- 15 -
Nghĩ lại, đúng như cha tôi nói. Nếu không có trận đụng độ với ba thằng lính Nhật thì không biết ông chủ tiệm cầm đồ sẽ phơi phới đến cỡ nào. Ba thằng lính Nhật trốn bên nhà thờ cù lao Giêng với vợ chồng thằng cò Tây vẫn chưa chịu buông súng đầu hàng. Nó lại còn băng xuồng qua chợ, mua đủ thứ thức ăn.
Và trong nhà thờ, nơi nó ở, vẫn treo cờ Nhật. Ai cũng ấm ức. Theo kế hoạch, lần sau, nếu nó còn qua chợ, ông ủy viên quân sự sẽ mời nó vào trụ sở, kêu gọi nó nộp súng đầu hàng. Nếu không, anh em chiến sĩ sẽ ra tay. Mấy ngày sau, ba tên lính Nhật lại băng xuồng qua chợ và nó được mời vào trụ sở. Sau khi ông ủy viên nói xong, một thằng lắc đầu:
- Không! Chừng nào chúng tôi chết, súng nầy mới thuộc về mấy ông.
Anh em chiến sĩ đâu đó sẵn sàng, chờ ông ra lịnh. Nhưng ông không ra lịnh, mặt cứ tái đi. Bọn Nhật đoán biết, chúng bỏ ghế, bật dậy, bước ra về. Đã vậy, ông còn đưa chúng ra cửa, nói theo:
- Các ông nên suy nghĩ thêm.
Ba tên Nhật vừa đi vừa chạy ra bến. Đến khi chiếc xuồng ra giữa dòng, nó đưa súng lên trời bắn một loạt.
Hồi ấy, dân làng chưa quen tiếng súng. Tưởng như một loạt tiểu liên ấy có thể giết hết cả làng, và ai cũng tưởng là đạn sẽ bay thẳng lại mình. Cho nên cả chợ kẻ đứng người ngồi, kẻ mua người bán, ai cũng cúi rạp xuống. Người trong phố, trong nhà cũng rạp xuống. Ai cũng tưởng đạn sẽ bắn ngang đầu, vớ được cái gì che cái nấy, có người che bằng thúng, bằng nồi, không vớ được gì thì che bằng tay. Như người ta thấy và nói lại, chỉ có một người vẫn đứng xỏng lưng, đó là anh Hai Quang. Chỉ có bao nhiêu đó thôi cũng đủ cho bao nhiêu người khâm phục rồi.
Anh Hai Quang từ Sài Gòn trở về sau Cách mạng thành công một ngày, với bộ quần áo thường, xin tình nguyện làm lính Cách mạng. Anh được chọn làm lính cận vệ cho ông ủy viên quân sự. Và anh là một trong năm người biết võ nghệ được giao nhiệm vụ phải hạ mấy tên lính Nhật khi được lịnh. Để cho bọn Nhật chạy thoát, anh tiếc đến không kìm được:
- Ba thằng đó, một mình tôi cũng đủ, thằng một đá, thằng một đấm, thằng một cùi chỏ - anh vừa nói vừa đá vừa thoi - Tôi đứng hầu kế bên ổng, chờ hoài mà không thấy ra lịnh. Tụi tôi chỉ chờ ổng liệng cái điếu thuốc xuống bàn thì tụi tôi ra tay, cái điếu thuốc ổng cứ phì phà hoài, lại còn đưa mắt nhướn nhướn bảo tụi tôi lui quân. Nghe nó bắn tẹt tẹt, tưởng như bị ỉa vô mặt.
Ai nghe cũng bất bình.
Gió ngược, buồm phải cuốn lại, đúng vậy. Khi quân dân tiến đánh bọn lính Nhật với vợ chồng thằng cò Tây ẩn náu trong nhà thờ cù lao Giêng thì ông ủy viên quân sự quay lại cái tiệm cầm đồ với một xâu chìa khóa ở bên hông. Con thuyền đã đến lúc phải có tay chèo. Chú Tư Khởi lên làm ủy viên quân sự. Chú vẫn như trước, vẫn bộ đồ bà ba, có khác là bên hông không đeo theo nạng giàng thun, và áo không hở ngực, gài đủ năm nút. Chú không biết tập lính như ông chủ tiệm cầm đồ; việc tập tành cho thanh niên, chú giao cho Hai Quang. Chú cũng không cần Hai Quang làm lính bảo vệ nữa. Người thích nhất mà tôi thấy ngay trong nhà, là anh tôi. Anh tôi được vác cây súng ra bãi tập mà không cần phải quần áo gì sang trọng; quần đùi với cái áo thun, được rồi, ở trần cũng không sao.
Vì vậy mà bãi tập đông vui hơn. Và lũ nhỏ chúng tôi, gọi là thiếu nhi, cũng được ra bãi, hoặc hò hát, hoặc xếp thành hàng, tập đi một hai, tùy thích.
Dòng sông căng lên với màu phù sa ngầu đỏ, vừa hăm hở vừa giục giã vừa cuồn cuộn như muốn cuốn theo cây cỏ hai bên bờ đổ ra biển. Những ngày ấy, một trận đánh đầu tiên nổ ở làng tôi, sau ngày Cách mạng tháng Tám. Xuồng cui mũi quớt từ trên các bến dài theo làng, chở người ra trận. Họ rạp mình, dồn cả sức lực vào đôi tay đấy mạnh mái dâm, tua tủa đâm qua nhà thờ cù lao Giêng. Bụi sóng bay mờ như khói tỏa. Dù chưa quen với tiếng súng, và cũng chưa có ai hiểu được sức mạnh của các loại súng, trong con mắt của tôi ngày ấy, trận đánh đã cuốn hết cả dân làng.
Những con xuồng ở phía xa, như những mũi tên đang lướt trên mặt sông bay qua vùng khói lửa mờ mịt cả rặng cây. Người ra trận ào ạt trên mặt sông, và tưng bừng tiếng hát “Một ra đi là không trỏ về”.
Làng tôi, có mấy ai biết được trong khu nhà thờ ấy có cái gì ngoài cái lầu chuông vượt lên khỏi rặng cây. Một cái nhà thờ được dựng lên từ ngày đầu khi quân xâm lược Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Kỳ - năm ấy đã gần tám mươi năm. Cũng được gọi là nhà thờ gốc. Chắc họ muốn đặt cái gốc đạo ở đầu nguồn sông Tiền Giang để theo con nước mà lan dài ra dân bản xứ dọc theo hai bò sông Cửu Long.
Khu nhà thờ được bao bọc bằng một bờ tường cao quá đầu người, cách biệt với dân làng. Trong bờ tường, nhà cửa đường sá không thua gì một cái chợ. Nhà của ông cha bà phước, nhà cho hàng ngàn con chiên vốn là những đứa con hoang và những trẻ tật nguyền. Nhà bảo sanh, nhà khám bịnh, nhà cho thuốc, nhà thờ, nhà giảng đạo, có cả xưởng dệt và xưởng làm xà bông. Tất cả đều tường vôi, mái ngói. Như một xã hội riêng biệt không dính gì với ngoài đời. Người được ra ngoài vòng bờ tường chỉ có ông cha với bà phước, thỉnh thoảng qua chợ làng tôi mua sắm vài món lặt vặt. Chuyện gì ở trong ấy, không ai biết được. Như vậy cũng chưa đủ hay sao mà phía bên này sông, làng tôi cũng có một nhà thờ, nhưng nhỏ hơn, cách nhà tôi một ki lô mét, cũng là xóm làm thợ mộc, trại cưa, trại xuồng, nhưng vì để phân biệt với xóm mộc ở Cột dây thép, xóm này gọi là xóm nhà thờ.
Bên kia sông, nhà thờ cù lao Giêng là nhà thờ lớn, nên hằng năm, đến ngày lễ Nôen, có một chiếc tàu trắng - có người nói từ Nam Vang, có người nói từ Sài Gòn về - từ trên đầu cù lao đổ xuống, đậu giữa dòng sông và giữa hai cái nhà thờ để làm lễ. Trên tàu toàn bọn Tây. Đến giờ làm lễ, sau một hồi chuông dài lan ra trên mặt sông, từ trên chiếc tàu trắng ấy, nổ đùng đùng, pháo hoa xẹt lên nổ chùm chùm, sáng rực cả một vùng trời. Rồi sau đó, (nghe nói) ông cha và bà phước của nhà thờ cù lao Giêng và cả ông cha ở nhà thờ làng tôi đâm xuồng ra, leo lên tàu, cùng với bọn Tây ăn ngỗng quay, uống rượu nho và nhảy nhót cho đến sáng. Có một năm, cũng đến ngày lễ Nôen, vào một buổi trưa, bỗng có một chiếc máy bay giống như con chuồn chuồn bay tè tè theo con sông rồi cất lên, đỗ xuống trong khu nhà thờ cù lao Giêng. Chợ làng tôi, vì chưa bao giờ được thấy máy bay có những người tò mò đã lao xuống dòng sông bơi qua nhà thờ, có người suýt chết đuối. Những người đó, có ai thấy được chiếc máy bay ấy đâu, nó đậu trong vòng bờ tường rồi, ai vào được. Chẳng biết trong khu nhà ấy bao lớn mà có chỗ cho cả một chiếc máy bay?
Anh chị em nhà tôi và cũng rất đông những đứa nhỏ ở làng đều sanh ra từ nhà bảo sanh của nhà thờ. Vì ở bên đó có nhiều bà mụ học Tây, giỏi hơn mụ vườn. Năm lên sáu lên bảy, tôi bị bịnh ghẻ, má tôi có đưa tôi sang nhà thờ, xin thuốc đỏ. Nhờ đó mà tôi biết và còn nhớ mang máng. Trong ấy, nhà ngang, nhà dọc, nhà lầu, có vườn hoa, có bãi cỏ, các con đường đều tráng nhựa, có những chậu kiểng đặt ở bên lề ngã ba ngã tư và tượng Chúa. Tôi nhớ những đứa con hoang, con mồ côi và tật nguyền, mặc quần áo giống nhau, hàng ngàn đứa đứng xếp hàng bên bãi cỏ, điểm tên vào mỗi buổi sáng. Những đứa nhỏ không cha không mẹ ấy, bị tách ra khỏi cuộc đời, ngày ngày phải quỳ dưới tượng Chúa, lớn lên, không ai được lấy vợ lấy chồng, lẩn quẩn trong vòng tường cao quá đầu người với kinh thánh với tượng Chúa cho đến hết cả đời người. Và cho đến chết cũng không ra khỏi vòng tường, cái nghĩa địa cũng ở trong ấy, cạnh bên, chẳng đâu xa.
Ở làng tôi, cha mẹ muốn dọa con thường hay dọa là sẽ đem cho bà phước, tức là sẽ đưa vào đó, đứa nào nghe cũng sợ, sợ hơn bị nhát ma.
Bây giờ ba thằng lính Nhật với vợ chồng thằng cò Tây, nghe nói có cả ông cha và bà phước, núp trong những ngôi nhà ấy bắn ra.
Trận đánh lôi cuốn cả những làng ở xung quanh. Người từ các nơi đến, không biết bao nhiêu mà kể, bao hết cả vòng tường. Trên bộ, trên sông, người cứ lũ lượt, không thấy ai có súng, chỉ có gậy gộc với gươm dao, hoặc đao kiếm. Và người ta đi, cũng không cần phải theo hàng ngũ, đi khắp trên các ngả đường đổ xuống bến sông. Có người sang qua bên đó, đứng xớ rớ hoặc chạy tới chạy lui, hò hét ở ngoài bờ tường một đêm, một ngày, hoặc một lát rồi trở về, coi như mình đã ra trận rồi. Người khác lại đi thay, không thấy ngớt.
Anh tôi, anh Hoàng và cả thằng Sườn cũng ra trận kiểu như vậy sau một đêm. Từ trên mặt trận nhà thờ cù lao Giêng trở về, anh lôi kéo cả anh Hoàng và thằng Sườn qua cây cầu khỉ, vào nhà, lên thảo bạt lúc trời vừa hửng nắng. Người nào hai con mắt cũng thâm quầng, thụt sâu, nhưng người nào cũng tạo ra một dáng đi kiểu lính, hai tay khuỳnh ra như con gà trông phùng cánh.
- Mình tiến vô tới đâu rồi? - Cha tôi hỏi.
- Còn bao vây, chú Hai - anh Hoàng đáp
- Tụi nó chưa chịu đầu hàng.
Thằng Sườn hăng hái:
- Tường nhà thờ cao quá. Tụi nó nhát quá, cứ núp trong nhà, không dám ra mặt xáp lá cà, bác Hai.
- Mình không phá được tường nó sao? -Cha tôi lại hỏi.
- Súng lớn của mình chưa chở tới, chú Hai.
- Vậy mấy hôm nay mình đánh bằng súng gì?
- Mình chỉ có mấy cây “mút” bắn không lủng.
- Sao tao nghe tiếng súng gì nổ đùng đùng mấy bữa rày, súng nổ lớn vậy mà không phải đại bác sao?
Anh Hoàng như sợ bọn Tây Nhật ở bên kia sông nghe được hay sao, anh bước gần lại cha tôi, nói thầm thì:
- Đâu phải đại bác chú Hai. Mình đốt pháo tre cho nó sợ. Còn khói mà bên này mình thấy nó cuồn cuộn bên đó, không phải là khói súng, mà mình đốt rơm với xăng để ung nó. Tụi cháu bữa nay về là để xin thêm rơm, chú Hai.
- Chẳng lẽ mình cứ đứng ngoài, bao vây nó hoài sao?
- Không đâu chú Hai. Cháu nghe ba cháu nói, nếu ngày mai, nó mà không chịu đầu hàng, thì anh Hai Quang sẽ làm cảm tử quân ảnh sẽ phi qua tường xông thẳng vô bọn nó.
- Vậy.
- Dà. Thang, lựu đạn với một cây mi trây đết đã giao cho anh Hai Quang rồi, lịnh xuống là ảnh xông lên liền.
Cha tôi lại nhìn về đám khói bên kia nhà thờ cù lao Giêng, lặng lẽ và kêu lại hai tiếng: Hai Quang!