- 19 -
Ê! Con ông chủ thợ bạc.
Buổi sáng sớm, tôi đang đứng lau cái tủ kính đựng đồ trang sức trước cửa tiệm, bỗng nghe có người gọi nhỏ phía sau lưng, tôi quay lại. Trời! Thằng Sườn! Nó như từ trên trời rơi xuống. Từ ngày nghe tin nó, đến nay đã gần nửa năm. Nó vừa gầy vừa đen, nhưng rắn rỏi hơn. Cũng điếu thuốc trên môi, nằm méo một bên.
- Về hồi nào?
- Hồi hôm, chuyến xe chiều, ngủ thớt thịt - nó vừa nói vừa nheo một con mắt. - Nhớ ai không mậy? - Nó hỏi.
- Ai?
- Anh Hoàng.
- Anh đâu?
Nó nhướn mắt cười, bí mật.
- Thư của bác Hai - nó đút vào túi trên tôi một tờ giấy mỏng. - Chiều nay mầy xuống đình chơi, tao chờ. Coi hát.
- Gánh hát về hồi nào, sao không nghe quảng cáo?
- Gánh hát Việt Minh, quảng cáo cho Tây nó bắn sao mậy?
Tôi nhìn nó kinh ngạc.
- Thiệt! Nhớ đưa thơ cho bác Hai. Chiều xuống tao chờ. Tao phải đi. - Nói vậy rồi nó quay đi.
Dân chợ có người nhận ra mặt nó, kêu hỏi:
- Ê Sườn, ở đâu về đó?
- Sài Gòn.
- Sài Gòn mầy ở đâu?
- Đường “Lơ pheo”.
- Làm ăn khá không?
- Khá! - Nó đáp mà không quay mặt lại với bất cứ ai, nó lẩn mất trong đám đông.
Tôi vội chạy về nhà, chốc chốc lại đưa tay sờ lên túi áo ngực, sợ mất lá thư.
Tôi trao thư cho cha tôi. Chẳng biết thư ai gởi và viết gì, mà chỉ thấy gương mặt của cha tôi như hồng lên theo từng dòng chữ, và khi cha tôi ngước lên, gương mặt cha tôi sáng rực rỡ.
- Ai đưa thơ cho con?
- Thằng Sườn!
Và tôi kể lại đầu đuôi lúc nó gặp tôi.
- Thơ ai vậy cha?
- Chú Ba mầy, anh em về rồi. Thằng Sườn coi vậy mà nên người.
- Chiều cha cho con xuống đình.
- Chi?
- Thằng Sườn hẹn.
- Chiều cơm nước xong, con đi sớm, ghé thăm bà cố.
- Dạ.
Thằng Sườn đứng đợi tôi ở sân đình. Trông nó vừa lạ vừa oai. Nó mặc áo sơ mi đen có quai, quần ka ki, thắt ngang lưng một sợi dây nịt lớn có khoen, và đeo lủng lẳng bên hông một trái lựu đạn tròn như trái mãng cầu.
- Hồi sáng, tao không nói được, phải nói dóc ở Sài Gòn về.
- Tao biết.
- Biết thì biết, nhưng đố mầy tao ở đâu về? Cho mầy hay, sau khi làng mình thất thủ, tao với anh mầy mới kéo về U Minh, lập chiến khu.
Thằng Sườn! Nó tả cái cảnh của chiến khu, tôi nghe như truyện thần thoại. Một cánh rừng mênh mông bạt ngàn với bao nhiêu thú dữ, nào cọp, nào rắn, nào muỗi. Cái dòng nước U Minh theo nó kể, nghe cũng lạ.
- Nước đỏ như máu, nhưng ngọt, ngọt hơn nước của sông mình, ngọt lịm như nước mưa. Tụi tao ngày đêm luyện tập. Đến lúc Cụ Hồ ký hiệp định 6/3 thì tụi tao được lịnh kéo quân trở về. Tụi tao vừa đi vừa đánh, “đụng đâu đánh đó”, hơn một tháng trời mới về tới đây. Nhờ Cụ Hồ kêu gọi đoàn kết mà mình với Hòa Hảo huề rồi, cùng nhau đoàn kết đánh Tây, cho nên bây giờ, tụi Tây nó chỉ chiếm mấy cái chợ, chợ tỉnh, chợ quận, chợ làng, còn trong đồng, trong ruộng, trong vườn thì mình hết. Mấy anh nói, đồn bốt của tụi nó như cái cồn ở giữa sông vậy thôi. Mầy biết tao về đây làm gì không?
Tôi lắc đầu.
- Tao đi trinh sát. Tao phải xem cái đồn ở chợ mình bây giờ ra sao, bao nhiêu lính, bao nhiêu súng, bao nhiêu lỗ châu mai, lỗ châu mai xoay về hướng nào. Mấy cái đó tao làm được hết. Nhưng tao không vẽ ra giấy được. Bây giờ tao nhờ tới mầy, mầy có học, mầy biết vẽ bản đồ, mầy vẽ giùm tao, được không?
- Được. - Tôi sốt sắng.
- Ê, làm gì mà dòm cái miệng của tao hoài vậy mầy. Lạ lắm à?
Tôi dòm cái miệng của nó, vì nó mới đi có mấy tháng mà cái miệng nó nói nhiều điều lạ quá, cái miệng của nó làm cho tôi vừa mê vừa phục vừa muốn được như nó. Và trước đây, lần nào gặp nó là cũng thấy điếu thuốc nằm méo một bên trên miệng nó, như sáng nay cũng vậy. Thế mà bây giờ, suốt cả câu chuyện của nó, tôi không thấy nó hút thuốc.
- Sao mầy không hút thuốc?
- Mầy dòm cái miệng tao là vậy hả? Sáng nay tao hút là để cho người ta đừng để ý, tao bỏ thuốc lâu rồi. Hồi ở chiến khu, thấy tao hút thuốc, mấy anh nói: “Cụ Hồ thấy thiếu niên mà hút thuốc như mầy, Cụ Hồ buồn lắm”. Nghe Cụ Hồ buồn, tao bỏ luôn.
- Mầy gặp Cụ Hồ chưa?
- Rồi.
- Ở đâu?
- Trong hình!
- Xạo!
Nó ngửa mặt cười ngất.
Đúng như thằng Sườn nói, đêm có hát đình. Nhưng không phải gánh Bầu Bòn hát tuồng Chung Vô Diệm như mọi năm, mà gánh mới với tuồng mới. Gánh “Cứu quốc kịch đoàn” với tuồng “Nợ Mê Linh”. Đêm hát không cần có xe chạy đi quảng cáo, mà người vẫn cứ đông. Trong đêm hát, tôi gặp lại rất nhiều người quen. Ở hàng ghế danh dự, tôi thấy có ông Tư tôi. (Ông được ngồi ghế danh dự là vì ông đang giữ chức Phó chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã). Để tả cái vẻ tự đắc của ông trong bộ ria vểnh với biệt danh Tư Ghe, có người xầm xì bên tai tôi: “Coi kìa, cái bộ ria của ông y như ông gác hai cái chèo chĩa lên trước mũi ghe”. Hàng ghế sau lưng ông là bà con tín đồ Hòa Hảo của xóm vườn. Chú Điền con ông Chín Hết của tôi thì mang gươm đi tuần, đi gác cho đêm hát.
Dưới ánh đèn “măng sông” với cái tiếng khè khè của ngọn lửa, khi tấm màn nhung đỏ kéo lên, người bước ra sân khấu đầu tiên, tưởng ai, hóa ra là chú Ba Giáo. Chú mặc áo bà ba đen, chiếc khăn rằn quấn qua cổ, chú cúi chào đồng bào rồi dõng dạc đọc lời kêu gọi đoàn kết kháng chiến của Cụ Hồ.
Người thứ hai bước ra giáo đầu tuồng lại chính là thầy Ngọc của tôi. Vừa bước ra sân khấu, cao lêu nghêu, cặp kiếng cận, với bộ râu giả nhếch lên nhếch xuống, thầy chưa nói gì cũng đã làm cho khán giả rộn lên, cười ngả nghiêng.
Người thứ ba, được giới thiệu là nam ca sĩ Hoài Phương Bắc, người mở đầu đêm kịch, tưởng là ca sĩ nào ở đâu tới, té ra anh On, người ở chợ, cả làng ai cũng biết mặt, biết tên, một anh con trai con nhà khá giả, cả dòng họ đều làm thầy thông, thầy ký, một anh chàng có gương mặt của một cô gái với nước da trắng hồng, nhưng lại có một bộ râu quai nón rất đàn ông, con người đào hoa có tiếng. Anh là đứa con trai đầu, số một, tên anh được đặt tên On theo tiếng Tây. Sau này nghe anh nói, anh đổi tên vì muốn từ bỏ cái tên Tây, và để tỏ lòng nhớ đến cội nguồn của tổ tiên, anh lấy cái tên có nghĩa nhớ về phương Bắc.
Anh cầm cây băng giô, vừa đàn, vừa hát, giọng của anh trầm ấm, quyến rũ, anh hát bài “Buồn tàn thu” theo lời mới do chú Ba Giáo soạn ra...
...Ta chiến tranh vì công lý
Sa trường hăng hái đi không về...
Khi anh xuống mùi với tiếng đàn của anh, khán giả chồm dậy, vỗ tay, reo hét ầm ĩ.
Vãn hát, khi mọi người ra về, tôi còn nán lại chờ thằng Sườn đưa đến thăm thầy, thăm chú Ba Giáo.
Sau khi biểu diễn, đoàn được bà con xóm Đình đãi ăn. Ăn uống xong, đoàn lại đàn, lại hát. Khuya quá, không về được, tôi đành phải ngủ lại với thằng Sườn, cùng một chiếc nóp sau lái ghe, dưới bến sông. Đó cũng là lần đầu tiên tôi đi chơi đến suốt sáng. Và cũng chỉ có một đêm đi vắng, khi tôi trở về, cái chợ làng tôi đã khác rồi. Truyền đơn bươm bướm với lời kêu gọi của Cụ Hồ rải dài theo mặt đường, rải trắng cả sân chợ, như phân phát cho mỗi người mỗi tờ, ai cũng cúi xuống nhặt lên cầm tay, chuyền cho nhau. Cờ đỏ sao vàng được dán khắp trên mặt tường trên đường phố. Trên đầu nhà dài chợ cũng mọc lên lá cờ đỏ sao vàng. Người ở chợ nếu không kề tai thì thầm thì trong ánh mắt cũng nói với nhau: “Cách mạng đã về rồi”.
Thằng cò Tây với bọn lính chạy cuống cuồng, còi báo động thổi “quen quét”...
Một hôm, tôi ngớ ngẩn thế nào mà cha tôi hỏi tôi:
- Con nói láp ráp cái gì như người mất hồn vậy?
Tôi có nói láp ráp cái gì đâu, tôi đang hát. Tôi lẩm nhẩm lại lời hát của anh On:
Ta chiến tranh vì công lý
Sa trường hăng hái đi không về...
Lời hát như men đang dậy lên trong tâm hồn tôi. Tôi luôn thấy tôi như thằng Sườn đang đi trong khói lửa của chiến trường.
- Con muốn đi phải không?
Tôi ngồi im, thú nhận, không dám nói.
- Nếu con muốn đi thì cha gởi con cho chú Ba Giáo. Đi, con phải nhớ, đi làm Cách mạng thì phải chịu cực, chịu khổ, phải hy sinh. Đã đi thì đi cho đến cùng không được bỏ giữa chừng, con nhớ là nhà mình không làm gì cho bà con khi dể. Con hiểu chưa?
-Dạ.
- Cha dặn thêm một điều nữa. Nay mai không thấy con, chắc có người hỏi, cha sẽ nói là con đi học. Ai hỏi con, con cũng nói vậy. Cha với chị em con còn ở đây. Con hiểu chưa?
- Dạ.
Vậy là tôi đi. Tôi đi sau buổi cơm chiều. Cha tôi, chị tôi và cả ba đứa em đều qua cây câu khỉ, đứng bên vệ đường, đón chiếc xe chiều đưa tôi xuống đình.
Tôi hăng hái đến nỗi, vui mừng đến nỗi không cần chiếc xe phải dừng lại. Người đánh xe vừa gò cương thì tôi đã nhảy lên, ngồi gọn trong lòng xe, và con ngựa lại bỏ vó sải dài. Tôi không biết gì đến nỗi lưu luyến của buổi chia tay, tôi không vẫy tay chào, cũng không quay đầu nhìn lại. Nào cha, nào chị, nào em đang nghĩ, làm gì bên vệ đường. Khi chiếc xe đưa tôi đi, tôi cũng không ngoái nhìn lại cây cầu, con kinh và cây xoài với ngôi nhà. Sau này nhớ lại, buổi chiều tôi đi là buổi chiều của mùa xoài đang đơm trái.
Ôi! Tôi đâu có ngờ, suốt cả đời tôi, mãi mãi, tôi không bao giờ còn nhìn lại được cây cầu khỉ bắc qua con kinh, cái sân nhà dưới bóng xoài và ngôi nhà sàn của tôi nữa.
Anh Hoàng trở về trên lưng ngựa giữa lúc tôi và các anh chị trong Đoàn thanh niên và phụ nữ xã đang ca hát và chơi trăng trước cửa đình.
- Ủy ban có ai đây không?
Anh vừa hỏi vừa tuột xuống lưng ngựa bên hàng dương. Hàng dương cũng đang ngả đầu vi vu reo hát theo từng cơn gió, và sóng trên con sông cũng từng đợt nối nhau tràn bờ, vỗ nhịp hòa theo.
Đình làng đã trở thành trụ sở ủy ban kháng chiến hành chánh xã, nhưng giờ này chẳng có ai.
- Chi vậy anh Hoàng? - Chị Nhẹ hỏi, chị là phụ nữ xã, một cô gái mười chín hai mươi, như cái tên của chị, một cô gái mảnh khảnh, đi đứng nhẹ nhàng và giọng nói cũng nhè nhẹ, ai cũng thích nghe.
- Bộ đội về.
- Ủy ban không có đây, để chị em phụ nữ tụi em lo, được không anh?
- Càng ngon!
Để hai người bàn việc xong, và khi chị Nhẹ cùng các chị trong nhóm ca hát chia nhau đi mượn nhà và lo cơm nước cho bộ đội, tôi mới bước tới anh. Tôi mừng anh, nhưng miệng lại gọi tên con ngựa của anh.
- Ô!
- Nhỏ hả? - Anh giật mình quay lại - Nghe gọi con Ô, tao biết là mầy.
Anh nghiêng mặt nhìn tôi, anh vẫn vậy, dù là ban đêm, trên đầu vẫn đội cái nón nỉ không vành.
- Nghe người ta nói tao đi tìm mầy không? Tao vừa đến thì mầy vừa đi, tìm đỏ con mắt không thấy đâu. Bữa nay không tìm mầy thì gặp mầy. Làm thơ ký hả, ngon há!
- Ngon sao bằng anh.
- Muốn ngon như tao thì lên đây, cho con Ô nó mừng - anh vừa nói vừa đỡ tôi lên lưng ngựa.
Tôi nghe lại cái mùi ngai ngái của con Ô, tôi đưa tay vỗ lên cái lưng đầm đìa mồ hôi của nó, và nó quay đầu lại, ngước cái mỏ, hí hí với tôi.
- Nghe thím Tư nói nó với con Cu theo anh về rừng hả anh?
- Má tao nói dóc với mầy đó. Làm sao dẫn nó theo được. Đêm tao đi, biết thế nào tụi Tây cũng vô bắt, ba tao mới đem gởi nó cho một người quen ở giữa đồng. Cái đêm tao với ba tao về, trời tối như mực, cái mũi của nó hơn mũi chó, mũi nó khịt khịt mấy cái, rồi nó cất hai cái chân trước lên, hí vang trời.
- Còn con Cu đâu?
- Con Cu nhỏ con, nhưng nó già hơn con Ô, ba tao để lại, cho nó nghỉ.
Tôi ngồi trên lưng con Ô, còn anh thì cầm dây cương, dẫn nó đi lọc cọc trên con đường đá.
- Anh lên đi - tôi vừa nói vừa ngả mình tuột xuống.
- Tao đi bộ, cho nó nghỉ. Mầy ngồi đó, tập cỡi một mình cho quen. Thằng nào có chữ như mầy cũng nhát, thằng nào cũng thích làm thơ ký, ngồi bàn giấy.
Tôi chột dạ:
- Tôi xin đi bộ đội mà mấy ổng không cho.
- Dóc.
- Thiệt.
- Từ ngày mầy đi tới giờ, mầy làm gì, kể tao nghe.
- Ngày tôi đi, theo ý của cha tôi, tôi sẽ theo chú Ba Giáo, trong Ban tuyên truyền quận. Nhưng xã không cho tôi đi, bắt tôi ở lại làm thơ ký.
- Đó, mầy thấy chưa. Cũng tại có chữ mới bị giữ lại. Còn như tao với thằng Sườn thì ai giữ. Ở xã, mầy làm thơ ký cho ai?
- Ai cũng được, ủy ban rồi Thanh niên với Phụ nữ, chỗ nào cần tôi ghi chép thì tôi làm. Ai cũng nói tôi viết chữ đẹp, cho đi uổng.
- Sao mầy không làm bộ dốt để người ta thả mầy đi?
- Làm sao biết được.
- Kể tiếp tao nghe.
- Tôi làm được một tháng thì chú Ba Giáo ở quận về. Chú nói sao đó, xã mới chịu cho tôi đi.
- Cũng làm thơ ký?
- Không làm thơ ký thì làm gì?
- Rồi sao, kể tiếp.
- Quanh quẩn trong văn phòng hoài, tôi chán, tôi xin đi bộ đội. Lúc đó, cơ quan tuyên truyền quận đóng gần Ban quân sự tỉnh đội, chỉ cách một cây cầu. Mấy chú trong Ban quân sự chê tôi nhỏ...
- Sao mầy không thêm tuổi?
- Sao không! Tôi kê lên hai tuổi là mười sáu, nhưng mấy chú không chê tuổi mà chê nhỏ con.
Anh không nói gì, vẫn đi bên lưng ngựa ngẫm nghĩ.
- Ừm! Mầy nhỏ con thiệt! Bây giờ mầy về đây làm gì?
- Mấy chú chê nhưng lại nói, nếu có giấy của cha mẹ đồng ý cho đi thì mấy chú nhận, nhưng cũng nhận ở văn phòng, làm thơ ký. Đâu cũng là thơ ký thôi, thà ở quận sướng hơn. Bữa nay tôi ở đây là vì cơ quan tuyên truyền về đây, làm mít tinh, diễn thuyết.
- Chú Ba Giáo đâu?
- Chú đi vô xóm, vận động bà con mai đi mít tinh.
- Mầy muốn đi vô bộ đội thiệt không?'
- Thiệt.
- Sợ chết không?
- Không.
- Vậy, mầy cứ theo tao.
- Chắc không?
- Sao không chắc mầy, Nhỏ? Tao nói cho mầy nghe. Đại đội của tỉnh mình có ba trung đội. Trung đội của ba tao có thằng Sườn đi liên lạc. Trung đội anh Oánh có thằng Ngọt. Còn bộ đội của tao, bộ đội anh Dũng, mầy biết chưa, không có thằng nhỏ nào, nên tao phải làm liên lạc. Mầy về mầy thế tao, để tao cầm súng, tao giao con Ô cho mầy. Ngon chưa?
- Ngon.
- Nhưng mầy phải nhớ, chút nữa bộ đội về, tao sẽ đưa mầy lên gặp anh Dũng, nếu anh Dũng hỏi mầy học tới đâu, mầy phải nói là mầy không biết chữ. Nếu mầy nói mầy biết chữ thì ổng sẽ đưa mầy tuốt lên văn phòng đại đội, làm thơ ký. Nghe chưa? Vậy là mai tao sẽ cầm súng, a ha...
Nói vậy rồi anh nhảy phóc lên con Ô, cúi rạp lên mình nó, vừa vỗ vừa vuốt ve con Ô.
- Ô ơi, mai tao cầm súng.
Con Ô lại quay đâu, ngước mỏ, hi hí với anh.