← Quay lại trang sách

- 11 -

Chẳng biết chuyện gì mà cả làng như đổ hết ra mặt đường, tràn lên sân chợ. Cha tôi cấm không cho đứa nào được bước qua khỏi cây cầu khỉ. Còn anh tôi, lần đầu tiên anh tỏ ra là một người lớn, anh bảo:

- Nè, hễ nghe súng nổ thì nằm sát xuống đất.

Và anh không cho đứa nào được ở trên nhà, bắt phải xuống sàn hoặc ra sân. Chị tôi hỏi, anh hét:

- Con gái biết gì mà hỏi. Nấu cơm sớm cho tụi nó ăn.

Tôi cũng hỏi:

- Gì vậy anh Ba?

Anh cũng thét:

- Con nít hỉ mũi chưa sạch, biết gì!

Tôi không nói gì, còn chị tôi vừa ngoảnh mặt vừa lẩm bẩm:

- Chưa chi mà làm tàng.

Anh tôi lườm, giận lắm, nhưng không dám nói gì thêm. Vì chắc biết, nếu anh làm già, ra vẻ hoặc quát nạt thì chị tôi thế yếu sẽ chống lại bằng cách kể tội anh, nào không giúp việc nhà, nào bỏ đi hoang và đã ăn cắp của chị sợi dây chuyền vàng...

Chỉ mới đây thôi, không được mấy ngày, từ cái đêm anh theo chú để vào Thanh niên cứu quốc, anh đã khác đi nhiều. Điêu tôi thấy rõ nhất là anh trở lại cái vai trò của người anh lớn trong gia đình. Không như trước, sau những ngày đi hoang trở về, nhìn ai trong nhà anh cũng lấm lét, lúc nào cũng thấy mình có lỗi. Cùng ở một nhà nhưng luôn tránh mặt cha. Cha tôi ở trên nhà thì anh lủi xuống bếp, cha tôi xuống bếp thì anh ra sân. Từ hôm đó, anh không tránh mặt cha, và cha tôi không còn nhìn anh với con mắt nghiêm khắc nữa. Và bây giờ, anh dám bàn chuyện với cha tôi, khi cha tôi từ trên nhà bước xuống, đến chỗ túm tụm của anh em tôi:

- Họ định cướp tay trên mình hay sao vậy cha?

- Chú Ba mày đâu?

- Còn ở trển.

Tôi biết anh muốn nói chú tôi còn ở trên xóm Cột dây thép.

Cha tôi nhìn ra đường trong vẻ lo âu. Ngoài đường, bên bờ kinh trước cửa nhà tôi người từ xóm dưới cứ đổ dồn lên, quần áo màu dà với gươm, giáo, từng tốp, từng tốp nối theo nhau, rầm rập kéo nhau đi. Tốp thổi còi “tít te... e... tít”, tốp (chắc) không có còi thì đếm “một hai một”. Tôi thấy họ đi đều không ăn rập bằng học trò chúng tôi, không rầm rập mà rầm rộ...

Đoàn biểu tình của đạo Phật giáo Hòa Hảo cứ nối theo nhau dài dằng dặc, họ không đi thẳng trên con đường nhựa ngang qua bót cò, mà đánh vòng qua đường đá qua cửa xóm nhà tôi. Cái bót cò ấy không còn Tây nữa, lá cờ trắng với mặt trời đã thay lá cờ tam sắc. Vợ chồng cò Tây rút bỏ qua nhà thờ cù lao Giêng trước khi quân Nhật đến chiếm. Thay vào thằng cò Tây là ba thằng lính Nhật. Nghe đâu, thằng cò Tây cùng với ông cha bà phước đang xây thành đắp lũy ở bên ấy, ngay trong nhà thờ chúa.

Khi cha vào nhà trong, anh tôi bước ra sân, chị tôi khều nhẹ lên vai tôi:

- Em chạy vòng ra sau hè, ra chợ coi chuyện gì vậy. Chị ở nhà chị nấu cơm.

Tôi liền biến ra cửa sau, nghe chị nói theo:

- Mau mau về.

Tôi đi dọc theo hè, rồi qua cây cầu khỉ nhà hàng xóm, chạy băng ra chợ. Những người đi nhóm chợ đều giạt qua hai bên hè phố với thúng mủng và đủ thứ hàng: tôm, cá, rau cải, chè chén, nhường nguyên cả cái sân chợ cho đoàn biểu tình. Ai cũng giành đứng ra phía trước để xem. Tôi vừa nhỏ vừa thấp, lại là đứa đi sau, tôi lủi qua lủi lại mãi mà không sao lủi được ra phía trước. May sao gặp thằng Sườn đang ngồi trong tiệm hủ tiếu.

- Muốn coi hả? Đi theo tao.

Bước ra tiệm, nó không cần lủi như tôi. Nó hét, tôi cũng giật mình.

- Nước sô... o... i

Người ta giật mình né qua, thế là tôi theo sau lưng nó, len qua. Nhiều người chưởi theo nó, nó cười trừ.

- Chuyện gì vậy Sườn?

- Biểu tình.

- Biết rồi. Mà biểu tình để làm gì?

- Để đi một hai.

- Mầy!

Nó kề miệng sát vai tôi:

- Nói chơi với mầy vậy. Nghe nói là đổi đời. Họ tập...

Đoàn biểu tình từ xóm dưới lên đi vòng qua con đường trước xóm nhà tôi, đến phía bên này đầu cầu sắt thì họ đổ xuống sân chợ. Còn đoàn ở xóm trong dọc theo đường từ cù lao Ông Chưởng đi qua thì từ bên kia đầu cầu, họ qua cầu, rồi cùng đổ xuống sân chợ. Dù người đã đứng đầy sân chợ, tôi vẫn nhận ra ông Tư tôi, đầu tóc, râu ria với bộ ngực to lớn đang đứng đầu một tốp. Chú Nguyễn Đa Điền, màu da tiệp với quần áo màu dà của chú, chú mặc áo bà ba, khăn choàng tấm buộc thắt ngang lưng, hông đeo kiếm. Có cả các chị ở xóm nhà ông Tư tôi nữa, nào chị Thảnh với chị Thơi... Ngộ làm sao! Chị nào cũng môi son má phấn như đào hát.

Tôi thấy vậy và cũng chỉ biết có vậy, rồi lộn trở về cho chị tôi biết.

- Nghe nói sắp đổi đời, họ tập, thằng Sườn nói.

- Tưởng nghe ai. Nghe thằng Sườn. - Chị tôi vừa giận, vừa lo.

Khi đoàn biểu tình từ sân chợ tháo trở về, thì cô Hai Thảo bước trên cây cầu khỉ, tay cầm một cái giỏ.

- Cha bây đâu? - Cô hỏi.

- Dạ, cha cháu mới đi xóm.

Cô đưa cái giỏ cho chị tôi:

- Cất cái này đi.

- Gì vậy cô?

- Bánh tổ. Cô biết nhà bây không ai làm. Tới rồi đó, đói thì lấy mà ăn. Cha bây có đói thì lấy cho cha bây ăn chớ đừng cho cha bây thấy, nghe chưa?

- Dạ! Sắp có gì vậy, cô Hai?

- Chưa hay chuyện gì sao?

- Dạ chưa.

- Nhật đầu hàng rồi.

- Cờ Nhật sao còn treo đó cô?

- Mấy thằng Nhật chưa biết. Tin chưa tới nó, chớ đạo thì đã biết rồi. Lúc nó chưa đảo chánh Tây, Thầy có nói trước, nó mạnh vậy chớ nó ăn không hết con gà tức là nó không qua được năm Dậu này, hiểu chưa? Cô đã nói, không theo đạo thì u u mê mê là vậy.

- Cha con chắc biết.

- Cha bây có biết cũng là nhờ người trong đạo nói ra. Biết mà sao không lo, một cái bánh tổ cho con cái mà không có. Cô hỏi tụi bây, Nhật đầu hàng, nước Nam nầy ai cai trị? Binh tướng nhà Phật với bọn quỷ dương sẽ tranh hùng. Sẽ tối trời tối đất, cô dặn bao nhiêu lần rồi, nhớ không? Nhà có giẻ rách chưa? Nhớ, có ai kêu tên thì đừng có lên tiếng.

Đã lâu tôi không còn tin chuyện tối trời tối đất nữa, tôi nghĩ là cái chuyện đó đã qua rồi, giờ cô lại nhắc tới. Cô nhắc lại qua hình ảnh một đoàn biểu tình với quần áo màu dà rầm rộ như một dòng nước đục tràn lên sân chợ, với đôi mắt lo âu của cha tôi, với vẻ sợ sệt của chị, với cái bánh tổ cô mang tới, với đôi mắt bí ẩn của cô nhìn chúng tôi, và với lòng yêu thương qua giọng nói tha thiết của cô, hình ảnh rùng rợn của cái đêm tối trời tối đất lại hiện lên trong tưởng tượng của tôi.

Cái đêm ấy, chị em tôi nằm rúc lại sát nhau; cái bánh tổ với nắm giẻ rách, chị tôi để ở đầu giường.

- Dậy! Dậy...

Chị tôi vừa gọi vừa giật cái mền lôi tôi lên. Sau một đêm dài nơm nớp lo sợ, tôi thiếp đi lúc gần sáng, ngủ mê man. Đêm khủng khiếp đã trôi qua (hay là chưa đến), tôi mở mắt: nắng đã tràn vào tận sân nhà.

- Ra coi, mau lên!

Chị vừa bảo vừa nắm tay tôi, kéo tôi chạy ra cửa. Chị đưa thẳng cánh tay qua cái bót cò:

- Thấy gì chưa?

Tôi thấy rồi. Cờ! Cờ đỏ sao vàng trên cột cờ trước bót cò bay phấp phới. Tôi không reo lên mà lặng đi trước cái màu đỏ rực rỡ với ngôi sao năm cánh, với bầu trời xanh mênh mông của buổi sáng, với con sông tháng tám nước ngầu hạt phù sa đang hối hả trôi qua, hai bên bờ cây cỏ xanh um, và tôi như ngỡ ngàng trước cảnh vắng lặng của con đường làng.

Mọi ngày, vào giờ này, người ta nườm nượp trên đường, ra sân chợ. Sáng nay chỉ lác đác một vài người, không thấy ai mặc quần áo dài màu dà, người trên đường ăn mặc bình thường, quần đen áo trắng hoặc áo xanh, khác hơn ngày thường, tay có đeo băng đỏ, tay cầm gươm, cầm giáo.

Có lẽ dân làng ai cũng xúc động đến lặng đi hoặc ngỡ ngàng nên chưa có ai đổ ra mặt đường.

- Đổi đời rồi đó!

Tôi quay lại, cha tôi cũng đang đứng nhìn cờ. Tôi muốn hỏi cha, nhưng chưa kịp nghĩ phải hỏi cha điều gì thì cha tôi bảo:

- Tờ lịch hôm nay, mấy con không đứa nào được xé, để nguyên đó cho cha. Lịch ngày 20 tháng 8 năm 1945, năm Dậu.

Bỗng có tiếng vó ngựa từ trên cầu sắt đổ xuống cùng với tiếng hét quen thuộc của người đánh xe. Xe của anh Hoàng, con ngựa Ô. Và một lá cờ đỏ sao vàng được dựng trước đầu xe, chỗ cây kèn bí bo. Anh Hoàng thì đứng thẳng lưng, tay lỏng dây cương, tay cầm roi quay tròn qua đầu. Anh kéo thẳng dây cương, đầu ngựa cất lên, xe dừng lại trước cửa nhà tôi, anh hét:

- Chú Hai ơi! Mình cướp chánh quyền rồi.

Không nói không rằng, không cần phải bước theo từng bậc thang, từ trên sàn, tôi phóng xuống sân, chạy băng qua cây cầu khỉ, tự mình đu người, nhảy phóc lên xe. Anh ném dây cương qua tay tôi, con ngựa chồm tới. Bắt chước anh, cũng không còn biết sợ nữa, tôi cũng đứng thẳng lưng, cầm dây cương. Và tôi đứng bên lá cờ đang bay. Lá cờ phất qua mặt, qua vai, gây cho tôi một cảm giác kỳ lạ, như có một luồng điện ran lên trong người, không thể quên.

- Cho chạy luôn xuống kinh Cựu Hội. - Anh bảo tôi.

Rộp-rộp-rộp... Tiếng vó ngựa gõ đều trên mặt đường đá.

Anh Hoàng cầm cái loa bằng giấy, đưa lên miệng nhìn vào tờ giấy để trong lòng bàn tay:

- A lô! A lô! Hỡi đồng bào! Cách mạng đã thành công. Việt Minh đã cướp chánh quyền trên tay phát xít Nhật, chấm dứt một trăm năm nô lệ. A lô! A lô!...

Người trong xóm vườn đổ ra hai bên đường nghe loa. Xe chạy tới đầu cầu kinh Cựu Hội rồi quay lại. Trên đường trở về chợ, thấy người hai bên đường đông hơn, đứng chờ nghe tiếng loa, tôi sướng lắm, tưởng mình cũng có góp công.

Vì xe đang chạy, người hai bên đường nghe tiếng được tiếng mất. Nhiều người đổ ra mặt đường, dang tay bắt xe phải dừng lại, và phía sau có hàng chục người đuổi theo, bám vào xe, kéo ghịt lại. Tôi gò thẳng dây cương. Chiếc xe bị vây chặt giữa vòng người trên mặt đường.

- Cái gì, nói lại cho nghe.

Anh Hoàng lại đưa cái loa lên miệng, a lô, a lô. Giọng của anh khàn đặc, nói không ra tiếng nữa. Bất thình lình có một anh thanh niên cũng trạc tuổi anh - anh Trung -nhưng lực lưỡng hơn anh, quần đùi, lưng trần, từ dưới nhảy phóc lên xe, giật cái loa trên tay anh, đưa cái loa hướng lên trời, a lô, a lô...

Rồi người ta reo, người ta la, người ta hét, có người cứ nhảy dựng lên. Khi tôi giật dây cương cho con ngựa chồm tới thì bị nhiều người kéo rị lại, leo lên, có cả trẻ con, đầy nhóc một xe. Con Ô như cũng vui lây, nó cất vó, hí vang.

Tiếng vó ngựa cùng với tiếng loa vang dài theo con đường đá chạy qua làng, cặp theo con sông. Và con sông cũng vui hay sao mà vẫy sóng “lách tách” vỗ vào bờ.