← Quay lại trang sách

- 14 -

Ông Chín đưa cha tôi lên quận bằng chiếc xuồng theo con nước trên lòng đường lúc gà gáy. Tôi không thể biết cuộc gặp gõ giữa cha tôi với ông chủ tịch có bộ ria dấu ớ ra sao; chỉ biết, buổi chiều khi cha tôi trở về, tôi thấy ông không lầm lì, đăm chiêu nữa. Ông Chín thì xoa đầu và hôn tóc mấy đứa em tôi và hôn cả tôi nữa. Thấy ông vui, tôi lại lấy cái mùng ra, rủ ông bắt cá, ông cười. Nụ cười của ông thật ngộ, như một cái hoa nở ra trong cái đám cỏ râu ria của ông.

- Bữa khác. Ông về liền, bà Chín bây mong. - Rồi ông xô xuồng bơi đi, không chịu ăn cơm chiều.

Sau đó mấy hôm, ông Tư và chú Điền tôi cùng với những người bị giam giữ trong trụ sở Ủy ban được trở về. Rồi cũng vài hôm sau, lúc sáng sớm, cô Hai Thảo bơi một chiếc xuồng chở nào dừa, nào gạo, mắm muối với vịt gà cặp lại nhà tôi.

- Đi chợ về hay ra chợ bán đó Hai? - Cha tôi hỏi.

Cô Hai đưa tay quẹt cục thuốc để qua bên mép:

- Không đi chợ mà cũng không đi bán. Mấy đứa nhỏ đâu, bảo nó đưa lên nhà.

- Có chuyện gì vậy Hai?

- Thì cứ bảo mấy đứa nhỏ đưa lên rồi em nói.

Cha tôi đưa chân giữ cái mũi xuồng.

- Chuyện gì thì nói đi chớ. - Giọng cha tôi hơi gắt.

- Có chuyện gì đâu anh. Bà con người ta nói nhờ anh lên quận mà chồng con mới được thả về. Mỗi người một ít, gom lại, nhờ em mang lên, để cám ơn anh.

- Bậy! Ai nói? Nói lại với người ta là tao với cậu Chín có lên quận, nhưng không phải nhờ tao, tao lên đến nơi thì quận đã xét kỹ, đã cho lịnh thả rồi.

- Anh nói... chuyện đó làm sao biết, bà con người ta nhờ em thì em chở lên cho anh.

- Đem về đi. Nói với bà con, nếu muốn cám ơn, thì đem lên ủy ban, cho mấy anh em làm việc, người ta cực khổ.

Mặt cô Hai tôi tiu nghỉu:

- Anh sao khó quá.

- Thôi, đừng nói thêm, bơi về đi.

Sẵn chân để trên xuồng, cha tôi đẩy cái mũi xuồng bung ra, rồi quay vào, vẻ bực bội.

Tôi biết, khi cha tôi không vừa ý hoặc nổi giận thì trong bà con dòng họ kể cả bạn bè, không ai dám trái ý. Chiếc xuồng bơi đã xa và khuất mất. Một lát sau, khi cha tôi ra chợ uống cà phê sáng, thì cô Hai cho xuồng cặp lại sau hè, dưới bếp. Cô gọi hai chị em tôi:

- Cha bây đi chợ rồi phải không?

- Dạ!

- Nè, hai đứa mang lên cho cô về.

Chị tôi lắc đầu:

- Không được đâu cô Hai, cha cháu thấy, cha cháu đánh chết.

Cô nhíu mày khó nghĩ:

- Cha bây rượu không biết uống mà giống y như ông nội bây. Người ta cho gì cũng không lấy. - Rồi cô trợn mắt nhìn hai chị em tôi, lấy quyền của người cô, bảo chúng tôi: - Tao nói phải nghe lời, biết chưa?

Giọng cô lại dịu xuống, nài nỉ:

- Người ta biếu mà không nhận, tội lắm, nghe mấy con. Cô tính như vầy: dừa với gà vịt cô mang về, mấy thứ nầy, nước lênh láng, không có chỗ giấu, còn gạo, nếp với mắm, mấy con cất dưới bếp. Gạo nào cũng gạo, mắm nào cũng mắm; cha bây là thánh hay sao mà cái gì cũng biết.

Cô vừa nói vừa ném bịch gạo, bịch nếp và mắm lên sàn bếp nhà tôi.

- Cha bây, kêu vô đạo không vô, đã đành, đến lúc người ta mời ra ngồi ghế chủ tịch, cũng không ngồi. Người đâu có người kỳ cục. Thôi đem cất đi, cô về.

Trên xuồng còn lại mấy quầy dừa với gà vịt, cô bơi đi. Lần đầu, cô đến nhà tôi mà không nói chuyện đạo. Nhìn theo cái luồng nước của chiếc xuồng cô bơi đi, tôi thấy thương cô. Cô không còn là người say đạo với đôi mắt long lên và miệng “xoen xoét” những câu chuyện rùng rợn, vừa sợ vừa buồn cười nữa. Và cũng tội nghiệp cho chị tôi, bữa cơm sáng hôm đó, sợ cha tôi biết, chị tôi xúc gạo nhà với gạo người ta cho nấu chung.

Nước rút. Lạ quá. Mặt đất, sân nhà, con đường và cánh đồng vẫn nguyên như vậy mà sao nước cứ chảy ngược ra như có ai đưa tay nghiêng cái mặt đất của làng cho nước trở ra sông, trôi về biển. Mặt đất của sân nhà với cây cầu khỉ bắc qua kinh mỗi ngày mỗi hiện dần lên, khi tôi nhìn thấy được cây cầu thì cái sân nhà tôi vừa được tráng qua một lớp hạt phù sa màu đất hồng lên như miếng thịt tươi non, nhìn thấy cái màu đất ấy, tự dưng ta muốn trồng xuống một cái gì.

Khi con nước trở lại mặt sông, cái con đường lầy lội lại khô dần với ngọn gió từ xa thổi về. Ngọn gió lao xao qua các vườn cây, la đà vuốt qua đầu ngọn cỏ, ngọn gió rì rào suốt đêm ngày, như tiếng của một dòng suối đang dội về. Làng tôi gọi mùa gió này là mùa gió chướng. Với con gió chướng, các cánh buồm trên sông đều căng lên, ngược xuôi cả hai chiều. Buồm căng nghiêng qua một bên be, chạy giác theo con gió. Buồm xanh, buồm đỏ lô nhô trên sông như một bầy bướm.

Mùa này, dù không xuống chơi, tôi vẫn biết ông bà Chín tôi đang soạn đất trồng dưa hấu để đến Tết bán cho dân làng, đem chưng trên bàn thờ cúng ông bà.

Xe đò từ Sài Gòn lại trở về trên con đường đá vừa ráo nước. Trẻ con đổ ra đường ngửi lại mùi xăng, người lớn chạy ra bến lấy báo, đón tin. Chiếc xe Ưng Ký với nước sơn màu vàng cũ kỹ, mang theo bùn đất của con đường dài, chạy trên con đường đá lởm chởm, nặng nề với một tin dữ: quân xâm lược Pháp đang đánh chiếm Sài Gòn. Tiếng súng kháng chiến đã nổ rồi.

Mùa thu rồi! Ngày hăm ba. Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...

Tiếng hát vang lên từ trong lồng ngực của mỗi người.

Ông ủy viên quân sự đầu tiên của chánh quyền Cách mạng ở làng tôi có một bộ vó - như người ta nói - đúng là con nhà tướng. Ông vốn là chủ tiệm cầm đồ, ở phố có lầu, và cũng là người đứng đầu của Thanh niên tiền phong, được gọi là ông thủ lĩnh. Trước ngày làm thủ lĩnh, ông thường mặc quần “sọc”, áo thun lá, bên hông lúc nào cũng có một chùm chìa khóa rổn rảng. Khi ông làm thủ lĩnh Thanh niên tiền phong, ông mặc đồ Thanh niên tiền phong, đầu đội nón bàng, dẫn đầu đi “một hai”. Khi ông làm ủy viên quân sự, ông tự may cho mình một bộ quân phục riêng, đặc biệt, không ai có. Quần tây dài bằng vải ka ki có hai viền chỉ đỏ chạy hai bên. Áo sơ mi, vai có hai con đỉa. Đầu đội ca lô vàng và cũng viền vải đỏ. Sợi dây nịt da, bao súng không đeo bên hông mà đeo ngay giữa bụng. Bên hông vẫn cái chùm chìa khóa của các thứ tủ trong tiệm cầm đồ. Hằng ngày ông làm việc trong bót cò cũ, được đổi lại là cơ quan quân sự.

Từ đó, ông ra lịnh cho toàn dân:

- Một, không nhà nào được giữ cờ tam sắc. (Tất nhiên là vậy).

- Hai, không được giữ bất cứ thứ gì có đủ ba màu: xanh, trắng, đỏ.

- Ba, không được nói tiếng Tây.

Có một bà bưng một rổ ớt ra chợ bán, trong rổ có ớt đỏ, ớt xanh và ớt không hẳn là vàng cũng không hẳn là trắng, ông cũng truy là cờ tam sắc, bắt phải để riêng ra và chỉ được bán cho mỗi người một màu. Ông nổi tiếng vừa oai vừa nghiêm khắc.

Mỗi chiều, từ trong nhà cơ quan quân sự, ông bước qua con đường tráng nhựa, đến bãi tập. Bãi tập vốn là bãi cỏ dành cho ngựa, trước cửa nhà tôi.

Ông tập cho thanh niên bồng súng, chào súng, tập đi một hai. Tiếng ông hô vang tận đến bên nhà tôi. Anh tôi cũng đẽo một cây súng giả, chạy qua cây cầu khỉ.

Anh đứng lớ ngớ, và không hiểu ông ủy viên quân sự nói gì mà anh vác súng trở về qua cây cầu khỉ, mặt tiu nghỉu. Cha tôi đứng trên thảo bạt, hỏi vọng ra:

- Sao về?

Anh tôi bước vào sân, ném cây súng gỗ xuống đất, nói như khóc:

- Thằng chả không cho tập.

- Sao?

- Bắt phải may đồng bộ.

Cha tôi không nói gì, chỉ cười một bên miệng.

Anh tôi vừa bước lên cầu thang vừa càu nhàu:

- Chẳng có công gì mà làm tàng. - Rồi anh ngồi phịch xuống ghế, nói với cha tôi: - Cha biết không, cái đêm cướp chánh quyền, chú Khởi chỉ huy, còn con thì làm lính, thằng chả thì ngủ khò.

Tôi biết, anh tôi không chỉ giận ông ta không cho tập, mà còn giận một chuyện khác nữa. Trước đây, những lúc cần tiền ăn xài, anh tôi đã lấy cắp đồ trong nhà, nào vàng, nào quần nào áo đem ra cầm, bị ông ta bắt bí với một cái giá rẻ mạt:

- Mầy không chịu, tao mét ông già mầy!

Anh tôi làm gì ra tiền để chuộc, quá ngày, coi như mất. “Biết vậy, bán quách cho xong” - anh tôi lầm bầm.

Cha tôi vẫn bình tĩnh:

- Chuyện đó cha biết hơn con.

Tôi nghĩ nếu không có những ngày này, chắc cha tôi không gọi anh tôi bằng “con” với giọng ngọt ngào như vậy. Cha tôi tiếp:

- Nay mai, anh em còn xếp cho ông Tư của tụi con làm cái gì nữa kia. Mặc sức cho ông lên mặt. Không như vậy không yên. Nhà mình làm nghề thợ bạc, con cũng biết, muốn biết vàng thau thì phải thử lửa. Đã là vàng giả thì nó bóng nhoáng là như vậy.

Rồi chợt nhìn ra con sông, cha tôi nói thêm:

- Mình ở bên con sông, mình cũng phải biết. Buồm muốn giương lên thì phải có gió. Gió ngược thì buồm phải xếp lại. Dù có gió ngược hay nước ngược, có tay chèo thì chỗ nào rồi cũng tới. Chú Ba tụi con với anh em mình là tay chèo, hiểu chưa?

Cha tôi nói với anh tôi, chớ không phải nói với tôi, nhưng tôi cảm thấy hiểu. Còn anh tôi, chẳng biết anh có hiểu hay không mà vẫn ấm ức.