← Quay lại trang sách

- 16 -

Tôi được cùng anh Hoàng, thằng Sườn với anh tôi lên xe, chạy xuống xóm vườn để xin rơm. Bao giờ anh Hoàng cũng trao dây cương cho tôi, và tôi gặp lại con ngựa Cu, còn con Ô thì đã đưa qua mặt trận cho chú Tư Khởi.

Lâu lắm, từ ngày má tôi mất, tôi mới xuống nhà ông Tư tôi. Vì muốn xin rơm thì không thể không ghé nhà của ông. Tôi nhớ trước sân và sau hè nhà ông còn hai cây rơm rất to, vàng chóe. Cũng may, cái bến sông trước nhà ông Tư tôi đã thành cái bến đưa đón người ra trận, xuồng ghe tấp nập, và người ở hai đầu làng như đổ dồn về.

- Đi đâu đó, đồ chó đẻ?

Ông chửi hai anh em tôi, trợn mắt làm ra giận, nhưng tôi biết ông đang cười.

- Dạ, xin rơm cho mặt trận.

- Khoanh tay thưa bà cố, rồi muốn gì thì muốn.

Bà cố vẫn thơ thẩn trước bàn thông thiên, tay cầm chuỗi hột, lầm thầm khấn vái. Tôi với anh tôi khoanh tay thưa bà; anh Hoàng, thằng Sườn cũng bắt chước, thưa theo.

Ông Tư có vẻ vừa ý:

- Đó, rút bao nhiêu thì rút, đừng có dỡ nhà tao là được!

Vậy là bốn anh em nhào tới cây rơm, rút từng ôm mang ra, chất lên xe, rồi dẫn xe xuống bến, chuyển lên xuồng.

Ở đây tôi gặp lại rất nhiều người quen cũ xóm vườn. Những thằng bạn cũ thường rủ nhau đi tắm sông ngày hè, có cả chị Thảnh, chị Thơi, chị Thơm, chị Tho, những chị dạy tôi mò ốc gạo. Có cả ông Chín Hết và chú Nguyễn Đa Điền của tôi nữa. Ông Chín, với bộ râu hoe hoe đỏ lấm tấm mô hôi đang cầm tay lái; thấy chúng tôi, ông đưa cây dầm lên chào, khen chúng tôi:

- Giỏi á!

Chú Nguyễn Đa Điền, người tín đồ Hòa Hảo nổi tiếng giỏi võ ở làng, đeo bên hông một ngọn đao, đang đứng dưới bến, nước lên đến gối, thúc giục anh em tín đồ xuống xuồng. Xuồng nào vừa đủ người thì chú đưa hai tay bợ lấy cái lái xô ra, cái mũi của chiếc xuồng cui ào ra, hai bên rẽ hai đường sóng như cặp dây cương.

Nổi bật nhất là chú Tư Chía và con của chú, anh Trung. Lá cờ đỏ sao vàng vẫn cắm trong lưng áo, như một ông tướng trên sân khấu, chú tới lui, chỉ huy cả cái bến. Anh Trung cầm cái loa thiếc, sát cánh với chú, chú nói gì thì anh Trung lặp lại qua ống loa:

- A lô! A lô! Xuồng đó xô ra bến đi.

- A lô! A lô! Xuồng đó cho thêm một người nữa.

Không ai bầu chú làm chỉ huy, nhưng tất cả đều nghe theo, vì chú đưa hết cái trại xuồng xuống bến cho mặt trận, có hơn mười chiếc, vẫn còn thơm mùi gỗ, với mùi chai.

Mỗi người mỗi việc, lăng xăng, tới lui, hò hét, cười đùa, như từ trước đến nay không hề xảy ra điều gì xích mích, cũng không thấy ai phân biệt người nào thuộc đạo nào, mọi người đã cùng một lòng, chẳng khác gì dòng sông chỉ có một màu phù sa ngầu đỏ, mỗi lúc mỗi dâng đầy.

Rút hết cây rơm bên hông nhà ông Tư, đưa xuống bến, thì anh Hoàng, thằng Sườn với anh tôi xuống xuồng, qua mặt trận.

- Mầy qua làm gì, người ta đạp chết.

Anh tôi bảo tôi, còn anh Hoàng thì dỗ tôi:

- Nhỏ! Mầy đi nữa thì ai coi chiếc xe với con Cu. Bữa khác! Mầy cho con Cu nó về.

Anh Hoàng ngồi lái, anh tôi ngồi mũi, còn thằng Sườn thì ngồi ngất nghểu trên đống rơm. Xuồng xô ra bến, nó quay lại, đưa tay chào chọc tôi, bành cái miệng ra để cười, rồi cất tiếng “Một ra đi là không trở về”. Vừa hát nó vừa nhún trên đống rơm, chiếc xuồng cũng nhún theo, lướt tới trên mặt sóng.

Tôi dẫn con Cu ra mặt đường. Tôi với nó buồn như nhau. Con Ô đang bên kia, trên lưng là chú Tư Khởi, đang vươn mình sải dài trên mặt trận. Còn tôi với nó thì trở về. Nghe cái tiếng vó của con Cu gõ lóc cóc trên mặt đường, tôi tự hỏi mà không trả lời được, sao lúc này mình không phải là người lớn?

Tin vui từ mặt trận về: lính Nhật với cò Tây đã đầu hàng, cùng với một tin đau: anh Hai Quang, cảm tử quân, bị thương nặng.

Đúng như lời của anh Hoàng đã nói với cha tôi.

Rạng sáng, nhưng khói rơm vẫn mờ mịt như sương, anh Hai Quang phi thân qua bờ tường. Súng đeo vai, hông đeo lựu đạn chập chả và một lá cờ cắm sau lưng áo, anh vác chiếc thang xông thẳng đến một ngôi nhà lầu. Anh đặt thang vào tường, trèo lên, đút họng súng vào khe cửa sổ, bắn một loạt dài. Khi anh mở tung cửa lao vào thì anh bị chúng bắn trả lại. Dù bị thương, anh vẫn áp người vào khung cửa, rút lá cờ, vẫy gọi anh em.

Khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng đang phất phới trên khung cửa sổ của nhà lầu cùng tiếng gọi của anh thì như con sông ở làng đã đến lúc tràn bờ, người đứng bên ngoài bỗng dậy lên, người leo thang, người đưa lưng, kê vai cho người khác leo lên. Hàng ngàn con người, cùng một lúc, tràn lên, với giáo, với mác, gậy gộc, đao, kiếm, và gầm thét, đổ dồn về phía ngọn cờ trên tay anh Hai Quang.

Súng đạn mà chúng có, không thể giết hết được những con người đang tràn lên như sóng bủa. Một lá cờ trắng từ trong lầu thọc ra cửa sổ xin hàng.

Mấy tên lính Nhật, vợ chồng thằng cò Tây bị giải về tỉnh.

Còn anh Hai Quang, anh bị viên đạn xuyên qua bụng, lúc anh em chưa kịp đến, anh đã tự mình lấy chiếc khăn choàng tắm buộc thắt lại.

Anh được đưa về trên chiếc ca nô và được đưa vào ngôi nhà bên kia cầu sắt, trong khu vườn yên tĩnh râm bóng cây. Người lại chật đường, chật cầu, chật cả sân nhà, đến thăm anh.

Tôi không thể nào len vào nổi, chỉ đứng lóng ngóng bên ngoài, dưới gốc cây. Tôi nghe kể lại, vết thương nặng, không thể nào cứu chữa được, cơn đau dù dữ dội, anh vẫn không có một tiếng rên, gương mặt cũng không hề nhăn nhó, vẫn bình thản, và anh đã đưa tay nắm lấy bàn tay của người mẹ, và miệng nở một nụ cười hiền lành vốn có trên gương mặt lầm lì của anh trước hơi thở cuối cùng.

Và người mẹ như hài lòng trước sự hy sinh của anh, bà không khóc, bà đưa tay vuốt mặt con và cúi hôn vầng trán của con.

Thấy nhiều người quay trở ra lấy khăn chấm mắt, lặng lẽ bước xuống cầu thang thì tôi biết rồi.

Ghiếc quan tài của anh được phủ cờ đỏ sao vàng, đi trên chiếc xe ngựa với con ngựa bạch, từng bước đi trên con đường đá, có cả hàng ngàn con người lặng lẽ đưa tiễn anh.

Chú Ba Giáo đọc diễn văn, nói về cuộc đời của anh: “Anh Hai Quang sanh ra trong một gia đình nghèo. Lớn lên, anh bất mãn trước một xã hội nô lệ và bất công. Để trả thù đời, anh bước vào làng anh chị với một tấm lòng hào hiệp. Con người có tấm lòng như anh, khi gặp Cách mạng thì anh lại trở thành một chiến sĩ kiên cường. Anh đã vì Tổ quốc, vì “chết vinh hơn sống nhục” và xem cái chết tựa như lông hồng...”

Cái chết của anh đã trả lại cho anh tất cả cái phẩm giá cao quý của người.

Làng tôi, những người đang sống, từ bé cho đến lớn, người ta chỉ biết đến cái chết của tuổi già, của bịnh tật, chưa ai được chứng kiến cái chết của một người chiến sĩ ngoài mặt trận, vì Tổ quốc mà hy sinh.

Anh Hai Quang, anh là người đi đầu. Cái chết của anh gây xúc động đến từng lòng người.

Một buổi chiều tháng chín, sau những cơn mưa, cây cỏ hai bên đường mơn mởn, đậm đà với màu xanh muôn thuở của làng, rì rào cùng với lời khấn vái của người đi giữa lòng đường, với khói nhang nghi ngút.

Đưa anh Hai Quang đi rồi, trở về, cha tôi ngồi tựa lưng vào ghế trên thảo bạt, nhìn ra con sông, nói với những người bạn cũng đang lặng lẽ như cha tôi:

- Từ nhỏ đến giờ, ở làng mình, tôi chưa thấy một đám tang nào lớn như đám tang chiều nay. Lúc Hai Quang còn sống, ai biết được Hai Quang sẽ ra sao. Hơn bốn mươi tuổi đầu, tôi nghiệm thấy, cứ nhìn cái đám tang, mình có thể biết người ấy ra sao, phải không, mấy anh? Chiều nay, làng mình không phải chôn một xác chết mà đang gieo xuống một mầm sống. Kìa! Mấy người ở xa lại tới nữa kia...

Ngoài đường có thêm những tốp người, khăn đóng, áo dài, tay cầm nhang, vội vã đi về phía của anh.