuốc, như ngôi nhà của tôi ở Kleinburg giữa trận gió bão phương Bắc, Nhà Nguyện căng mình, quằn quại. Tôi lảo đảo, dường như chỉ trong chớp mắt, miệng của Thầy Cathar Mù méo mó giận dữ. Mắt chakra của ông ta bắt đầu nở ra, một chấm đen hiện ra trên trán ông ta, to dần lên như một vết mực loang. Nếu nó mở hết cỡ, chúng tôi sẽ gặp rắc rối trầm trọng. Một trận động đất nhốt trong tường Nhà Nguyện, và Elijah D’Arnoq kêu lên the thé, không giống tiếng người. Truyền quá nhiều tâm áp, gã đang chết dần. Vụ đào ngũ của gã hẳn là thật: gã sẽ chết mất. Lại dường như chỉ trong chớp mắt, hình tượng sáng lên như có lửa đốt, bốc khói, tu sĩ gầm rú trong cơn đau đớn khi những ngọn lửa hai chiều thiêu sống ông ta, mắt chakra của ông ta nhạt nhòa chớp nháy, nhạt nhòa khi ẩn khi hiện, khi hiện khi ẩn…
Biến mất. Im lặng. Hình tượng Thầy Cathar Mù chỉ còn là một hình vuông bằng than và Elijah D’Arnoq đang thở hồng hộc, cúi gập người xuống. “Ta đã làm được rồi,” gã há hốc. “Ta đã làm được rồi.” Im lặng, Trắc Sĩ chúng tôi nhìn nhau…
…và Unalaq khẳng định lại. “Ông ấy vẫn còn đó.” Những lời của chị là án tử của chúng tôi. Thầy Cathar Mù chỉ rời khỏi hình tượng và đã chuyển vào sàn, tường và trần Nhà Nguyện. Chúng tôi đã tham gia vào một trò hề để cho phép Ẩn Sĩ có đủ thời gian đi lên Thạch Đạo. Hẳn bọn chúng sắp đến rồi. Cuộc đào ngũ của D’Arnoq thực ra là một cái bẫy và Sứ Mệnh Thứ Hai đã trở thành một cuộc tấn công cảm tử kamikaze. Tôi muốn ngầm-gởi một lời xin lỗi đến Inez và Aoife nếu có thể, nhưng thế giới của họ đã nằm ngoài tầm với. “Holly? Đứng ra sau chúng tôi đi.”
“Đã xong chưa? Jacko sẽ… sẽ hiện ra chứ?”
Tôi muốn đoạn lệnh cho cô ngay bây giờ để cô khỏi phải hận tôi khi chết. Kịch Bản đã bỏ rơi chúng tôi. Tại nghĩa trang Blithewood đáng ra tôi phải quay bước, gọi Wendy Hanger và giải thích là đã có sự nhầm lẫn, rồi trở về ga Poughkeepsie. “Tôi không biết,” tôi nói với Holly, người mẹ, người chị em, người con gái, góa phụ, nhà văn, người bạn. “Nhưng cứ đứng sau chúng tôi đi.”
Lời nhắn từ Esther, Ōshima ngầm-báo. Chị ấy đã bắt đầu Lệnh Cuối. Chị ấy cần chừng mười lăm phút.
“Ta đã phải cố,” Unalaq nói. “Khi vẫn còn hi vọng.”
Elijah D’Arnoq vẫn còn vờ vịt: “Các vị nói gì thế?” Gã còn mỉm cười. “Ta đã thắng! Thầy Cathar Mù đã chết. Không có ông ấy duy trì kết cấu Nhà Nguyện, chỗ ta đang đứng đây sẽ trở thành Cồn Cát và Bụi Tối trong vòng sáu tiếng.”
Tôi nhìn cái thứ mà gọi theo ngôn ngữ tiểu thuyết tình báo, là điệp viên hai mang kiểu truyền thống. Tôi thậm chí còn không cần phân linh để biết chắc. Elijah D’Arnoq không phải là kẻ nói dối giỏi như gã tưởng. Trong phần đầu của vụ lừa đảo, tại nhà tôi ở ngoại ô Toronto, gã đã thật sự bị “chuyển” thành một penitento, một kẻ sám hối thật sự, nhưng một lúc nào trong những ngày vừa qua, Pfenninger và Constantin đã đưa gã về lại với U Minh Phái.
“Để tôi nhé, Marinus?” Ōshima hỏi. “Làm ơn?”
“Cứ như anh quan tâm tôi có đồng ý hay không. Nhưng được thôi. Mạnh tay vào.”
Ōshima giả vờ hắt hơi, vận công ném D’Arnoq trượt dọc theo bàn, rơi xuống đất ở cuối bàn. Gã chỉ dừng lại ngay ở Cổng Đen.
Xi Lo đã làm như thế với Constantin, tôi ngầm-nói, nhưng anh ấy chỉ ném ả đi được một nửa bàn thôi.
“D’Arnoq nhẹ cân hơn mà,” Ōshima nói. “Rõ thế còn gì: bàn thì dài, trơn; một tên quấy rối. Ai mà kìm lòng được?”
“Tôi… đoán vậy có nghĩa là ông ấy phải là người của mình,” Holly nói. “Mày…” Elijah D’Arnoq đứng dậy và hét từ phía bên kia Nhà Nguyện, “chúng mày…”, gã chỉ tay, “sẽ bị chết ngạt và quắt queo trong lửa” Chín người đàn ông và một người đàn bà hiện ra từ trong không khí quanh gã.
“Khách quý, khách quý” Baptiste Pfenninger vỗ tay và mỉm cười. Ẩn Sĩ đầu tiên là một người cao ráo, phong thái ung dung, cơ thể cường tráng, ăn vận bảnh bao. Lão để một bộ râu tỉa kỹ, hơi ánh bạc. “Chốn xưa mới hiếu khách làm sao… mà thật nhiều khách!” Tôi đã quên mất cái giọng trầm như diễn viên ấy. “Thường mỗi quý chỉ tiếp một khách, vậy ra hôm nay là một dịp vô cùng đặc biệt. Dịp vô cùng đặc biệt lần thứ hai.” Tất cả những người đàn ông đều mặc áo vét dự tiệc, đủ kiểu và đủ phong cách. Áo của Pfenninger trông như kiểu thời vua Edward đầu thế kỷ hai mươi. “Marinus, Marinus, mời vào. Vị khách duy nhất hai lần đến thăm trong lịch sử Nhà Nguyện Bụi Tối, mặc dù, đương nhiên, lần trước cô để lại thân xác trên Trái Đất. Ōshima, trông anh già cả, kiệt sức, mệt mỏi, cần được tái sinh. Sẽ không có chuyện đó đâu. Nhân tiện, cảm ơn anh đã giết Brzycki: hắn bắt đầu để lộ dấu hiệu của bọn ăn chay. Còn ai nữa? ‘Unalaq’ - ta phát âm thế đúng không? Nghe kinh quá, như một loại keo dính ấy, đọc kiểu gì cũng thế. Arkady, Arkady, cậu đã cao hơn nhiều kể từ lần bị ta cưa đứt chân. Nhớ đám chuột không? Lisbon dưới thời Salazar, đấy, độc tài là phải thế. Mất đến bảy mươi hai tiếng cậu mới chịu chết cho. Để xem tôi làm hơn thế được với Inez không, nhỉ?” Pfenninger tặc lưỡi, “Tiếc thay L’Ohkna và Roho không thể đến đây, nhưng ông D’Arnoq đây,” Ẩn Sĩ Thứ Nhất quay về phía tên điệp viên hai mang, “đã kéo lưới được những con cá béo nhất. Giỏi lắm! Ồ! Cuối cùng và yếu ớt nhất, Holly Sykes, nữ nhà văn bí hiểm chuyển ngành nuôi gà lấy trứng. Hai ta chưa từng gặp. Tôi là Baptiste Pfenninger, hướng dẫn viên của bộ máy…” lão chỉ trỏ về phía những bức tường và vòm trần “…thần kỳ này, ối giời danh hiệu với cả tên tuổi, dài dòng luộm thuộm như dây xích của Marley ấy, Jacob chứ không phải Bob[63]. Có hai người ở đây còn nôn nóng gặp cô hơn tôi đây, Holly…”
Trong xiêm y nhung đen và đeo chằng chịt kim cương, Immaculée Constantin bước về phía trước. “Cô bé xuất chúng ngày nào của ta đã lớn rồi nhỉ… mãn kinh, ung thư, rồi cặp kè với bạn xấu. Vậy. Trông ta có hợp với giọng nói ấy không?”
Holly nhìn nhân vật không rõ mặt từ thời thơ ấu, không thốt lên được tiếng nào.
Nụ cười của Constantin tắt dần, mặc dù từ đầu đã giả tạo. “Jacko còn nói năng được. Nhưng đến khi ấy nó đâu còn là Jacko nữa, nhỉ? Nói thử xem, Holly, người có tin lời Marinus không, lúc ả nói rằng em trai ngươi đổ bệnh mà chết còn Xi Lo chỉ tình cờ lảng vảng gần đó, mmm?”
Vài giây trôi qua. Giọng Holly khô khốc. “Bà nói gì kia?”
“Thôi rồi.” Nụ cười của Constantin chuyển thành sự thương hại. “Ngươi tin lời chúng sao? Quên ta vừa nói gì đi, quên đi. Những chuyện ngồi lê khác gì đài phát thanh của quỷ dữ, mà ta sẽ không làm phát thanh viên đâu, nhưng… cố nghĩ cho kỹ trước khi ngươi chết. Ta sẽ lo cả Aoife nữa. Để mà, ngươi biết đó, nó sẽ không nhớ ngươi. À mà, đã thế sao không giết luôn Sharon và Brendan cho đủ bộ nhà Sykes? Nhỉ.”
Esther đã có chừng ba phút. Cái kết của Sadaqat sẽ tốn chừng năm phút, nếu Pfenninger ưa dài dòng. Tôi tính toán cơ hội sống sót của cả đoàn khi cuộc tâm song đấu bắt đầu. Ba Ẩn Sĩ mới nhất có lẽ sẽ không rắc rối gì, nhưng Nhà Nguyện không có gì để dùng làm vũ khí động lực và bốn chống lại mười một thì vẫn là bốn chống lại mười một. Ta cần kéo thêm bảy phút nữa cho Esther. Ta có thể chặn bước chúng lâu thế chăng?
“Bà sẽ hối tiếc là đã đe dọa gia đình tôi,” Holly nói. “Tôi thề đấy. Tôi thề có Chúa.”
“Ôi, ngươi thề kia đấy, hả? Thề có Chúa nữa kia?” Immaculée Constantin ra vẻ bận tâm. “Nhưng Chúa chết rồi. Nhưng để ta kiểm tra với với Người Trên Đài đã, liệu ta sẽ hối tiếc những gì vừa hứa với ngươi không?” Ả khum tay trên tai đeo kim cương, giả vờ lắng nghe. “Không, Holly, không. Ngươi lầm rồi. Ta sẽ chẳng hối tiếc gì cả: nhưng ngươi, ngươi sẽ quằn quại mà hối tiếc vì đã bỏ rơi Cô Constantin người bạn bí mật khi ngươi còn là đứa bé bảy tuổi đáng yêu có khả năng ngoại cảm. Nghĩ đi. Đáng ra chỉ có một người nhà Sykes phải chết, thay vì năm người nhà Sykes và một người nhà Brubeck. Người sẽ vô cùng hối tiếc, sẽ la lối om sòm! À, ông Anyder? Ả góa phụ xương giòn này có phải loại ưa la hét không, thời thanh niên đầy pheromone ấy?”
Hugo Lamb bước ra. Cằm chẻ, thân xác hắn vẫn như thời hai lăm tuổi, cặp mắt khinh miệt. “Ả là loại im lặng. Chào Holly. Thật chẳng ngờ được chuyện gì, nhỉ?”
Holly bước lùi lại. Nghe kể về ma là một chuyện, thấy ma lại là chuyện khác. “Họ đã làm gì với anh vậy?”
Vài Ẩn Sĩ phá ra cười. Hugo nhìn người yêu rất cũ của mình. “Họ…” hắn nhìn quanh Nhà Nguyện “…chữa bệnh cho tôi. Họ chữa tôi khỏi một thứ bệnh suy nhược tồi tệ, gọi là tử tính. Bệnh này phổ biến lắm. Người trẻ chống chọi được một thời gian, nhưng cuối cùng, ngay đến những bệnh nhân kiên cường nhất cũng thành một thứ phôi thai tan tác, một người Struldbrug… một thứ đồng hồ xương gân guốc, xương xẩu, dãi dớt, bị chính gương mặt mình phản bội, vì nó cho thấy rõ mình chẳng còn sống được bao lâu nữa.
“‘Phản bội’?” Pfenninger bước đến. “Nhân tiện, Marinus. Cô có biết trong hàng ngũ thân cận của mình có cả gián điệp không?”
Tôi kìm lại, cố không nói “Đã biết cả năm rồi.”
“Không phải ông D’Arnoq,” Pfenninger tiếp. “Ông ấy chỉ bịp các vị có bảy ngày thôi. Có người đã biến các vị thành trò hề nguyên một năm qua.”
Tôi không hề muốn chứng kiến cảnh này. “Đừng, Pfenninger.”
“Đúng thế, đau đớn thật, nhưng veritas vos liberabit[64] - và nhớ cho, làm trò tiêu khiển cho tôi lúc này là cách câu giờ duy nhất của cô…”
Đúng vậy. Tôi nghĩ đến Esther vô thể, đang vận công làm cơn tâm hỏa thiêu bên trong đầu Ōshima. Mỗi giây đều đáng quý. “Ngươi cứ tự nhiên.”
Pfenninger búng ngón tay về phía Cổng Đen, Sadaqat bước vào, điệu bộ của anh ta đã đổi từ quản gia khiêm nhường sang đội trưởng đội hành quyết. “Xin chào, các bằng hữu yêu quý. Lựa chọn của tôi là thế này: một bên là thêm hai mươi năm làm việc nhà, giặt giũ, nhổ cỏ, già cả, ống thông tiểu, bệnh tiền liệt tuyến; một bên là hay cuộc sống vĩnh hằng, được đào tạo miễn phí trong U Minh Phái và giấy tờ nhà 119A. Mmmm. Cho tôi thời gian suy nghĩ. Chừng hai mươi giây. Ấy dà, hóa ra Hầu Hạ Phái không hợp với tôi lắm.”
Holly sốc: “Họ đã tin tưởng anh! Họ là bạn anh kia mà!”
“Nếu bà biết Trắc Thời Phái lâu hơn năm ngày, bà Sykes,” Sadaqat bước đến đầu bàn phía kia và dựa lên như thể đấy là bàn nhà anh ta, “thì cuối cùng bà cũng sẽ ngộ ra rằng Trắc Thời Phái là câu lạc bộ của những kẻ bất tử chuyên ngăn cản người khác tìm cách có được cái đặc quyền của họ. Họ là tầng lớp quý tộc. Giống như một đất nước của người da trắng vậy đó - xin lỗi đã mang chuyện chủng tộc vào đây, nhưng phép so sánh hoàn toàn chính xác - một thành lũy giàu có, dân da trắng, đế quốc, chuyên bóc lột, sẵn sàng lật úp những chiếc thuyền của người tị nạn từ Xứ Thường Dân Da Nâu Lộn Xộn. Việc tôi vừa làm là chọn phương án sống sót. Mọi sinh vật đều sẽ làm như thế.”
“Chúc mừng anh đã có việc mới, Sadaqat.” Arkady ra vẻ chân tình, trơn tuột. “‘Kẻ gặt linh hồn’. Thật là xứng đáng quá đỗi.”
Sadaqat cười đểu: “Tên quản gia Pakistan cung cúc mà cũng biết nhận ra lối mai mỉa của Arkady đấy.”
Ōshima hỏi, “Thế biệt hiệu mới của anh là gì, Sadaqat? Thiếu tá Trung Thực? Gián Điệp Tạo Phản? Hay Judas McJanus[65]?”
“Nhưng tên tôi không phải là thế này: Ông Đừng-lo-cho-Sadaqat-hắn-sẵn-lòng-nổ-bom-tan-xác-mình-để-bảo-vệ-bọn-Vô-Thời-Khách-đức-độ.”
“Sadaqat đã làm tròn vai,” Tôi nói với Pfenninger. “Hãy để anh ta đi.”
Pfenninger búng nhẹ nơ cà vạt. “Đừng giả vờ đọc ý tôi, Marinus. Lẽ nào cô biết mà lại đi nuôi ong tay áo.”
“Được thôi, tôi chẳng biết gì cả. Anh ta đã làm theo lệnh của ông. Đã do thám chúng tôi. Đã ném đi mười kí nhựa dán Blu Tack. Hãy để anh ta đi.”
Sadaqat gào lên, kể từ lần đầu tiên tôi chữa bệnh cho anh ta ở Bệnh viện Dawkins, Berkshire, Anh Quốc, anh ta chưa bao giờ gào như thế. “Không phải là Blu Tack! Là N9D. Chất nổ cực mạnh, chính các người cột vào ngực tôi!”
“Marinus, thực ra anh ấy cũng có phần đúng,” Arkady lên tiếng. “Công ty Blu Tack sản xuất thứ đó, nhưng chính xác thì thương hiệu là White Tack kia.”
Sadaqat đứng trên ghế băng. “Đồ dối trá! Chính các người kéo tôi theo để làm mìn sống!”
“Tôi đã ba lần cố thuyết phục anh đừng tham gia Sứ Mệnh Thứ Hai kia mà Sadaqat,” tôi nhắc cho anh ta nhớ.
“Nếu muốn thì bà đã phân linh tôi. Còn ông Pfenninger sẽ không ‘để tôi đi’ đâu! Tôi là Ẩn Sĩ Thứ Mười Hai.”
“Xin lỗi vì lại mang chuyện chủng tộc ra đây,” Arkady nói, “nhưng anh nhìn Ẩn Sĩ từ Một đến Mười Một thử xem. Anh thấy có điểm chung chủng tộc gì không?”
Sadaqat gần như bị miễn nhiễm với nghi ngờ. “Tôi đã được chiêu mộ để cải thiện sự… sự cân bằng của Ẩn Sĩ.”
Cái phì cười của Arkady chuyển thành ho. “Xin lỗi, có chút nước miếng chạy sai chỗ. Và tại sao cả băng Người Da Trắng lại chọn anh?”
“Vì tâm áp của tôi cực mạnh, vì vậy đó!”
“Thật tội nghiệp.” Ōshima ngáp. “Tôi đã từng ăn những đĩa dim sum có tâm biệt năng còn mạnh hơn anh.”
“Ta tò mò thật đấy, Marinus,” Immaculée Constantin lên tiếng. “Bệnh nhân tâm thần cưng của ngươi vừa bán đứng ngươi. Chẳng lẽ không có gì khiến ngươi khinh bỉ con người sao?”
“Có chứ, tội giết chóc chẳng hạn. Nhưng ở đây là chính cô, vì cô đã méo mó nỗi sợ chết của Sadaqat thành sự phản bội. Tôi xin lỗi, Sadaqat. Đây là chiến tranh. Tôi phải để cho họ tin rằng anh là tay trong của họ. Ít ra cũng xin cảm ơn anh về khu vườn. Điều đó không thay đổi.”
“Tôi là Ẩn Sĩ Thứ Mười Hai. Nói cho họ biết đi, Bà Constantin, những gì bà đã nói với tôi ấy. Về tiềm năng của tôi để theo U Minh Phái.”
“Ngươi có tiềm năng rên rỉ ỉ ôi khiến người ta hết muốn sống, Sadaqat.” Khi Constantin giở giọng dịu dàng, tôi biết chúng tôi không còn nhiều thời gian nữa. “Nói về tâm biệt năng, ngươi là thể loại bắn đạn giả. Tệ hơn nữa, ngươi là một kẻ phản bội. Một kẻ phản bội bất tài, không có chakra, da nâu.”
Sadaqat nhìn quanh đám Ẩn Sĩ da trắng cao lớn, không tin vào mắt mình. Tôi không thể nhìn vào vẻ mặt vừa đổi của anh ta. Nhưng tôi đã nợ anh ta vụ này. Rồi, thật nhân từ, anh ta quay lưng về phía chúng tôi, run rẩy tiến vài bước đến Cổng Đen. Hai người gác ở sau chặn lại. Sadaqat cố chạy trốn ra cửa nhưng Pfenninger vận linh tóm anh ta lại, kéo thật lực rồi ném lên cao cả sáu mét. Tôi không thể can thiệp. Sứ Mệnh Thứ Hai đòi hỏi chúng tôi dành từng volt tâm áp cho trận song đấu. Constantin dùng tay ra dấu để áp Bạo Lệnh, và đầu của Sadaqat bị vặn ba trăm sáu mươi độ. “Rồi,” Constantin gừ hừ sung sướng. “Bọn này có ác ôn gì lắm đâu? Nhẹ nhàng nhanh chóng. Gà còn tội nghiệp hơn khi bị vặn cổ, phải không Holly?”
Xác của Sadaqat rơi xuống mặt đất, và một Ẩn Sĩ mọn vận công ném xác qua cửa sổ phía đông, như người ta ném túi rác. Ít ra linh hồn của anh ta cũng sẽ tìm được đường ra Bể Cuối, chứ không như những “vị khách” khác, bị mang đến đây để th