- 3 -
Chiếc xe ngựa đưa tôi từ chợ quận trở về. Cũng con ngựa Cu của anh Hoàng. Anh là con của chú Tư Khởi, người cùng xóm, nhà ở đầu cầu sắt. Nhà anh có hai con ngựa, con Ô với con Cu. Con Ô cao lớn, chạy buổi sáng, chở được nhiều khách. Và khi cần vượt qua xe khác để đón khách, anh chỉ ra roi đánh gió một cái tróc là nó chồm lên, cất cao bốn vó, sải dài, và khi tiếng kèn anh bóp tò te tò te, thì nó qua mặt chiếc trước rồi. Còn con Cu, nhỏ hơn, vừa thấp lại vừa ngắn, lông vàng như lửa. Nó chạy buổi chiều, ít khách, nó sải thua con Ô, nhưng chạy nước kiệu rất bền. Cái tiếng vó của nó gõ xuống mặt đường lóc cóc, đều đều thiệt dễ thương. Tôi thích nó hơn con Ô, vì tôi có thể trèo lên lưng nó mà nó không đá. Mỗi lần tôi về thăm nhà, tôi thường đi xe của anh. Anh cho tôi đi nhờ, không lấy tiền; thỉnh thoảng, đến những đoạn đường vắng, anh trao cả dây cương cho tôi... Cầm được dây cương, giựt giựt cho nó chồm lên, thú lắm. Cũng có lúc, anh nhờ tôi dẫn con Cu quần chân, cho ăn cỏ trước khi bịt mắt(1), thắng vào càng xe. Anh Hoàng lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi, người xấu xí nhưng tốt bụng. Chú Tư Khởi mập mạp, mặt hồng hào, ngực loắn xoắn đầy lông. Chắc là anh giống má anh. Người anh cao, gầy đét, rỗ ba mè, mắt lé lại đi hai hàng. Anh thường hay mặc áo xá xẩu, đầu đội cái nón không vành, thủng một lỗ ngang đầu, để ló ra một chòm tóc...
- Đ... mẹ! Mấy bữa nay, chiều nào cũng ế. Xách xe không chạy hoài!
Rồi không thể giận ai, anh giơ roi, đứng lên, nẹt một cái trót, khiến con Cu giựt mình, chồm sải tới. Anh quay roi, hê hê hê... độp, độp... vó ngựa sải đều.
- Đ... mẹ. Buồn quá! - Anh ngồi phịch xuống, ném hai sợi dây cương qua tay tôi. - Ê, Nhỏ! Bộ trốn học sao mà bữa nay về?
- Không. Nhật nó mượn trường rồi.
- Mượn cái con c..., nó lấy chớ mượn cái gì. Mượn! Nó mượn luôn cái nước của mình cho mầy coi. Thôi học tiếng Nhật đi... - Rôi anh nói luôn một loạt tiếng Nhật: - Dô tô, dô tô nay, dô tô ca, dô tô c...
Rồi anh cất tiếng hát, hát bài hát của Nhật. Trước khi quân Nhật đến thì bài hát của nó đã đến rồi, rất thịnh hành, trai gái hát nghêu ngao.
Anh hát toàn tiếng tục:
- Đi đù đi, đù đi, đu đu...
Anh buồn hay vui, không hiểu nổi. Còn tôi thì buồn quá! Tôi đâu có ngờ, chuyến xe đưa tôi về chiều hôm ấy đã đưa tôi ra khỏi cuộc đời học trò, đến một cuộc đời khác, quá sớm đối với cái tuổi mười hai, mười ba. Không còn nghĩ gì đến sách vở nữa, phải lo đến cảnh nhà, phải nghĩ đến miếng ăn, phải nghĩ đến chuyện theo ai, đạo nào.
Con đường từ chợ quận về làng tôi dài mười hai cây số. Con đường đá trắng chạy qua làng Long Điền. Cũng như làng tôi, nhà sàn hai bên đường, cũng dưới bóng cây, vườn xoài, vườn mận. Hai bên đường, hai hàng gòn, so đũa, hai hàng me nước hoặc trâm bầu. Có đoạn, xe như chạy vào giữa một khu vườn rợp bóng cây, bỗng hiện trước mắt mình con sông mênh mông trắng xóa sóng bạc đầu. Mỗi tuần, tôi đi về hai lần, chiều thứ bảy, trưa chủ nhật, suốt trong ba năm. Con đường quen thuộc biết bao! Con đường không ngớt tiếng vó ngựa xe. Con đường cho tôi qua những trại cưa, qua xóm mộc với bàn tủ dựng hai bên đường, với màu gỗ mới, với mùi thơm của nước sơn. Qua xóm dệt với những nong kén vòng trước sân nhà, qua khung cửa sổ của những cô thợ dệt, qua những lò nhuộm với những anh chàng lực lưỡng, hai tay hai cái chày thi nhau nện đều.
Chuyến xe chiều hôm ấy cũng qua những trại cưa, nhưng không nghe tiếng rột rạt của tiếng cưa, cũng không thấy những bụi hồng rơi từ lưỡi cưa xuống nữa. Cũng xóm mộc, nhưng không còn nghe tiếng đục đẽo, cũng không thấy từng cuộn dăm bào trào ra trên bàn bào trong những ngôi nhà quen thuộc nữa. Và xóm dệt đã thành một xóm vắng. Con đường bỗng trở nên dài, heo hút. Tiếng vó của con ngựa Cu vẫn lọc cọc gõ đều trên mặt đường đá.
- Ê, Nhỏ! Mầy định theo ai? Tây, Nhật, Cao Đài, Hòa Hảo hay Cộng sản?
Anh hỏi mà không cần nghe tôi trả lời. Hay là anh tự hỏi mình và vừa hỏi anh vừa ra roi đánh gió, thúc con Cu sải tới. Hình như anh đang trút sự bực bội lên mình con Cu trong buổi chiều vắng khách này.
Con Cu đang sải, anh bỗng gò dây cương lại giựt cái đầu nó quẹo về phía bên trái.
- Tới cột dây thép rồi, nghỉ chút.
Cột dây thép là cây cột cao nhất bằng sắt, nằm bên mé sông. Cái bệ của nó hình vuông, càng lên cao càng nhỏ, và cái đỉnh của nó vượt lên cao hơn tất cả cây cối trong làng, cao hơn những hàng sao ở đình nữa. Bên này một cột, bên kia sông, cù lao Giêng cũng một cột như vậy. Hai cây cột nối với nhau bằng những sợi dây căng ngang qua mặt sông. Vào mùa nước lớn, tàu Nam Vang - Sài Gòn, dù cao đến mấy, kể cả những tàu lớn của Tây chạy tới nhà thờ vào ngày lễ Nôen, cũng không vướng được dây. Có những con chim đậu theo dây thấy nhỏ xíu. Ở ngay cái bên của cột dây thép này, những khu vườn nối liền nhau, dài theo hai bên đường như dừng lại ở đây, mở ra, để người đi đường được nhìn thấy cảnh mênh mông của con sông, để được nhìn thấy bên kia cù lao và cái tháp chuông của nhà thờ lớn.
Nếu không có cái cù lao nổi lên giữa dòng thì con sông chảy qua làng tôi ở khúc này bùng ra bao la biết bao, chắc không nhìn thấy được rặng cây bên kia bờ.
Cái cù lao nổi lên giữa dòng giống nhu trái xoài, vườn tược xanh um, có đến bốn, năm làng.
Anh Hoàng để xe đậu lại dưới thân cây cột dây thép.
- Xuống mé ngồi chơi. Nhỏ! - Lúc nào anh cũng gọi tôi là Nhỏ, không bao giờ gọi tên, hết sức thân yêu.
Tôi theo anh, ngồi bên mé nước, cả hai anh em đều đi chân đất. Anh lột cái nón nỉ không vành, kê đít, còn tôi thì ngồi bẹp xuống đất. Gió chiều trên sông mang theo hơi nước, thổi mát đến chân tóc. Anh duỗi chân cho sóng liếm lên bàn chân.
- E, Nhỏ! Mầy biết cái cột dây thép này không? Hồi đó, chắc là mầy chưa đẻ, còn tao thì mới bảy, tám tuổi nhưng tao còn nhỏ. Hồi Cộng sản dậy, năm ba mươi, Cộng sản treo lá cờ đỏ búa liềm trên dây thép, ở giữa sông kia kìa. Lá cờ bự bằng hai ba tấm đệm -Giọng anh trở nên sôi nổi: - Trời ơi, lá cờ nó bay, coi thật là đã con mắt. Thằng cò Tây ở chợ mình sợ quá, nó đánh dây thép lên quận, thằng quận đánh điện lên chủ tỉnh. Tàu Tây từ tỉnh chạy qua, chạy tới đuôi cồn, thấy cái cờ đỏ búa liềm bay ở trên giữa sông, hồn xiêu phách lạc, nó bắn đùng đùng, rồi quay mũi tàu, chạy tuốt về tỉnh. Mấy bữa sau nó mới cho lính tới, bắt tụi lính trèo lên cột, chặt đứt hết trơn mấy sợi dây thép, mới hạ được cờ. Mầy biết ai treo lá cờ đó không, mầy Nhỏ?
- Hồi đó tôi chưa đẻ, tôi làm sao biết.
- Ừ, phải. - Anh vừa nói vừa nhướn hai con mắt, vẻ tự hào.
Chuyện treo cờ đỏ búa liềm ở cột dây thép, tôi cũng đã nghe cha tôi nói rồi. Ba mươi năm sau, tôi trở về, cha tôi cho biết, người treo lá cờ Cách mạng đầu tiên ở làng là ông Chín Đỏ. Cha tôi nói thêm: “Cha mẹ ông, lúc mói sanh ông ra, sao không chọn cho ông một cái tên khác, mà chọn cho ông cái tên Đỏ, để sau này, khi lớn lên, lãnh một sứ mạng quang vinh của làng, đã leo lên cột dây thép giữa một đêm khuya để treo lá cờ đỏ, làm sáng cả lòng người. Tên của con người có mang theo ý nghĩa gì về cuộc đời của mình”.
Anh Hoàng tiếp:
- Còn chuyện này thì chắc mầy còn nhớ.
- Chuyện gì?
- Cũng cái chuyện treo cờ ở cột dây thép nầy. Nhỏ, mày nhớ không? Cũng treo cờ, nhưng lần này, thì cờ khác, cờ cũng màu đỏ, nhưng ở giữa là ngôi sao vàng.
Anh kể và tôi nhớ. Năm ấy, tôi lên tám, còn đi học ở trường làng, cả lớp tôi đều chạy ra mé sông, nhìn lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới giữa lưng trời, trên dòng sông. Những ngày sau đó, lính từ trên tỉnh đổ xuống, bọn lính áo vàng súng có lưỡi lê, đi với thằng cò Tây, thằng hương quản, lùng sục khắp xóm. Xóm Cột dây thép bị lính đổ dầu đốt. Ngọn lửa của những ngôi nhà cháy cuốn theo cả bàn, ghế, giường, tủ, cả gỗ, cả mạt cưa, cả dăm bào của xóm mộc. Ngọn lửa thè cái lưỡi lên khỏi ngọn cây. Lửa vừa cháy, vừa nổ, khói lên cuồn cuộn, gió thổi tràn lên đến tận chợ, mịt mờ, khét lẹt.
Người làng bị bắt đông đến nỗi không có đủ còng để còng tay từng người nữa. Người bị bắt bị trói thúc ké bằng dây luộc, kéo thành xâu. Từng xâu người, giữa hai hàng súng cắm lưỡi lê, bị thúc, bị đẩy, lê đi trong khói nhà cháy.
- Con chạy ra xem coi có ông Tư của con không?
Ông Tư là em ruột của bà nội tôi. Nhà ông Tư tôi ở xóm Đình. Bà cố tôi ở với ông. Bà cố tôi là người già nhất trong làng. Người bà nhỏ, lưng còng, tóc trắng như bông. Suốt ngày bà chỉ lần chuỗi hột, môi mấp máy (chắc là đếm), không nói với ai một lời. Ai đến nhà, dù bà không nói, khách vẫn thấy bà chào hỏi qua vẻ mặt hiền từ của bà. Năm nào cũng vậy, hễ đến ngày nghỉ hè là tôi tót xuống nhà ông Tư tôi. Nhà ông có vườn, có xoài, có mận, có xabôchê(2), có cả nhãn nữa.
Buổi trưa hè, tôi thích nằm trên cái bộ ngựa gõ của ông. Nhà sàn, nhưng bộ ngựa thì để dưới đất, dưới mái hiên gần gốc cây vú sữa. Cái hàng rào sân nhà là hàng cây bông bụt(3). Qua khỏi sân, đến con đường đá, qua mặt đường thì đến con đường đất nhỏ giữa hai hàng trâm bầu, đến bến sông... Bến sông, nước ròng là một bãi cát dài. Tôi cùng với lũ nhỏ xóm vườn lấy lá chuối bó thành trái banh, lấy bãi cát làm sân, cứ trần truồng, chơi cho đến lúc nước ngập khỏi đầu. Còn lại theo mấy chị đi mò ốc gạo nữa. Nói là mò, nhưng đâu có phải mò từng con, mà lấy cái rổ lặn xuống, xúc lên một rổ cát, rồi cứ bưng cái rô cát trước ngực, đãi cho cát trôi đi, rồi lượm lấy ốc. Có con to bằng ngón chân cái. Chiều, tôi lại bưng một rổ ốc gạo về cho bà, cho má, cho chị, cho em. Ốc gạo đem đi luộc, ăn với nước mắm gừng. Nghe lời dạy của mấy chị ở vườn, tôi bẻ cả gai quýt, gai chanh đem về để làm kim mà lể ốc.
- Ăn ốc bằng gai quýt gai chanh, ăn nó thơm, chớ không phải như dân ở chợ, ăn bằng cây kim đâu.
Ông tôi thương tôi lắm. Ông ít khi gọi tôi bằng tên.
- Con thằng Hai về, bây đâu?
- Dạ.
- Leo lên lựa cho nó một trái dừa.
Mấy người dượng, chồng của cô tôi, thoắt cái đã leo tới ngọn dừa. Nếu “bây đâu” mà không nghe ai dạ, thì chính ông, ông đi trèo dừa. Dừa nhà ông cây nào cũng cao, nhìn trật ót. Ông là người khỏe mạnh, cái ngực của ông tôi đầy đến nỗi người ta bảo là cái ngực đi trước. Ông để ria mà không để râu. Tôi ít khi thấy ông tôi mặc áo, suốt ngày chỉ mặc một cái quần cụt, quần vận, cụt nhưng dài đến gối, vận thành một cục tròn như củ hành dưới rốn.
- Trong họ hàng nhà mình chỉ có con thằng Hai là đứa có chí học hành. - Ông thường nói với cô dượng tôi như vậy. - Có gì cho nó ăn!
Còn bà Tư tôi, lần đầu tôi từ trường quận trở về, bà hỏi:
- Con đi học vậy, nhà nước trả lương cho con mỗi tháng bao nhiêu tiền?
- Dạ, hai đồng bảy cắc rưỡi.
- Đủ không?
- Đủ đóng tiền cơm với ăn xôi sáng.
- Vậy!
Tưởng bà hỏi để cho biết, không dè, hễ mỗi lần có khách là bà gọi tôi, hỏi cốt để cho khách nghe. Nhiều lần như vậy, sau nầy hễ thấy khách tới chơi là tôi chạy trốn. Bà gọi mấy tôi cũng làm thinh.
- Toàn cái tỉnh nầy chỉ có năm đứa đi học được nhà nước trả lương. Quận nầy chỉ có mình nó...
Nghe bà nội bảo, tôi xuống cầu thang, chạy qua cây cầu khỉ, đứng bên vệ đường.
Xâu người bị bắt từ xóm Đình, bị lính giải qua cửa nhà tôi. Tôi nhìn từng mặt người, tôi không biết tên, nhưng đều thấy là người quen ở xóm vườn, là những người ở ruộng, mặt sưng tứa máu, ngực bị bầm tím. Họ nhìn tôi, thằng nhỏ ở bên đường, những đôi mắt muốn nói thay lời, cứ nhoi nhói trong trí nhớ tôi.
- Bà ơi, không có ông Tư.
- Con coi, còn có tốp nào nữa không con?
Vừa lúc đó thì cô Hai Thảo, con đầu của ông Tư tôi, từ nhà lên tới. Cô nói với nội, với cha tôi: ông tôi thoát khỏi rồi, đang ẩn trong đám đế ngoài đồng. Cô kể, bọn lính tới vây nhà, nhà không còn ai, chỉ còn bà cố tôi đang cầu Phật. Nó hỏi gì, bà tôi cũng cứ bấm từng hột chuỗi, không nói một lời. Nó ra lệnh đốt nhà thì hương quản trong làng nói với cò Tây, nhắc đến tên ông nội tôi. Nói là nhà của ông Cai ngày trước. Vậy là nó rút đi.
Báo tin mừng ấy xong, cô tôi bước vào nhà trong đốt ba nén nhang, vái trước bàn thờ ông nội tôi:
- Dượng Hai ơi! Dượng mất rồi nhưng uy danh của dượng vẫn còn lo cho dòng họ. Hồn có thiêng, xin dượng hãy về bao bọc cho dòng họ trong cơn nguy biến này. Nam mô a di đà Phật.
Sau những ngày ẩn náu trong lùm, trong đế, ông không chỉ để ria trên mép, mà để thêm râu cằm nữa, vài sợi lơ thơ. Một điều lạ hơn nữa, ông không ở trần nữa, lúc nào cũng mặc áo, gài đến nút cổ.
- Sao ông không ở trần nữa ông?
- Từ bữa đó, anh em bạn bè bị bắt hết, ngày ngày ông thấy lạnh lưng con à!
Tôi nghe người ta gọi ông là ông Tư Ghe, cái tên sao mà xấu vậy. Tôi hỏi cha, cha tôi cười:
- Bà cố đâu có đặt cho ông con cái tên như vậy. Đó là biệt danh của ông.
Cha tôi kể, hồi tôi chưa đẻ, ở làng Long Điền giáp ranh với làng tôi có một thầy giáo từ xa đổi về: thầy Châu Văn Liêm, nhà hoạt động Cách mạng. Là thầy giáo trường Tây, nhưng thầy về đây để lập đảng, đánh đuổi Tây, giành lại đất nước. Khác hơn những ông thầy giáo khác, thầy Liêm sống giản dị lắm, quần áo của thầy toàn may bằng vải nội, sợi tuy có thô nhưng lúc nào cũng thẳng thớm, đàng hoàng. Thầy thường hay đến chơi xóm mộc, xóm dệt với xóm vườn. Thầy lập ra nhiều hội ái hữu, khuyên bà con hàng xóm phải biết thương nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Lúc đầu, thầy lập ra hội “Cạo gió”. Nếu nhà ai có người bị trúng gió, bị cảm, dù nửa đêm, nửa hôm người trong hội cũng phải tới, cạo gió, thuốc men cho người bịnh. Rồi sau thầy lập hội thợ mộc, hội thợ dệt, hội nông dân. Ở chợ thì lập nghiệp đoàn. Ông Tư tôi trong hội nông dân. Cha tôi trong nghiệp đoàn thợ bạc. Chú tôi trong nghiệp đoàn thợ mộc.
Hồi đó, có cái hội sôi nổi nhất là hội đá banh. Hội đá banh ở làng tôi do thằng cò Tây làm chủ hội. Khắp nơi, làng nào cũng có hội banh, sân banh. Cái sân banh sau hè nhà tôi, tuần nào cũng có một trận, chiều chủ nhật. Cái đội banh với khẩu hiệu “Vì màu áo” mà đá sống đá chết. Những người ủng hộ đội nhà, không đi xe hơi thì đi xe ngựa, không xe ngựa thì đi xuồng, thật tấp nập. Các đội banh như kéo theo sau lưng mình cả một làng, từ người già cho đến lũ con nít. Đội nào cũng mang theo cả lân, cả trống, có đội mang theo cả một đội kèn tây. Trống đánh, lân múa, kèn thổi khi đội nhà thắng trận. Tưởng là vui lắm, hóa ra là nỗi đau của dân làng. Trong sân, cầu thủ đá banh, ngoài sân thì người xem đá nhau bằng chân, đánh nhau bằng tay. Trận nào cũng có những chiếc xe bị con nít đâm lủng cả vỏ ruột, xẹp lép. Trận nào cũng có những kẻ sứt đầu, mẻ trán, cầu thủ thì bị gãy chân, ngã quỵ trên sân. Vì đội banh mà làng này ghét làng khác, chỉ mới nghe tên làng của đội banh khác đã hậm hực, lừ nhau. Giữa lúc đó thì thầy Châu Văn Liêm với bộ đồ vải thô xuất hiện trước cửa nhà tôi.
- Thực dân Pháp, nó dùng thể thao để chia rẽ dân mình đó, anh Hai!
Như một lũ trẻ trong một nhà, đang đánh nhau túi bụi, không biết gì phải quấy thì bỗng có tiếng đằng hắng của người cha, tất cả đều xuôi tay, mặt mày lấm lét, lảng ra, rồi tỉnh dần. (Cha tôi nói như vậy). Làng tôi với làng Long Điên, hai làng liền nhau, nếu không phân ranh thì chẳng biết đâu là ranh làng, vì hai cái đội banh mà hai làng thù ghét nhau. Sau đó, nhờ thầy Liêm, hai đội lấy cớ với nhà cầm quyền, vì thiếu cầu thủ, nên hai đội nhập lại làm một, cùng một màu áo, lấy tên chung là đội Mỹ Long. Thế là hai làng lại hòa lẫn vào nhau, như một dòng nước của con sông chảy qua làng, cùng một con nước ròng, con nước lớn.
Ngoài ra, thầy Châu Văn Liêm còn mở lớp ban đêm dạy cho người mù chữ. Ông Tư tôi hồi nhỏ, nhà nghèo không được học, phải đi chăn trâu. “Ngồi trên lưng trâu êm đít hơn ngồi cái ghế cây ở trường” - ông nói với bạn cùng tuổi được đi học như vậy, để tự an ủi. Chữ A ông cũng không thèm biết tới. Năm ấy, nghe lời thầy Liêm, tối nào ông cũng đi học. Sách vở ông để trong cái mo cau, như đựng tiền, đựng bạc vậy. “Mình lớn, mình ôm cặp, con nít nó cười”.
Một hôm thây Liêm đọc chánh tả:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo...
Đến lúc chấm bài, thầy Liêm hỏi ông:
- Tôi đọc “Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo” mà sao anh Tư lại viết “Một chiếc ghe câu bé tẻo teo”?
Như học trò ông Tư tôi cũng đứng lên:
- Thưa thầy, nghe nói thuyền với ghe là một thứ. Nhưng “thuyền” khó viết quá, cái gì mà u... iê... nghe nó líu lưỡi, tôi nghĩ ghe nó cũng là thuyền, thôi thì viết ghe phứt cho rồi!
Cả lớp cười rộ lên. Từ đó, ông được gọi là Tư Ghe. Học hành như vậy, nhưng ông là người hăng hái. Những lần biểu tình chống thuế thân, ông đi tách qua một bên, để dòm ngó, giữ gìn trật tự. Có một lần, cò Tây ra lịnh cho lính bắn chỉ thiên, đoàn biểu tình khựng lại, rã ra, có người quay đầu, thối lui, thì ông vượt lên đưa tay vào ngực:
- Cái ngực đồng của tao đây nè, bắn đi!
Rồi ông kéo cả đoàn vượt qua họng sung của bót cò, kéo lên đến chợ quận, vẫn cái quần đùi, lưng vận củ hành, với cái lông ngực trần, không áo.
Bây giờ, ông không chỉ để thêm râu, mặc áo, mà còn để tóc nữa. Ông theo đạo Hòa Hảo rồi, đã mấy năm nay...
Bàn tay của anh Hoàng vỗ mạnh lên vai tôi:
- Có gì mà buồn vậy, Nhỏ? Thôi, lên xe, về.
Anh giao dây cương cho tôi. Con Cu lại buông vó, lọc cọc, gõ đều trên mặt đường.
- Nè, Nhỏ, theo ai thì theo, nhớ đừng theo Tây, theo Nhật, nghe mậy.
- Vậy thì theo ai, anh?
- Tùy mầy tao không biết, cái nào theo được thì theo. Hay... a...
Anh hét con Cu, giật dây cương trong tay tôi, tróc lưỡi cho con ngựa sải nhanh. Gần đến chợ làng, sắp qua cây cầu sắt đông người qua lại, anh trở đầu roi, đút cái đầu cán rơi xuống căm xe, cho nó kêu lách cách.
Thường thì anh cho tôi xuống ở bến xe cùng với khách, hoặc trước cửa nhà anh. Lần này anh cho xe chạy đến tận cửa nhà tôi. Chắc là anh thấy cái rương đựng quần áo của tôi, cái rương bằng cây, quá nặng.
- Chú Hai ơi, Nhỏ về.
Chị tôi từ trên sàn bay xuống, chạy qua cây cầu khỉ. Con nước chiều đã lên đây, mấp mé dưới cây cầu. Chị tiếp tôi, mỗi người một đầu, nắm lấy cái quai rương. Lúc chị đi lui, đầu cúi xuống, chị khóc. Nước mắt của chị, từng giọt rớt xuống nước. Có con cá quẫy lên, lộn xuống với cái đuôi vàng.
Nước mắt của chị tao, chớ phải là mồi đâu mà quẫy lên hở cá?
Chú thích:
(1) Che lá đề để ngựa chỉ nhìn thẳng phía trước
(2) hồng xiêm
(3) Nam Bộ gọi là: bông bụp