- 17 -
Bọn lính Nhật, vợ chồng thằng cò Tây đầu hàng, anh Hai Quang hy sinh, nhưng trận đánh bên kia nhà thờ cù lao Giêng vẫn tiếp diễn.
Những người từ các nơi kéo đến tham gia trận, đánh, lâu nay vẫn đứng bên ngoài bờ tường, bấy giờ mới bắt đầu, để trả thù cuộc đời tám mươi năm nô lệ, trả thù cuộc đời một ách hai tròng, không ai chỉ huy ai, mạnh ai nấy đập, nấy phá, tùy thích, tùy sức. Và để trả thù cuộc đời cơ cực “gạo châu củi quế”, họ gặp gì lấy nấy; và cũng tùy thích, tùy sức. Nào gạo nào vải, nào mùng mền, kẹo sữa với rượu tây, và cả những thứ lạ chẳng ai biết từ trong các kho, mạnh ai nấy lấy, chở bằng ghe, bằng xuồng, và đội bằng đầu. Những ai ở xa cũng đến hôi của. Họ kéo nhau đi từ đêm này đến đêm khác từ khắp các ngả đường.
Tôi thấy có người đội vải lút cả đầu, có người đầu đội, vai vác, đi ngang qua cửa nhà tôi.
- Cách mạng mà làm vậy coi không được, cha cấm tụi con không được qua bến, nghe chưa?
Cha tôi nói đi rồi cũng nói lại: “Kể cũng công bằng”
Dù có người không muốn, nhưng không thể nào ngăn cản nổi. Đó là sự trả thù của cuộc đời. Như giông, như bão, như lũ lụt, như sóng thần, được tích tụ từ lâu, những gì cản trở nó, sẽ bị nó cuốn trôi.
Làng tôi không có bão, nhưng năm nào cũng có những cơn giông. Không ai muốn, nhưng có ai cản nổi đâu. Nhà cửa xiêu vẹo, cây cối ngả nghiêng, và xoài già, cả xoài non rụng dài theo mặt đường.
Cái nhà thờ lâu đời gần một trăm năm vì đã làm đồn lũy cho kẻ thù, nên chả mấy chốc mà tan hoang.
Người làng xung quanh nhà thờ bỗng trở nên giàu có. Người ta mặc quần áo mới và mở quán dài theo hai bên đường. Những cái quán đơn sơ, một cái bàn, vài ba cái ghế, dưới mái lá hoặc dưới một tàn cây, nhưng có đủ thứ kẹo bánh, xà bông, treo lòng thòng theo nhánh cây, tùng chùm xanh, đỏ. Nào cà phê, nào đường, nào rượu, rượu chát đỏ, chát trắng với Mácten..., những chai rượu để dưới hầm hãy còn lành lạnh, mát tay. Ai lấy được gì bán nấy. Người đã từng uống, có dịp uống thêm; người chưa từng uống, cũng uống một ly cho biết: “Ái chà chà! Sao mà ngon, mà ngọt mà cay, mà thơm, mà nóng, mà lạnh như vậy cà? Biết vậy, tôi cũng làm cha. Cho tôi thêm một ly nữa coi!” Sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng có người tụ năm tụ ba dài theo các quán bên đường.
Hàng ngàn con chiên trong nhà tu kín được dịp ra khỏi vòng tường, về ở với dân. Mỗi nhà nhận một người hoặc hai ba tùy lòng. Nếu không có những ngày ấy thì những con chiên không sao biết được cuộc đời. Đã là nhà tu mà còn kín nữa, thử hỏi họ thấy được gì. Có biết bao nhiêu đứa bé sống bên bờ sông mà có bao giờ thấy được con sông cái vòng tường vôi trắng bao quanh nhà thờ là nơi cuối cùng của đôi mắt và cuộc đời chúng.
Có những người mẹ vì một hoàn cảnh nào đó, đã đưa con cho bà phước, bấy giờ, từ nhiều nơi, lại về, tìm con. Khi cho con, đứa con mới lọt lòng, còn đỏ hỏn, hai mươi năm sau, bà mẹ vẫn nhận ra được dấu riêng của con. Bà mẹ òa lên khóc, còn đứa con thì ngơ ngơ ngác ngác chẳng hiểu gì, như kẻ không hồn. Biết bao nhiêu chuyện ngớ ngẩn của họ được dân làng kể lại, làm trò cười. Có một chuyện tôi nhớ mãi. Một cô gái trong nhà tu kín về ở với nhà dân. Một hôm, bà mẹ bảo cô:
- Má có rộng ba con cá trong lu, con vô coi, sống hay chết.
Cô gái vào rồi, trở ra thưa:
- Thưa mẹ, trong ba con có một con đã qua đời còn hai con kia sức khỏe vẫn bình an như thường.
Người ta kể cho nhau và người ta cười. Ngay cả tiếng nói, họ cũng nói theo văn chương của kinh thánh, không biết gì đến tiếng nói của đời sống. Làm sao mà không ngơ ngác?
Lại một chuyện nữa. Một bà đang ngồi ăn cháo lòng ở chợ, nghe có người hỏi:
- Con gái bên nhà thờ của bà, bữa nay nó làm sao?
- Tôi không biết nó làm sao nữa. Nó là đứa con gái hai mươi tuổi, sạch sẽ, mặt mày sáng sủa, coi được lắm. Vì vậy mà mấy thằng con trai ở xóm cứ lượn qua lượn lại hoài. Sợ không yên, tôi mới nói với tụi nó: “Trong mấy đứa bây, đứa nào thiệt lòng thương nó thì nói với cha mẹ lại đây, tao gả”. Có một đứa đưa cha mẹ đến hỏi. Tôi nói với nó: “Bữa nay có người đi hỏi con”. “Hỏi cái gì mẹ?” - “Hỏi cưới con về làm vợ” - “Con làm vợ?” - “Ừ” - “Chi vậy mẹ?” - “Gái lớn lên thì phải có chồng, trai lớn lên thì phải có vợ, chớ sao?” - “Chừng nào hở mẹ?” - “Nếu con ưng thì người ta sẽ đi hỏi, đám hỏi xong rồi thì người ta xin làm đám cưới”. - “Sao lâu quá vậy mẹ? Cưới tối nay được không?”. Nghe nói vậy, tôi cười ra nước mắt, không hiểu nó có biết vợ chồng là gì hay không nữa. Tội nghiệp quá!
Còn một số chưa được ai nhận, thì ủy ban cho họ ở với xóm nhà thờ trong làng, trong trường học và dưới mái nhà sàn của ông cha chờ người đến xin, đến lãnh, hàng trăm đứa.
Tò mò, anh Hoàng đánh xe chở tôi với thằng Sườn xuống xem.
Khi chiếc xe ngựa của chúng tôi dừng lại trước cửa nhà thờ, có hàng chục đứa từ trong các sân nhà đổ ra đường, vây lấy chiếc xe của chúng tôi, reo mừng với đôi mắt ngơ ngác.
- Ô! Xe Lui... - có một đứa kêu lên. Sau đó tôi mới hiểu, trong sách của chúng học, bên Pháp, thời vua Lui người ta cũng đi bằng xe ngựa.
Tôi nhớ những đứa trẻ ấy cùng với cây đàn pianô từ bên kia nhà thờ cù lao Giêng, chẳng biết ai đã mang sang, rồi vất bỏ ở đây, bên đường. Cây đàn pianô một bên trên lề, một bên trên bãi cỏ, ngả nghiêng. Cây pianô mở nắp, những cái phím nhỏ đen mun nêm trong hàng phím màu ngà. Những người đi qua đường, thuận tay gõ xuống một tiếng, tiếng đàn ngân lên, rồi tắt. Người khác đi qua, lại gõ xuống một tiếng. Thằng Sườn thích quá, liền nhảy xuống xe, khum hai bàn tay, đập rổn rảng, lung tung, nó vừa đập vừa quay mặt lại hỏi: “Hay không? Bài ca loạn lạc!” Nó đập, nó gõ đến sưng cả đầu ngón tay.
Cây đàn lại im lặng, nằm đó, bên đường, mở sẵn nắp.
Sau này, mỗi lần nghe tiếng đàn pianô dù ở đâu, lúc nào, tôi cũng chợt nhớ đến cây đàn pianô ấy, bên vệ đường, trước cửa nhà thờ, há mồm với mưa nắng, với sương đêm. Những ngày đầu Cách mạng ở làng, biết bao chuyện ngổn ngang.
Tàu chiến của Pháp neo lại giữa sông trên đầu cù lao, nã đại bác vào làng tôi lúc chợ vừa mới nhóm. Như ong vỡ tổ, người ở chợ dắt díu nhau chạy túa ra khắp các ngả đường.
Cha tôi, anh tôi ở lại giữ nhà với ngọn tầm vông. Chị tôi cõng thằng em út, tôi nắm hai tay hai đứa em, chạy xuống xóm vườn.
Chúng tôi không định ghé nhà ông Tư, vì chúng tôi hãy còn sợ ông và nhà ông gần chợ quá. Chúng tôi chạy xuống nhà ông Chín Hết, xa tầm súng hơn, và ông bà cũng thương chúng tôi hơn.
Chúng tôi đang cắm đầu cắm cổ chạy trong nỗi hoảng sợ, bỗng nghe tiếng hét:
- Chạy đâu?
Ông Tư tôi đang đứng bên lề đường, mắt ông trợn trừng:
- Vô nhà!
Thế là chị em chúng tôi phải tạt vào nhà.
Lạ lùng! Có một người không hề biết gì đến sợ hãi, như người ở một cõi khác, tiếng súng như không thể nào vang tới, ấy là bà cố của chúng tôi. Bà vẫn thơ thẩn trước sân, tay lần hạt chuỗi, môi mấp máy, lầm thầm. Và bà vẫn nhìn chúng tôi với đôi mắt hiền từ, và nụ cười như trải rộng trên gương mặt nhăn nheo của bà.
Sau một lúc bình tĩnh và ngồi thở, chúng tôi lại khoanh tay thưa bà. Mấy đứa em tôi lại chơi búng lỗ trong bóng cây vú sữa, quanh quẩn theo chân bà. Bà như đưa chị em tôi theo bà mỗi lúc mỗi xa, đến một nơi yên tĩnh trong cõi riêng của bà.
Trong ngày hôm ấy, sau những loạt đại bác nổ rùng cả mặt đất, chúng cho tàu nhỏ đổ quân lên chợ, chiếm lại nhà việc, chiếm lại bốt cò. Cho quân đổ lên nhà thờ cù lao Giêng, thu chiếm những tài sản còn lại. Sau này tôi nghe người lớn kể lại, chúng đã cho quân đập bể tất cả các chậu kiểng trong nhà thờ, lấy ra không biết bao nhiêu vàng, đưa xuống tàu. Và chúng đi lùng, đi gom những đứa con trong nhà thờ đang sống rải rác trong dân. Chúng bắt đi những đứa khỏe mạnh, bỏ lại những đứa trẻ tàn tật.
Qua ngày hôm sau, yên tiếng súng, chị em tôi kéo nhau trở về.
Cái bót cò cũng lại thằng cò Tây với lá cờ ba sắc. Cái nhà việc cũng lại những tên gọi hương cả, hương chủ...
Người vẫn đông, chợ vẫn nhóm nhưng tôi vẫn thấy thưa thớt, và trong tôi, vắng ngắt. Nhà tôi vắng đi hai người: chú tôi với anh. Người ra đi chẳng bao nhiêu nhưng toàn là những người tôi biết, tôi thân: chú Ba Giáo, chú Tư Khởi, anh Hoàng, cả thằng Sườn cũng đi. Cha tôi kể lại, khi quân Pháp cho tàu nhỏ chở quân từ đầu cù lao chạy vào chợ, chú Tư Khởi kéo quân lên cột dây thép đánh chặn đầu, quân của chú dàn ra theo mương vườn ngoài đầu doi. Quân của chú thì đông, nhưng súng chỉ có một cây, cây mút Nhật, dài nhằng. Còn tất cả thì tầm vông, giáo mác với phi tiêu.
Khi nghe tiếng súng của chú nổ, nó nổ lại hàng tràng và chạy tạt về phía bên kia bờ. Viên đạn của chú bay không tới. Đạn của chú cứ nhễu theo đít tàu. Ức quá, mỗi lần bóp cò là mỗi lần chú đẩy cây súng thẳng ra như muốn tiếp sức cho viên đạn xa hơn, nhưng viên đạn nhễu xuống mặt nước mỗi lúc mỗi đuối. Đạn hết, tàu chạy mất, chú đứng nhìn theo nó, đưa tay nắm chùm lông ngực, xoắn lại, như muốn xé cái lồng ngực của mình.
Tối hôm đó, chú cùng với anh em họp lại, xuống xuồng băng qua sông. Trong số đó có chú tôi, anh tôi, chú Ba Giáo, anh Hoàng, cả thằng Sườn cũng đi...
Nghe vậy, tôi chạy thẳng đến nhà chú, để xem con Ô với con Cu còn đó không. Tôi gặp thím Tư, má anh Hoàng, đang đổ bánh bèo ngọt dưới mái hiên trước nhà. Một người đàn bà gầy guộc, sắt lại như sợi mây đã phơi khô.
- Đi đâu đó Nhỏ? - Như không có chuyện gì xảy ra, thím vẫn bình thản như chú Tư và anh Hoàng vẫn còn ở đâu đó, trong nhà.
- Con Ô với con Cu đâu thím Tư?
Nhìn cái tàu lá trống hốc đã được dọn sạch và chiếc xe chỏng gọng, tôi đã đoán biết nhưng vẫn cứ hỏi.
- Con Ô với con Cu nó đi rồi, con ngồi xuống ăn bánh.
Con Ô với con Cu, nó cũng lại đi rồi. Tôi tưởng nó đang phi trong khói đạn trên cánh đồng cỏ xanh ngắt mênh mông của chiến trường. Nó sướng quá! Tôi buồn đến xốn xang. Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên bếp lửa. Thím xếp bánh cho tôi, bỗng ngước mắt nhìn tôi, chợt hỏi:
- Khói hay sao mà chảy nước mắt vậy con?
Không đợi tôi trả lời, thím cúi xuống, thổi phù phù. Ngọn lửa bung tròn lên theo khuôn bánh.