← Quay lại trang sách

- 12 -

Như mùa hoa đến ngày nở rộ, cờ đỏ sao vàng mọc dần lên trước cửa mỗi ngôi nhà, từ những ngọn cây xanh lá cũng mọc lên cờ đỏ sao vàng. Rồi mỗi người trên tay một lá cờ, lần lượt đổ ra sân chợ. Và trên dòng sông mênh mông ngấp nghé hai bên bờ, trước mũi xuồng một lá cờ bay trên mặt sóng, từ xuôi, từ ngược, từ bên kia sông, những chiếc xuồng, với lá cờ mỗi lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ. Xuồng cập theo bến, xuồng cặp nối nhau, san sát, kết thành một chiếc bè mọc đầy cờ, bập bềnh trên mặt sóng.

Trước đây, trên sông có những cái bè chuối tống quái mùa dịch tả, trên bè nào gà, nào heo và hoa quả với khói hương ảm đạm vật vờ theo con nước. Bây giờ, người cũng thả bè, nhưng là bè với ngọn cờ đỏ sao vàng bập bềnh trên mặt sóng, trôi theo sông.

Chiều hôm ấy, người từ các nơi đổ về đứng chật cả sân chợ, và không chỉ có những người mặc quần áo màu dà với râu tóc, mà như có tất cả, không thiếu một ai. Lạ, người đông đặc mà chẳng ai chen lấn ai.

Đó là buổi mít tinh đầu tiên của toàn dân trong làng, mừng ngày Cách mạng tháng Tám thành công.

Tiếng nói từ trên khán đài vang lên:

- Cách mạng tháng Tám thành công!

- Chấm dứt một trăm năm nô lệ!

- Việt Nam Độc lập, Tự do, Hạnh phúc muôn năm!

Mọi người như dậy lên. Và ai cũng muốn cất tiếng hát, nhưng không biết bài hát gì. Bây giờ, không có một bài hát nào đủ cho con người được hả hê để mừng ngày chấm dứt đời nô lệ. Không có bài hát nào đủ sức hả hê bằng tiếng gào, tiếng hét. Nên mạnh ai nấy gào, nấy hét, vừa gào vừa hét, vừa thẳng tay vẫy cờ. Ấy cũng là tiếng hát nhưng chẳng ai bị chối tai, và người nào cũng cất tiếng hòa theo. Một bài hát không được soạn trước, một bài hát không lời, và âm thanh thì phát ra từ sức mạnh trong lồng ngực của mỗi người. Một bài hát không thể hát lại lần thứ hai. Trong đời chỉ được hát một lần mà vang mãi với đời người.

Tôi ngồi với anh Hoàng bên con ngựa Ô đang nhai cỏ, sau buổi mít tinh khi mọi người đã ra về. Quần đùi với cái áo thun lá, anh nằm trên bãi cỏ, dang chân và dang cả hai tay như muốn hít lấy cả không khí của trời chiều.

- Ê Nhỏ! Ngồi xích lại đây, tao kể cho nghe.

Rồi anh bật dậy. Từ ngày thôi học, tôi ít gặp anh, dù cùng trong một xóm, cách nhau không đến mấy nhà. Bây giờ, gặp lại anh, đôi mắt anh như tỏa sáng cho gương mặt sạm nắng của anh. Vì phải “a lô” và la hét, giọng anh khàn đi nhưng vẫn sôi nổi:

- Ê Nhỏ! Mầy biết không? Chắc là mầy không biết đâu. Sáng hôm qua, Hòa Hảo kéo đi biểu tình là để thị uy, định cướp chính quyền nhưng họ thấy mấy thằng Nhật còn mang “mi trây đết” (1) láng nháng trong bót, họ không dám. Họ tưởng kéo biểu tình thì tụi Nhật mời họ vô, xin nộp súng đầu hàng. Còn “đằng mình” thì âm thầm - Anh đưa hai bàn tay ra như lúc bọn nhỏ rình chụp một con dế - Binh hùng tướng mạnh đâu đó sẵn sàng, từ trong vườn trên xóm Cột dây thép, vừa đi vừa bò vừa ngậm tăm, mầy hiểu chưa, áp sát vô bót. Khi mình nhào lên, ba bên bốn mặt, xông vô bót, như lịnh trên đã truyền, thằng nào đầu hàng, tước súng, bắt quỳ, thằng nào chống cự - tay anh phạt ngang - chém cho đầu rơi máu chảy. Khi anh em mình tràn vô, Nhỏ, mầy biết không? Cái bót trống không, như cái nhà hoang, không còn một thằng. Anh em chạy xuống bến, thấy có một chiếc xuồng bơi ở giữa sông. Cũng như thằng cò Tây, trước khi Nhật đảo chánh, nó bỏ bót, nửa đêm chạy ca nô qua nhà thờ cù lao Giêng. Bây giờ thằng Nhật nó cũng vậy, cũng băng qua nhà thờ. Nhật mà cũng biết bơi xuồng, tức thiệt.

- Tối hôm qua anh có đi không?

Anh đưa tay chỉ lá cờ trước cửa bót:

- Cờ tao treo chớ ai. Mầy biết ai chỉ huy không?

Tôi lắc đầu.

- Ba tao với chú Ba mầy - Anh tát vào vai tôi: - Thằng không biết gì hết!

- Hồi hôm, anh Ba tôi có đi với anh không?

- Đi cặp với tao chớ ai! Anh Ba mầy lanh lợi lắm. Con Hai bán cháo cá mà biết nó mê anh mầy dữ lắm, à nghe.

Lần đầu tiên tôi thấy hãnh diện mình là em của anh.

Vẫn có giọng khàn mà sôi nổi với vẻ bí mật khi anh cúi mặt để liếc ngược lên nhìn tôi:

- Tao đố mày sao tao đi đánh xe ngựa?

- Kiếm tiền.

- Ai mà không kiếm tiền, mầy Nhỏ, nhưng tại sao tao đi đánh xe ngựa?

Tôi cũng lại lắc đầu.

- Đố mày chơi vậy thôi, chớ mầy làm sao biết được. Tao nói cho mầy nghe. Chiếc xe của nhà tao là xe của mấy ổng. Tao đánh xe lên xuống là để đi thơ cho mấy ổng. Nhà tao, má tao bán bánh bèo, ba tao đi bắn chim, tiền đâu mà mua xe với ngựa. Ba tao đi bắn chim cũng là đi vô với mấy ổng, chớ có bắn gì bao nhiêu. Đi năm bảy ngày mới được một con. Nè mầy nhớ, độc lập rồi nhưng mà chưa yên đâu, Nhỏ!

- Sao chưa yên?

Anh đưa tay chỉ thẳng qua bên kia sông, hướng nhà thờ:

- Vợ chồng thằng cò Tây với mấy thằng lính Nhật còn ở bên đó. Tao nghe nói mình sẽ đem quân qua bắt nó phải nộp súng đầu hàng, không mình sẽ đánh. Mình bây giờ mầy biết kêu bằng gì không?

Tôi cũng lại làm thinh.

- Việt Minh. Việt Nam độc lập đồng minh hội, dài quá, nhiều người không nhớ, nên gọi tắt là Việt Minh. - Anh đưa quả đấm đấm vào không khí ngay trước trán tôi, vừa như để khẳng định vừa như muốn đóng lên trán tôi hai tiếng Việt Minh.

Buổi nói chuyện giữa anh với tôi chiều hôm đó, tôi như được vỡ lòng về chánh trị.

- Bây giờ mầy làm gì?

- Người ta chê tôi nhỏ.

- Thì mầy nhỏ chớ mầy lớn hồi nào. Nhưng nhỏ làm theo nhỏ. Mầy phải kêu phải rủ mấy đứa con nít lại, họp thành hội thành đoàn, tập ca, tập hát, rồi chờ mấy ông sai cái gì thì làm cái nấy. Không được kêu là con nít nữa, mà phải kêu là thiếu nhi. Tao với anh Ba mầy là thanh niên cứu quốc, còn tụi bây là thiếu nhi cứu quốc.

Sau đó, tôi dẫn con ngựa Ô lại cho anh, chạy tung về nhà. Tôi hỏi chị lúc chị đang lui cui dưới bếp:

- Chị biết chị là gì không chị Tư?

- Là gì?

Tôi hét lên từng tiếng:

- Là, phụ, nữ, cứu quốc!

- Ai nói với em?

- Anh Hoàng con chú Tư Khởi.

- Thiệt hôn?

Chị hỏi ảnh coi.

- Em coi nồi cơm cho chị.

Chị bước ra cửa sau, biến mất. Vậy là tôi với chị tôi, trong cuộc đời này, đã có chỗ rồi, không phải bơ vơ nữa.

Cũng chiều hôm ấy, cái thảo bạt nhà tôi kẻ lên người xuống cứ nườm nượp. Trong những người quen cũ, có thêm một người ít khi đến. Đó là chú Tư Chía làm trại xuồng, cùng xóm với ông Tư tôi. Trong làng hầu như ai cũng biết chú không chỉ vì là chủ trại xuồng, mà vì chiếc xe đạp của chú. Bấy giờ trong làng tôi, người có xe đạp là người khá, người sang. Người có xe nhiều nhất là người ở chợ.

Ở xóm vườn, chú có một chiếc xe đã trội hơn người khác rồi, chiếc xe của chú lại là chiếc xe đẹp nhất, không có chiếc nào sánh bằng. Xe màu vàng, hai cái vành láng bóng, khi chú ngừng đạp, chiếc xe cứ ro ro thật êm tai. Đến đâu, sau khi dừng xe, chú rút cái giẻ nhét dưới đít yên, lau, phủi sạch sẽ rồi mới bước vào nhà, vào tiệm. Chú có một bộ răng hô như cái bàn nạo xấu xí, nhưng xe của chú lúc nào cũng đẹp. Ngay giữa tay cầm, chú gắn hai con bướm bằng thiếc với hai cánh vàng lấm tấm đỏ. Có khi chú cắm cả một cành hoa. Cái tiếng chuông của chiếc xe “kinh coong” nghe rất trong. Chú gọi chiếc xe của chú là con ngựa sắt.

- Coi thì coi, đừng đụng con ngựa sắt của tao nghe bây.

Chú dặn sắp nhỏ đứng vây quanh chiếc xe của chú.

- Ngựa chú biết hí không chú?

Chú đưa tay bóp cái chuông kinh coong.

- Nghe con ngựa tao hí chưa.

- Nó đá được không chú?

Chú đưa chân đá ngược ra sau.

- Nó đá đó.

Đám con nít cười rộ, chú thì hãnh diện với chiếc xe của mình.

Chiều nay, thay vì cắm một cành hoa ở giữa tay cầm, chú cắm lá cờ đỏ sao vàng. Chú chạy từ nhà lên chợ, rồi chiếc xe ro qua một vòng chợ, không phải để khoe chiếc xe mà để cho mọi người được thấy lá cờ trước đầu xe của chú đang bay. Rồi chú đánh vòng xe qua đường, dừng lại trước cửa nhà tôi. Chú vác chiếc xe lên vai, qua cây cầu khỉ. Đi cầu khỉ lại vác xe, không thể đi guốc, chú lột đôi guốc vông để vào cái giỏ bàng, treo ngay cái khuỷu tay. Chú đi giữa cầu thì cha tôi đứng trên thảo bạt nói ra:

- Sao không để xe ở ngoài, tôi cho thằng nhỏ nó coi.

- Đâu được, xe có cắm cờ mà anh Hai.

Dựng chiếc xe vào gốc xoài, lần này chú không rút giẻ lau, mà rút cái cán cờ, bước lên cầu thang.

Tay cầm cờ, tay cầm giỏ bàng, chú nhìn khắp qua cái thảo bạt nhà tôi.

- Anh em đông vui quá. - Chú nói với cha tôi - Mấy lần muốn ghé anh, nhưng cực cái là phải vác xe qua cầu.

- Anh hú tôi một tiếng, tôi cho thằng nhỏ nó ra coi.

- Làm vậy cực quá, nắng nôi.

Chú ngồi vào ghế, thọc cái cán cờ ra sau ót, lá cờ dựng lên phía sau trên đầu chú, như kép hát. Người nào cũng cười, vui lây. Chú lấy từ trong giỏ ra một chai rượu với một cái chung mắt trâu. Chú gọi cha tôi bằng anh, mặc dù trông chú có vẻ già hơn, có lẽ chú già vì gương mặt xương, da rám nắng với hàm răng hô. Cha tôi cũng gọi chú bằng anh. Đặt chai rượu lên bàn xong, nhìn cha tôi, chú nói:

- Hôm nay là ngày chấm dứt đời dân nô lệ. Nước nhà được Độc lập, tôi muốn mời anh em mỗi người một chung rượu. - Chú vừa nói vừa rót, rồi cầm chung rượu hướng về cha tôi:

- Trước nhứt, xin mời anh Hai, người vai vế trong làng.

Cha tôi nhìn chung rượu, lắc đầu và rùng mình:

- Tha tôi đi anh Tư.

Chú nhìn cha tôi rồi nhìn chung quanh:

- Hồi bác Hai còn sống, bác Hai uống rượu bằng tô, còn anh sao anh không uống, không giống lông thì cũng giống cánh chớ, anh Hai.

- Ông già tôi, ổng uống hết phần rượu của con cái rồi, cho nên hai anh em tôi, có đứa nào uống rượu được đâu.

- Ây! Biết vậy, nhưng hôm nay là ngày chấm dứt đời nô lệ, là ngày Độc lập. - Chú dụm mấy đầu ngón tay nâng chung rượu, vẻ trân trọng: - Trong đời chỉ có một lần, cạn đi rồi tôi anh em khác.

Cha tôi rùng mình và xua cả hai tay:

- Cho tôi xin lỗi đi anh Tư!

Chú nghiêng mặt nhìn lại cha tôi:

- Anh có công chớ có lỗi đâu mà xin. Công anh lớn lắm, anh biết không? Tôi nhớ cái hồi năm... hương quản cho lính lục xét nhà anh, lấy được một bó truyền đơn của cộng sản. Không ai nói nhưng tụi tôi biết, truyền đơn đó của anh Ba “cửa tủ” nhưng anh nhận là của anh rồi bán hết vàng hết bạc anh đút cho tụi nó, rồi anh vọt lên Nam Vang, bỏ vợ bỏ con mấy năm trời. Chính vì có công, nên tôi mới dâng rượu cho anh đó.

Nhờ câu chuyện của chú mà tôi hiểu thêm một phần cuộc đời của cha tôi.

- Nhắm mắt ực một cái đi anh Hai.

Chú Ba Giáo đốc vô. Rượu chưa uống mà mọi người đã phấn chấn lên rồi:

- Vô đi anh Hai.

Nhắm không thể chối từ, cha tôi đành cầm chung rượu, ngửa mặt, nhắm mắt, ực một cái, như ực một chung thuốc độc. Ực xong, cha tôi trao cái chung lại cho chú Tư Chía, bước ra cửa, vừa phun vừa nhổ, rồi trở vào, ngồi phịch xuống ghế, mặt đỏ phừng. Lúc ấy tôi mới chợt hiểu là cha tôi không biết gì đến rượu chè. Còn anh tôi, mới mười tám mười chín đã rượu chè be bét rồi.

Sau đó, chú Tư Chía dâng cho mỗi người mỗi chung cho đến cạn cả chai.

Rượu xong, chuyện nổi lên râm ran. Chú Tư Chía ngồi không yên, cái lá cờ phía sau trên đầu chú phật qua phật lại theo câu chuyện của chú.

Chú Ba Giáo cười nửa miệng:

- Nghĩ cho cùng, cũng vì cái dốt mà ra hết. Chữ nghĩa Việt Nam mình có mấy tiếng trài trại giống nhau như: hủy là hủy bỏ, quỷ là ma quỷ, là ngân quỹ, rồi ủy, tức là ủy ban này ủy ban nọ, là một tổ chức để làm việc. Còn chữ dương thì có chữ vương là vua, còn dương thì dương trần, dương thế, hoặc âm với dương, mà dương cũng là dê nữa. Bà con theo đạo Phật giáo Hòa Hảo ở làng mình, có người thì dốt, có người chỉ mới biết đọc biết viết, giỏi lắm thì cũng chỉ tới lớp ba trường làng. Có người không hề đọc được một câu kinh, câu sấm, nghe người khác đọc rồi thuộc lòng. Chữ nghĩa không hiểu, lại nói cũng không rành rẽ, hủy, quỷ, ủy cũng nói là quỷ, vương hay dương cũng nói là dương. Cũng vì vậy mà ai nói xuôi nói ngược gì cũng nghe cũng tin. Cũng có người theo đạo Hòa Hảo có chút chữ nghĩa đã giảng cho tôi như vầy: Cộng sản tức là bọn hủy vương, hủy vương đây có nghĩa là bỏ vua, tức là bọn dân chủ.

Chú Tư Chía bật đứng dậy, đưa tay chém tới:

- Nói vậy tôi nghe được. Mình là dân chủ là bỏ vua, chớ không phải là ma là quỷ. Thôi chú Ba nói tiếp đi, tôi nghe lọt lỗ tai rồi đó.

- Họ nói Cộng sản, tức là Việt Minh bây giờ, yêu nước nhưng theo chế độ dân chủ, còn họ, đạo Phật giáo Hòa Hảo, cũng yêu nước nhưng theo chế độ quân chủ, nước nhà độc lập nhưng phải có vua. Vua là Đức Huỳnh giáo chủ.

Chú Tư Chía lại nói chen vào ngay:

- Đúng vậy.

- Thằng cha Hòa Hảo đó nói vậy còn nghe được.

- Thằng đó có phải đạo điếc gì đâu, tôi quen biết nó lúc còn ở Sài Gòn, là thằng mật thám, chui vô đạo.

- Hèn chi. Cho đến bây giờ họ vẫn còn xầm xì với nhau là khi nào có ba tiếng nổ long trời thì núi Cấm sẽ nứt ra, thành cung điện của nhà vua, và Đức Huỳnh giáo chủ sẽ lên ngai, trị vì thiên hạ.

- Trước đây, họ nói ngày đổi đời thì có quỷ dương đánh với binh tướng nhà Phật, theo cái nghĩa bây giờ tức là mình vái họ sẽ đánh nhau, phải không mấy anh? - Chú Tư Chía hỏi.

Không ai trả lời được một câu hỏi của chú, người này nhìn người nọ, người nọ lại nhìn người kia.

- Biết đâu chừng... - Chú Ba nói lững lờ.

Tự nãy giờ, vì một chung rượu, cha tôi cứ ngồi im, rồi như choàng dậy sau một giấc ngủ, thở dài.

Đâu có ngờ, vì cách phát âm không đúng với chữ nghĩa cũng là mầm mống gây ra không biết bao nhiêu điều tai hại sau này.

Chú thích:

(1) Súng tiểu liên