- 2 -
Tôi tưởng, nhà sẽ chuẩn bị đón tôi về, nhưng cha tôi, chị tôi đều nhắn ngược lên Sài Gòn, bảo tôi đừng về. Cha và chị sẽ sắp xếp nhà cửa, lên thăm. Bởi vì, làng đã được giải phóng rồi, nhưng còn lộn xộn lắm. Không biết trong toàn quốc thế nào, chớ trong tỉnh An Giang, làng tôi là làng sau cùng được giải phóng. Cái đồn bảo an của lính Hòa Hảo, có thằng đại đội trưởng ngoan cố, dù chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng, chính quyền ở tỉnh, ở huyện và cả các làng xung quanh đã buông súng đầu hàng, cái thằng đại đội trưởng đó vẫn cố thủ. Đêm cuối cùng, nó nhắn tin xin người chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng đến thương lượng để xin nộp súng và xin được tha mạng sống. Nó có biệt danh là Tư “chày vồ”. Nó đánh người bằng chày vồ bằng sắt, một đầu sơn xanh, một đầu sơn đỏ, gọi là đầu sinh, đầu tử. Đánh bằng đầu đỏ là đánh cho đến chết, đánh bằng đầu xanh là còn để chừa cho cái mạng sống... Nó vừa là đồn trưởng đồn bảo an, vừa là tên đầu sỏ trong đảng cướp “Cua vàng”, dưới sự chỉ huy của tên thiếu tá ở tận cái gốc của làng Hòa Hảo.
Cái đảng cướp sao gọi là đảng “Cua vàng”, chẳng ai biết. Cái đảng “Cua vàng” của nó ăn cướp bằng nhiều cách, cần cướp của nhà ai, ban đêm nó gõ cửa, gọi chủ nhà dậy, đặt lên bàn trước mặt chủ nhà ba cây đinh dài một tấc hai. Chủ nhà hoặc nộp vàng, nộp tiền, hoặc sẽ bị đóng ba cây đinh vào đầu. Cách thứ hai, cần cướp nhà ai, thì tự nó đến nhà, để một lá thư lên bàn thông thiên(1) nhà ấy. Chủ nhà nếu không để ý thì đến giờ cúng lạy cũng phải thấy lá thư. Lá thư yêu cầu chủ nhà đóng quỹ cho đạo, biết thân thì mang đến tận đồn. Cách thứ ba, đến ngày sinh ngày giỗ, ngày cưới trong gia đình nó, nó phát thư mời cả làng. Tiền phải để vào cái phong thư nó gởi tới, để nó xem ai nhiều ai ít. Tiền cướp được nó dành để cất nhà lầu cho những vợ hai vợ ba, vợ tư... Người ta nói, qua các cù lao ở giữa dòng sông Tiền, sông Hậu, nếu thấy nhà nền đúc dựng lên sừng sững trong một khu vườn giữa những xóm lá thì đó là nhà của bọn vợ nhỏ trong đảng cướp “Cua vàng”. Ở những nơi xa xôi là mảnh đất tung hoành của những kẻ man rợ. Có người nói đầu của Tư “chày vồ” có bao nhiêu sợi tóc thì nó có bấy nhiêu tội ác. Người làng nghĩ rằng, vì tội lỗi quá nhiều, nên nó không dám tin đến lượng khoan hồng của Cách mạng, vì vậy mà trù trừ chưa chịu buông súng.
Người chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng mà nó yêu cầu là anh xã đội trưởng. Buổi chiêu, trời xâm xẩm tối. Buổi chiều yên lặng đến kỳ lạ, cả làng như nín thở để đón tin, chỉ còn nghe tiếng sóng cồn lên của con sông, xô nhau vỗ đập vào bờ.
Cái đồn nằm một mình bên bờ sông, công sự bằng đất, bằng bao cát chất cao lên đến tận mái, xa trông như một cái mả lớn. Người làng gọi nó là cái mả sống. Những ngôi nhà ở cạnh bên đồn trước đây đã phải dỡ đi. Trước khi dọn cái bãi trống ấy, Tư “chày vồ” chọn một tên lính khỏe nhất, đứng từ cửa đồn, dang hết sức, ném bung ra một quả lựu đạn.
Tư “chày vồ” lấy cái điểm rơi của quả lựu đạn ấy, nhích ra thêm hai tầm đất, ra lệnh cho tất cả nhà cửa quanh đấy phải dọn đi, trụi lủi cả một vùng.
Chiều hôm đó, dân xóm đổ dồn lại những ngôi nhà cuối cùng ở bên đồn, người nấp bên gốc cây, người nấp trong nhà, vạch vách theo dõi từng bước của anh xã đội trưởng. Anh là người con trai xóm Đình, sống nghề ruộng, tuổi sắp ba mươi. Từ trong vườn cây, anh bước lên con đường đá, hai bàn tay không, bộ đồ bà ba đen, khăn rằn quấn cổ. Anh đi... anh đi... hai bàn chân đất từng bước đặt trên con đường đá. Tim người như đập mạnh lên theo từng bước của anh. Ở cái đồn bảo an kia không một bóng người, không một tiếng động, im như cái mả.
Và anh đã đến tận nơi, trước cửa đồn mà vẫn không thấy một tên nào như đã hẹn. Anh bước thẳng vào trong như bước vào hang hùm. Rồi anh lại bước ra. Lột chiếc khăn rằn quấn cổ, anh phất lên, vừa phất vừa reo to. Thế là du kích và dân làng hai bên xóm tràn lên.
Bọn chúng đã dùng kế hoãn binh để không nộp súng và đã lẩn trốn đâu rồi. Chúng có thể kéo nhau qua cù lao Ông Chưởng, băng sông, về Bảy Núi, hoặc còn lẩn quất đâu đây để phá rối? Vậy là làng tôi, dù đã giải phóng rồi, nhưng chưa được yên.
Tôi vẫn thường mơ ước, sau ngày giải phóng, anh chị em dù có ly tán tận đâu, cũng quay về, sum họp dưới mái nhà xưa. Niềm mơ ước được nâng niu suốt ba mươi năm đi xa, cái ngày ấy đã đến, nhưng cái niềm hạnh phúc bình thường và giản dị vẫn không đến với tôi.
Nhà tôi, ngôi nhà sàn, vách tre, mái lá ba gian. Làng tôi, hầu hết là nhà sàn, nhà dài dọc theo bến sông, dọc theo hai bên con đường đá, dọc theo hai bên kinh rạch chảy vô đồng. Nhà nhà đều nằm dưới bóng mát cây vườn. Nhà, dù lớn, dù nhỏ, cũng phải là nhà sàn. Vì mỗi năm, năm nào cũng vậy, đến tháng sáu âm lịch, thì dòng sông Cửu Long chảy qua làng chỉ chảy có một chiều, không lên không xuống, không nước ròng cũng không nước lớn, mà từ trên nguồn đổ xuống, trôi ra biển. Người làng gọi là con nước quay. Trước ngày con nước quay, trên dòng sông, nước trong, gọi là nước bạc. Khi con nước quay, con nước đập vỗ hai bên bờ tận từ đâu ở đầu nguồn, mang theo phù sa, ngầu đỏ. Nếu ta đưa tay, vốc lên một ngụm nước, với con mắt thường, ta cũng thấy những hạt phù sa đỏ li ti. Mùa nước bạc, dưới bến nước mỗi nhà đều có một cái gáo dừa úp lên cây cột cầu. Người ta có thể dùng cái gáo dừa múc nước sông mà uống. Người đi xuồng trên sông, khi muốn uống nước, họ lột cái nón lá đội trên đầu, múc nước, rồi úp mặt xuống, uống ừng ực. Đối với người lam lũ, dòng nước của con sông quê hương thật ngọt ngào. (Ba mươi năm đi xa, nhiều lúc tôi thèm được uống nước theo cái kiểu như vậy, vừa uống vừa áp mặt mình vào nước sông cho mát mẻ). Đến mùa nước phù sa, người làng phải gánh nước, đổ vào lu, rồi đánh phèn, phù sa lắng xuống, nước lại trong. Mùa này, người làng tôi gọi là mùa nước ngập, không gọi nước lũ, vì nước lên một cách hiền hòa chớ không dữ dội như những nơi khác. Nước mỗi ngày mỗi dâng lên, dòng nước đổ một chiều, cuồn cuộn, đầy bờ. Cũng là những ngày mưa., mưa dầm dề. Lại có một cơn mưa dai dẳng, mù mịt, mưa sướt mướt ngày này qua ngày khác gọi là những ngày “ông tha mà bà không tha”. Mưa xói đất, giây bùn lầy trên các mặt đường, đi phải bấm hai ngón chân xuống đất. Cái mùa của ếch nhái rộ lên, lúc về đêm. Rồi đến rằm tháng bảy. “Rằm tháng bảy nước nhảy lên bờ”. Dòng sông Cửu Long đã no đầy, lại tràn qua bờ, chảy qua các sàn nhà, tràn qua cả mặt con đường đá. Nước trong ao hồ, nước trong đồng ruộng của mùa mưa hòa lẫn với nước của dòng sông Cửu Long. Đồng ruộng, vườn tược và cây cỏ như biết giữ lại hạt phù sa ở quanh mình, nước lại trong dần. Ngồi trên nhà, ta thấy cả những đàn cá ròng ròng, từng đàn, từng đàn theo cá mẹ xuôi theo nước, vào tận đồng sâu.
Không phải ai cũng làm nổi nhà sàn. Có những nhà nghèo không đủ gỗ, phải đào mương, đào ao lấy đất đắp nền, nền phải cao, thật cao cho nước đừng tràn về. Nhưng cũng có nhà không đủ đất đắp một cái nền nhà quá mặt nước. Nước lên, nước tràn qua nền nhà. Lúc nước còn thấp, người ta lấy gạch đặt lên nhà, bước lên đó khỏi bị dơ, bị ướt chân. Ngủ một đêm, sáng dậy, nước lại ngập lên khỏi những viên gạch ấy rồi, ngồi trên giường, thấy cả những con cá lòng tong, con cá he vàng đang nhởn nhơ trong nhà. Lại phải lấy ván, lấy tre làm cầu từ cửa trước vào đến tận bếp. Vui quá! Có cả một cây cầu lắt lẻo ngay dưới mái nhà!
Làng không rừng, lấy gỗ đâu mà làm nhà? Làng tôi dùng gỗ từ rừng của nước ngoài, tận đất Campuchia. Năm nào cũng vậy, hễ đến mùa nước đổ, thì gỗ từ vùng Campuchia kết thành bè, theo con nước đổ về. Trên bè có cả cái mái nhà. Ban đêm họ đốt đèn măng sông sáng rực, chẳng khác gì cái chợ đêm từ xa đang trôi tới. Có bè trôi qua làng, về đến những nơi xa, có những cái bè tấp lại làng tôi, rã gỗ đưa lên xóm mộc. Đủ thứ gỗ. Cẩm lai để làm bàn, làm tủ. Bên nu để làm bàn thờ. Căm xe để đóng xuồng, ghe và cất nhà. Con sao thì để dựng đình chùa và miếu thờ. Cái xóm mộc làng tôi với cái xóm mộc làng bên liền nhau, dài đến năm sáu cây số, cặp dài theo con đường đá về chợ quận. Chen vào cái xóm mộc là những nhà nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa.
Phải nói đến cái chợ làng của tôi mới được. Chợ làng tôi, làng Mỹ Luông, là nơi qua lại các con đường. Chợ có phố lầu. Nằm giữa hai dãy phố mặt tiền, nhìn ra mặt sông là cái bến tàu. Phố ngang, phố dọc, có nhà lồng, có bến xe ngựa, xe hơi. Có tiệm thợ bạc, tiệm chụp hình, có tiệm rượu, tiệm hút, có nhà máy nước đá, có cả hai cái nhà máy xay gạo, máy chạy rầm rì suốt ngày đêm. Có cả nhà chứa cho gái làm tiền. Những làng ở kế bên và cả những làng ở bên kia sông muốn mua, muốn bán gì cũng phải qua chợ làng tôi. Muốn đi lên Nam Vang(2) làm ăn hay trốn nợ thì cũng phải ghé qua đây. Tàu Sài Gòn - Nam Vang sẽ cập bến. Muốn qua Long Xuyên về Chợ Mới hay đi Cái Tàu thì hãy đến đây, hàng chục chiếc xe ngựa đang chờ khách. Cái bến xe ngựa, ngựa chờ khách đang chồn chân, gõ móng, rung đầu, tiếng kêu leng keng. Ai muốn đi Sài Gòn thì đến bến xe hơi, xe của hai ba hãng đang nổ máy, kèn bóp inh ỏi với những tay lơ, tay anh chị đang chực chờ giành khách. Khác hơn tất cả các làng ở trong quận, làng tôi có cả một thằng cò Tây. Cái bót cò nằm cách biệt với phố với nhà, là một cái đồn dưới bến sông; cái đồn như ngăn đôi giữa phố chợ tường vôi mái ngói với dãy nhà sàn mái lá. Thằng cò Tây mũi lõ mắt xanh, râu ria, lông ngực, với một con đầm già da trắng, tóc quăn, mập thù lù như cái thùng rượu.
Ngôi nhà tôi nằm cùng một dãy nhà sàn bao vòng lấy phố chợ. Sân nhà có cây trứng cá, một cây xoài. Qua một con kinh nhỏ, bước lên con đường đá, qua bãi cỏ ống để cho những con ngựa kéo xe sau những chuyến đi được chủ cho vào nghỉ ngơi, nhai cỏ, thì đến cái bót cò Tây, trước cửa bót là con đường nhựa, qua hai dãy phố lầu, dẫn vào chợ.
Sau hè của xóm nhà tôi là sân banh. Nhờ vậy mà con nít xóm tôi đi coi đá banh, coi đua ngựa khỏi phải tốn tiền.
Ngôi nhà, tôi lớn lên, và từ đó tôi ra đi. Tôi đi, như mang theo cả cái nhà với bao nhiêu kỷ niệm, suốt hơn ba mươi năm.
Tôi nhớ, năm tôi mới vừa cắp sách đến trường làng, đêm đêm bà nội thường hay kể chuyện đời xưa cho tôi nghe, ông nội tôi mất từ lúc nào tôi không nhớ mặt, chỉ biết mặt ông qua tấm hình trên bàn thờ, mặc áo dài, đầu chít khăn đóng, có một bộ ria đậm đen, hai cái mép ria quớt lên như củ ấu. Nghe nói, hồi ông còn sống, nhiều người nể sợ lắm. Ông tôi không phải gốc ở làng, cùng một tỉnh, nhưng ở tận bên kia sông Hậu, trong rạch Cái Sao. Bị cường quyền giựt vườn giựt đất, nên lớn lên đã nghèo. Lại nhằm lúc cha mẹ già lâm bệnh, ông nội phải đi lính mướn cho một nhà địa chủ. Đi lính làm đến chức cai. Nghe nói ông tôi là người nóng nảy, uống rượu bằng tô, chẳng biết sợ ai. Có một chuyện của ông, cả làng đều rúng động. Một buổi chiều, sau khi uống vài tô rượu, ông cầm con dao xắt thuốc đi ra. Đi giữa đường lộ đá, đến thẳng nhà tên hương quản. Ông đứng trước cửa gọi nó ra, rồi chém vào bả vai nó ba nhát. Chém rồi mới hài tội đã ức hiếp ai trong làng: “Đất đai như vậy chưa đủ sao? Còn muốn giựt nồi cơm của người khác!”
Người khác đây là ông Chín, em ruột của bà nội tôi, ông Chín Hết. Ông tôi tên Hết là vì khi bà cố tôi đẻ ra người thứ tám, tưởng là thôi, nên gọi là Út. Sau, bà cố tôi lại đẻ ra một người nữa, thứ chín. Như người ta thì người ta đặt Út Một, Út Hai hoặc Út Tám, Út Chín. Trong làng đã có Út Mười Một, Út Mười Hai. Bà cố tôi bảo “đến thằng này nữa là hết” nên đặt tên cho ông tôi là Hết.
Khi ông Chín Hết tôi cưới vợ, ra riêng, bà tôi không còn đất để chia cho nữa. Ông tôi phải vào tận trong đồng sâu để phát hoang. Mới khai được một lõm đã thấy cây cột đá ló đầu trong đám đế. Ông tôi phát cỏ đụng nó, tưởng là hòn đá thường. Khi ông tôi đào lên, thấy cột đá đã cắm ranh đất, ông tôi mới biết là mình đã làm công không cho người khác. Sau đó, tên hương quản cho người xuống bảo đất đó ông ta đã đóng thuế cho nhà nước rồi. Ông nội tôi nghe chuyện, bảo ông Chín tôi: “Trồng gì thì trồng đi, chuyện đó để tao xử.” Lạ là không ai dám bắt ông tôi, mặc dù ông đã giải lính. Người làng nói, ông chém cái người chuyên đi bắt người thì còn ai mà bắt ổng nữa. Bà tôi nói, nhờ cái chuyện chém hương quản của ông mà từ đó, đất đai của bà con dòng họ được nằm yên, không chạy qua chạy lại nhà người khác nữa.
Trong làng có cò Tây, có lính, có hội tề, nhưng những người cùng đinh khi gặp điều oan ức, lại đến thưa với ông tôi. Lần sau khi nghe một người kể xong, ông tôi hỏi:
- Cái gì trong bị đó?
- Dạ con gà, đem biếu ông Hai.
- Cho tao? Gà sống à? Nè, đem về, cắt cổ, nhúng nó vô nước sôi, nhổ lông, làm lòng rồi đem đi luộc.
- Luộc xong rồi cháu mang đến cho ông?
- Đem qua nhà tao làm gì?
- Để cho ông Hai uống rượu.
Ông nội tôi nạt:
- Bày đặt! Luộc cho mấy đứa nhỏ trong nhà nó ăn. Rồi đi nói với thằng đó, chuyện đã động đến lỗ tai của tao rồi. Nghe chưa?
- Dạ.
- Thôi về đi,
Vậy là yên.
Bà nội tôi nói, trong đàn cháu, tôi là người giống ông tôi nhất. Cho nên, mỗi năm, đến giỗ ông, tôi phải đội sổ, quỳ trước bàn thờ. Có lần, bà tôi lấy một củ ấu, đặt lên môi trên tôi, đưa ngón tay trỏ giữ nó đứng lại, rồi kêu cả nhà xúm quanh tôi:
- Bây coi, nó giống ông nội bây không?
Cả nhà cười, bà cũng cười nhưng rơm rớm nước mắt.
Cha tôi thứ hai, cha tôi thờ ông và nuôi bà lúc bà về già. Bà tôi thương tôi hơn những đứa cháu khác.
Đêm đêm, tôi với bà nằm trên bộ ngựa gõ dưới bàn thờ ông, cái bộ ngựa đen mượt, nằm mát lưng làm sao. Tôi được bà gãi lưng và nghe bà kể chuyện. Mỗi đêm một chuyện đời xưa, cả chuyện thật từ đời ông sơ, ông cố, đến ông nội tôi. Nhờ vậy mà tôi hơn những đứa cháu khác của bà, tôi biết cả những chuyện ở cái thời tôi chưa đẻ. Kể xong, bà tôi dỗ tôi ngủ bằng cách rất là lạ, không hát, không ru, cũng không xoa đầu, mà gãi vào gan bàn chân của tôi... Nhột lắm, mỗi lần tôi rụt chân lại, bà lại gãi nhẹ hơn, dần dần tôi thấy thích, hai con mắt mơ màng.
- Bồng nó vô mùng! - Bà tôi bảo.
Đêm nào tôi cũng được cha tôi bồng, tôi có ngủ say đâu, tôi biết, nhưng tôi vẫn chưa híp mắt, để được nằm trong tay của cha tôi...
Một đêm, bà tôi kể:
- Hồi đó, có một anh nhà nghèo, nhưng có tài đá banh. Anh chạy nhanh như ngựa, banh đá xẹt đi như tên bắn. Anh được lòng một cô thợ dệt. Cô thợ dệt mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng là người đẹp nhứt làng. Cô ở với một người cậu. Cậu làm thợ mộc, nên cái nhà sàn của cô ở cũng là cái nhà sàn đẹp nhứt. Sàn cao đứng với tay không tới. Cột căm xe hồng hồng màu măng cụt, vách, sàn đều bằng cây thao lao. Cô sống nhờ cậu với cái khung cửi của mình. Cô ngồi dệt bên cửa sổ. Người đi đường ai mà không nhìn thấy mặt cô. Mỗi chiều, khi cô từ trên nhà bước xuống từng bực thang, tóc bới đuôi gà, người ta bảo cô đẹp như một nàng công chúa.
Anh nhà nghèo đó lại biết đàn, cây đàn hai dây. Tối tối, anh thường đến chơi nhà của cô. Những người đàn ca xướng hát ấy ngồi chơi dưới sàn. Cô là gái, cô không được xuống, cô ở trên nhà, nhưng vẫn nghe tiếng đàn của anh chàng nghèo, tiếng đàn như nức nở vì ngăn cách. Hai người đã phải lòng nhau nhưng không nói.
Trong lúc đó thì có một anh con nhà giàu, học cao, đang làm thông ngôn cho cò Tây ở chợ cho người đến hỏi cô. Cô bảo cô chưa nghĩ tới chuyện chồng con.
Một sáng, ông thợ bạc già ở chợ gặp anh chàng nghèo đi qua, ông gọi vào, nhờ anh cán cho một miếng vàng. Cô thợ dệt đi chợ về, ngang qua phố, chợt thấy anh đứng bên bàn cán trong lò thợ bạc, cô hỏi:
- Anh Hai học nghề thợ bạc hả?
Anh chàng nghèo bối rối, gật đầu:
- Dà! Sáng nay cô đi chợ?
- Dà! Làm cho em một đôi bông tai đi anh Hai!
- Dà!
Cô thợ dệt nói chơi vậy thôi, nhưng anh chàng nghèo lại chíp bụng. Từ đó, ngày ngày, anh đến với ông thợ bạc già, xin học làm bông tai. Suốt ngày anh gò lưng bên cái tủ thợ, tẩn mẩn, tỉ mỉ, cầm cây giũa giũa từng nhánh bông, có ngày quên cả ăn. Ông thợ bạc khen anh là người sáng dạ. Chẳng bao lâu, anh làm xong đôi bông tai. Bông có năm cánh như cánh hoa hồng. Bông nhận kim cương. Nhưng anh nghèo, anh làm gì có kim cương với hột xoàn? Anh nhận bằng hột đá. Làm xong anh để đôi bông vào cái hộp nỉ đỏ với một lá thư gởi cho cô:
“Cô Bảy!
Tôi vừa làm được đôi bông. Xin cô đừng chê của nghèo. Xin cô đeo bông này, mặc chiếc áo dài đen đi xem hát đình đêm nay...”
Cô thợ dệt làm đúng theo lời dặn trong thư. Cô đeo đôi bông hột đá, mặc chiếc áo dài màu đen. Dù là bông hột đá nhưng vẫn lấp lánh, cái áo dài đen của cô không lộn với những cô gái áo quần sặc sỡ khác. Hai người gặp nhau trong đêm hát đình. Tiếng trống đình như mừng cho hai người.
Họ thương thầm, gia đình hai bên chẳng ai hay biết. Ông cậu của cô gái ép cô phải lấy thầy thông ngôn của Tây. Cô vẫn một mực không ưng. Ép hoài không được, ông cậu của cô đuổi cô ra khỏi nhà. Đuổi dọa để cô ưng anh thông ngôn. Không ngờ, cô xuống tóc, lên chùa ăn chay. Đến lúc đó, ông cậu mới vỡ lẽ là cháu đã phải lòng anh chàng nghèo, ông hỏi:
- Mầy bỏ bùa, bỏ ngải gì con Bảy nhà tao, Hai?
- Dạ cháu có bùa ngải gì đâu, cháu chỉ thương cô Bảy thôi!
- Thương sao không đi hỏi đi nói mà thầm thầm lén lén?
- Dạ cháu thấy có thầy thông ngôn đi hỏi rồi, người ta giàu, còn cháu thì nghèo.
- Mày có thương nó thiệt bụng không?
- Dạ, thương thiệt.
- Thiệt bụng thì lên chùa, kêu nó về, tao gả không.
Vậy là hai người thành vợ thành chồng. Ai ai cũng khen hai vợ chồng là người chung tình, xứng đôi, hạnh phúc. Vì cái đôi bông tai mà anh chồng làm luôn nghề thợ bạc. Anh không giàu nên không mở lò làm chủ, anh cũng không làm công cho ai. Nhà anh là nhà sàn xa chợ. Nhà ngoài gọi là thảo bạt, sàn nhà bằng ván thao lao rất đẹp, để tiếp khách, không sang nhưng lịch sự. Anh đặt cái tủ thợ ngay trong một góc thảo bạt, dưới tủ anh lót một tấm đệm để mạt vàng không rơi xuống sàn nhà.
Anh khéo tay, và cái tấm gương chung tình của hai vợ chồng anh mà cả làng và mấy làng chung quanh, làng ở bên kia sông, ai muốn làm đồ cưới cũng đem đến anh, nào bông tai, cà rá(3) với dây chuyền. Anh làm lấy công, nhờ nhiều hàng, nên đủ nuôi vợ, nuôi con. Hết chuyện!
Kể xong, bà tôi bảo:
- Cháu biết hai vợ chồng anh thợ bạc đó là ai không?
- Không!
- Là thằng cha với con mẹ của mầy đó.
Hèn chi lúc bà tả cái nhà sàn của anh thợ bạc, tôi nghe sao giống nhà mình. Bà tôi có lối kể chuyện như vậy, chuyện thật mà giống với chuyện đời xưa cứ lẫn vào nhau, khiến tôi cứ mải mê.
Vậy là ngày xưa má tôi đẹp lắm?
Tôi làm sao biết được má tôi ra sao hồi thời con gái. Dù ở gần cái chợ có tiệm chụp hình, má tôi vẫn giữ phận một cô gái quê, lại là một cô gái mồ côi, ở nhờ nhà cậu, chẳng biết đua đòi với ai, nên chẳng có một tấm hình thời con gái. Má tôi đẹp, bà tôi nói vậy tôi cũng tin vậy, chớ má tôi bây giờ là một người đàn bà nhỏ nhắn lại gầy gò, suốt ngày thui thủi với bếp núc. Má tôi có một tính lạ. Năm nào má cũng nuôi một con heo. Con heo, mỗi ngày má tôi dẫn xuống kinh tắm một lần thật sạch sẽ, nó cứ loanh quanh theo chân má tôi. Đến ngày bán heo, má tôi khóc. Má tôi càng ngày càng nhỏ lại vì bịnh. Thầy thuốc ở trong làng đều chạy, không biết bịnh gì. Má tôi ít khi ra nhà trước, thường nằm trên chiếc võng ở nhà trong. Dù bịnh, dù nằm một chỗ, má vẫn không rời mắt khỏi các con, vẫn lo cho từng đứa.
- Tội nghiệp thằng út, chưa được một bộ đồ mới.
Thằng em út tôi phải mặc đồ cũ của anh. Vì phải lo thuốc thang cho má nên nhà tôi suy sụp, và năm đó, năm củi quế gạo châu, vải sồ quá đắt.
Tôi học hết lớp ba trường làng, sắp thi lên trường quận, tôi phải ôn thi. Nghe nói học vào lúc gần sáng, đầu óc tỉnh táo, mau thuộc bài, nên ngày nào tôi cũng dậy từ lúc bốn giờ. Tôi tưởng cả nhà tôi đều ngon giấc, chỉ có mình tôi với đèn sách.
Tôi ôn bài tập đọc sách tiếng Pháp, đang đọc ngon lành, thì từ trong mùng, má tôi hỏi vọng ra:
- Cái gì? Cái gì mà lơ nước mắm?
Tôi giựt mình, dạ. Má tôi lại hỏi:
- Đang học tiếng Tây tiếng U rồi sao lại lơ nước mắm? Bộ buồn ngủ hả?
- Dạ, trong bài có lơ nước mắm.
- Vậy thì cứ lơ cha, lơ má, lơ nhà, lơ cửa, cần gì phải đi học?
Tôi phải nói cho má nghe, theo lời thầy dạy thì Tây không có nước mắm, nó không có chữ, nên phải mượn tiếng nước mình.
- Tây nó không có nước mắm? Sao nó ngu vậy? Nó ăn lạt à?
- Dạ! - Tôi cứ dạ bừa cho qua.
- Ăn lạt, ăn lẽo, hèn chi cái da của nó cứ trắng toát, nó ác với dân mình.
Hóa ra là hằng đêm, má tôi cũng thức lo cho tôi học. Tôi thi đậu. Khi tôi lên học trường quận thì bịnh của má càng nhiều. Má tôi bị lao, ho hắng suốt đêm. Mỗi chủ nhật về thăm, má tôi mỗi khác, gầy sút đi. Bà tôi cũng bịnh, bịnh già. Thật lao đao. Trong bà con có người nói, nhà tôi suy là vì dưới nền nhà, hồi trước, có mấy cái mả. Mình giành chỗ của họ, nên họ phá, phải rước thầy về cúng. Nhưng cha tôi không tin. Có hôm, cha tôi phải mượn tiền để đi chợ.
- Suy sụp đến nước nầy là cùng! - Cha tôi than. Cha tôi trỏ nên ít cười, ít nói, bỏ hết thú vui trong đời.
Khi bà tôi mất vì bịnh già thì cũng trong bà con có người nói, rồi má tôi sẽ đỡ, vì trong nhà, một năm không thể có hai cái tang. Không có gì làm tin, nhưng cũng là lời an ủi. Bịnh tình má tôi không thấy đỡ chút nào, càng ngày lại càng nặng.
Cũng một ngày chủ nhật, từ trường quận trở về, tôi thấy má tôi khác hẳn đi. Má tôi cạo đầu. Má tôi vái, nếu trời phật phù hộ, má tôi sẽ lên chùa.
- Hồi còn con gái má đã lên chùa, cũng xuống tóc như vầy, nhưng vì cha con nên má trở về. Cái số của má là phải lên chùa thôi! Chiều chiều má sẽ về thăm mấy con, rồi mấy con lên chùa thăm má. Chùa có hàng sao, có cây đa, mát lắm!
Vái rồi, cúng rồi mà bịnh tình của má tôi cũng không thuyên giảm. Cũng trong bà con, có người khuyên, hãy lên làng Hòa Hảo để gặp Đức Thầy. Đức Thầy là người giáng thế cứu chúng sinh.
Chú thích:
(1) Bàn thờ
(2) Tên gọi theo âm Việt để chỉ Phnôm Pênh trước đây
(3) Nhẫn đeo tay.