- 20 -
Tôi đứng trước mặt anh Dũng, người chỉ huy đơn vị, trước một sân nhà, bên bờ sông, dưới ánh trăng. Tôi ngạc nhiên vì người chỉ huy đơn vị không phải là một người vạm vỡ, đen đúa, tuổi không quá hăm lăm, và như một thư sinh. Người cao ráo trong bộ quân phục đen, vẻ thanh tú, nước da trắng hồng với mái tóc mềm mịn như tơ.
- Cậu học lớp mấy? - Anh nói giọng Bắc.
Nhớ lời anh Hoàng dặn, tôi nói dối:
- Dạ, chưa đi học.
Anh tròn hai mắt nhìn tôi:
- Bao nhiêu tuổi mà chưa đi học?
Tôi kê thêm một tuổi:
- Dạ, mười lăm.
- Mười lăm mà chưa biết chữ? Thế thì hỏng rồi, cậu ạ!
Tôi đưa mắt nhìn anh Hoàng, anh bối rối nhìn xuống đất.
- Đi liên lạc cho bộ đội mà không biết chữ, sao được? Tôi thí dụ cho cậu nghe. Tôi giao cho cậu một lá thư quan trọng. Đi giữa đường, cậu gặp Tây xét hỏi. Nếu cậu biết chữ, cậu mở ra đọc, rồi xé bỏ hoặc nhai nuốt, không còn lá thư trong tay, nhưng cậu vẫn nhớ, vẫn có thể truyền đạt tin tức hoặc mệnh lệnh của chỉ huy. Cậu không biết chữ, nếu cậu giữ lá thư, cậu sẽ bị bắt, địch sẽ nắm được bí mật của quân ta, nếu cậu thủ tiêu lá thư, thoát khỏi tay địch, thì tin tức hoặc mệnh lệnh không được truyền đạt đến nơi đến chốn. Nếu lá thư đó là thư hợp đồng chiến đấu thì cậu nghĩ xem, tai họa biết bao?
Tôi lại liếc nhìn anh Hoàng. Anh nhìn tôi, nheo mắt nói với anh Dũng:
- Thằng Sườn cũng không biết chữ.
- Thằng Sườn ở đơn vị khác. Nếu thằng Sườn ở đơn vị của anh, anh sẽ bắt nó đi học. Ơ kìa, nó! Vừa mới nhắc tới nó, nó lại tới.
Từ ngoài đường, thằng Sườn bước vào sân, nó rập chân đứng nghiêm, hai tay cầm lá thư, đưa cho anh Dũng:
- Thưa anh, thơ khẩn.
- Cho cậu nghỉ, chờ tôi.
Anh Dũng rút cây đèn pin, rọi lên lá thư. Đọc xong, anh ngẩng lên:
- Chúng ta chuẩn bị hành quân - Anh hướng vê tôi: - Chuyện của cậu, tôi sẽ giải quyết. Cậu ở lại, đi học.
May quá, thằng Sườn chẳng biết đầu đuôi ra sao, nghe đến chuyện đi học, nó buột miệng:
- Thằng này học giỏi lắm anh.
Anh Dũng vừa muốn quay vào nhà, nghe nói, anh khựng lại, tròn hai con mắt:
- Cậu nói gì? Ai học giỏi?
Thằng Sườn đưa một tay chỉ thẳng vô ngực tôi:
- Thằng nầy.
- Sao cậu biết?
- Bạn tôi mà. Anh nhớ cái bản đồ vẽ cái đồn ở chợ này không?
- Đánh giặc mà sao không nhớ?
- Nó vẽ đó.
- Thế à?
- Nó nhỏ vậy nhưng học cao lắm. Nó nói tiếng Tây như lặt rau. Hồi nó đi học, Tây phải trả lương cho nó đó anh.
- Thật chứ? - Anh Dũng hỏi tôi.
- Dạ.
Thằng Sườn như được nước, nói thêm:
- Minh, mầy nói một câu tiếng Tây cho ảnh nghe đi, Minh.
Tôi vừa sung sướng được nó cứu thoát, lại vừa mắc cỡ khi nghe bảo phải nói một câu tiếng Tây, tôi chỉ biết cười. Nó lại giục:
- Nói đi.
- Nói gì?
- Cứ nói tôi tên gì bằng tiếng Tây cho ảnh nghe.
- Thôi! - Anh Dũng đưa bàn tay phủi xuống. - Cậu nói thật cho tôi nghe cậu học đến lớp mấy.
Tôi thú thật việc học hành của tôi.
- Thế là cậu học hơn mình ba lớp. Hồi bé mình ham học lắm. Vì bố mẹ nghèo, phải đi phu cao su. Mình mơ ước, sau khi đánh thằng Tây, giành lại độc lập, dù lớn tuổi mình vẫn đi học. Nhưng mà này, sao cậu nói dối là cậu không biết chữ?
Tôi ấp úng. Anh Hoàng đỡ lời cho tôi:
- Dạ, tôi dặn nó.
- Sao thế?
Tôi sợ anh đưa nó lên văn phòng làm thơ ký.
Anh vỗ vai tôi, ngửa mặt lên trăng cười ngất.
Ngay trong đêm đó, tôi theo đơn vị của anh Dũng hành quân về xóm Cột dây thép. Nếu đi theo con đường đá chạy qua làng, chỉ đi bốn cây số, nhưng vì cái đồn Tây ở chợ, nên phải đi vòng qua cánh đồng. Đơn vị của chúng tôi là trung đội 12, thuộc đại đội 66 của tỉnh Long Châu Tiền, nhưng không ai nhớ đến con số của đơn vị; ngoài những công văn và giấy tờ, theo thói quen, mọi người đều gọi các đơn vị bằng cái tên của người chỉ huy: bộ đội anh Dũng, anh Tư Khởi...
Bộ đội của anh Dũng gồm có bốn tiểu đội, mỗi tiểu đội có mười hai chiến sĩ, có hai cây trung liên đầu bạc, ba cây tiểu liên, còn tất cả các chiến sĩ đều mang súng trường.
Tôi được ngồi trên lưng con Ô với anh Hoàng. Còn tất cả các chiến sĩ, kể cả anh Dũng, súng trên vai, nóp trên lưng, hành quân với hai bàn chân đất. Từng chiến sĩ nối theo nhau đi trên bờ ruộng ngoằn ngoèo, trên cánh đồng, dưới ánh trăng.
Lần đầu tiên trong đời, tôi có trong tay một vũ khí diệt thù. Đó là trái lựu đạn tròn như trái mãng cầu ta, trên đầu có cái chập chã do anh Hoàng chia cho.
Trái lựu đạn tôi cũng đeo ở bên hông như anh. Lạ! Khi bên hông tôi có một trái lựu đạn, tôi thấy tôi trở thành một người khác. Trái lựu đạn cho tôi sức mạnh hay là cái vũ khí diệt thù này đã chuyển dậy sức mạnh trong tôi?
Ngồi trên lưng con Ô sau anh Hoàng, người lắc lư, tay tôi sờ trên lựu đạn, người cứ thấy nôn nao. Tôi ngửa mặt nhìn trời, trời mênh mông ánh trăng, tôi nghe gió đồng thổi mát từng chân tóc, và ngực căng đầy hương lúa.
Tôi, mười bốn tuổi, nhưng tôi không còn là đứa trẻ mười bốn nữa. Với trái lựu đạn trong tay, tôi đã trở thành một người lính.
Và sau một đêm hành quân, qua một ngày hôm sau của đời lính, tôi đã xông vào trận đánh.
Chú Tư Khởi, ba anh Hoàng, cũng chỉ huy một trung đội như anh Dũng, trung đội chú đã về đến Cột dây thép từ đầu hôm. Trên đường hành quân, tôi hỏi anh Hoàng:
- Sao anh không ở bộ đội của chú Tư?
- Lúc đầu tao theo ổng chớ ai. Nhưng cha mà chỉ huy con, khó lắm, nên tao mới xin qua bộ đội anh Dũng. Với lại, chẳng lẽ bộ đội của ổng có tới hai thằng liên lạc, tao với thằng Sườn, còn bộ đội của anh Dũng thì chẳng có một thằng nào.
- Bây giờ có tôi nữa là hai, anh đi đâu?
- Tao đã nói với mày rồi, tao cầm súng. Thấy cây súng thèm thấy mẹ!
Đơn vị chúng tôi về Cột dây thép thì trời vừa đâm mây ngang. Thức trắng đêm nhưng không ai được ngủ. Tôi cũng một cái cuốc như ai, sát cánh với anh Hoàng, hì hục đào công sự. Công sự của trận địa nằm bên bờ mương, trong vườn cây dài theo bến sông.
Chú Tư Khởi gặp lại tôi khi chú đến bên công sự của anh Dũng bàn việc. Chú đưa hai tay ôm trọn lấy người tôi:
- Vậy là hai cha con chú mày cùng đánh trận.
Nghe nói, tôi tưởng cha tôi đang ở bộ đội của chú, cũng đâu đây.
- Cha cháu đâu chú?
- Cha mày ở chợ chớ ở đâu.
Tôi ngớ ra. Chú vỗ vai tôi:
- Sau nầy, cháu sẽ biết...
Hai người chỉ huy hai đơn vị đứng bên nhau trên bờ mương, dưới vòm cây, nhìn ra con sông. Một người già, một người trẻ, như hai cha con.
- Đồng chí Dũng! Làng này là làng của tôi. - Và chú kể lại lịch sử xóm Cột dây thép với đồng chí miền Bắc...
- Cái ngày bọn nó chạy tàu vô chiếm lại cái làng này, cũng ở đây, tôi chặn đầu nó, trong tay chỉ có một cái “mút”. Đạn của tôi cứ rơi sau cái đít tàu của nó, nghĩ lại vẫn còn tiếc.
- Thế thì, hôm nay, tôi với anh, liên quân của chúng ta sẽ đánh bọn chúng bằng sức mạnh lịch sử của quê hương, anh Tư nhé! Bọn chúng sẽ đền tội, sẽ chôn vùi dưới dòng sông này - anh Dũng, người chỉ huy trung đội tôi, vừa nói văn hoa và hùng hồn, vừa đưa quả đấm, đấm ra dòng sông đang chảy xiết.
Trận đánh đầu tiên trong đời lính Vệ quốc đoàn của tôi đã chiến thắng giòn giã.
Khi mặt trời lên khỏi rặng cây bên kia cù lao Giêng, mặt sông đầy ánh nắng, thì tất cả các họng súng cùng trút đạn vào con tàu chở hơn chục thằng lính lê dương từ chợ làng ngược nước về Chợ Mới.
Buồng máy bị bốc cháy ngay từ loạt đạn đầu, chúng không kịp cho tàu giạt qua bên kia bờ, cũng không kịp trở tay. Một số tránh được loạt đạn đầu, đã vùng nhảy ra, lao xuống con sông.
Và như anh Dũng, người chỉ huy của tôi - đã nói, chúng bị chôn vùi dưới dòng sông.
Một trận đánh mà sau nầy, mỗi lần nhắc lại, dân xóm Cột dây thép hãy còn hả hê.
Ba mươi năm sau, sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, tôi có dịp trở về xóm Cột dây thép vào ngày giỗ hội. Tôi được ngồi xếp bằng trên sàn gỗ của ngôi nhà trong vườn, bên sông, cùng với dân xóm. Một ông già có chòm râu cước, không nhận ra tôi, ông đã kể với tôi như kể cho một người khách lạ:
-... Tàu nháng lên, bốc cháy. Khi tụi nó nào quần, nào áo, nào mũ, nào súng, lao ra sông thì chiếc xuồng của tao từ trong bờ cũng đâm ra. Nó vừa ngoi đầu lên thì tao cũng vừa trở cái cán chèo, tao cốp xuống đầu nó. Nó vừa ục ục nổi lên, cái cán chèo của tao lại cốp. Bây giờ nhớ lại, tao còn thấy đã hai cái bàn tay. Nhưng không phải một mình tao đâu, nói vậy bà con hàng xóm người ta cười. Xóm này, hàng chục, hàng trăm chiếc xuồng đâm ra, dầm chèo đưa lên tua tủa. Không một thằng sống sót. Nè chú em, chú nên biết, lúc đó, bộ đội mình là bộ đội đánh du kích. Đánh xong rồi thì phải rút. Bọn nó hèn nhát. Chờ cho bộ đội rút hết, nó mới đem quân tới. Nó đi trên hai chiếc tàu sắt, từ Tân Châu đổ xuống, toàn là bọn lính lê dương. Nó đổ quân lên xóm nầy, nó càn, nó đốt, nó giết. Cháu ơi! Xóm nầy là xóm mộc, nó vừa bắn vừa đốt, ai dập nổi? Lửa cháy ngất trời. Chỉ có một buổi chiều thôi, mà nó giết cái xóm Cột dây thép hơn hai trăm con người... Cho nên ngày nầy, xóm Cột dây thép, nhà nào cũng làm đám giỗ, gọi là ngày giỗ hội đó cháu. Cháu đi dài theo xóm mà xem, nhà nào cũng khói hương nghi ngút.
Đơn vị chúng tôi, trên dưới năm mươi chiến sĩ, gương mặt khác nhau, tính nết khác nhau, mỗi người một cuộc đời riêng khác nhau, nhưng gắn bó trong tình đồng chí, đồng đội và êm ấm như một đàn con trong gia đình. Chúng tôi chia nhau từng miếng ăn, điếu thuốc, chia nhau từng niềm vui và nỗi buồn! Có anh, ngày đầu xin nhập ngũ, trên người anh chỉ có một cái quần đùi, đầu trần, lưng cũng trần. Liền sau đó, anh được đồng đội, người chia cho chiếc áo, người chia cho cái quần.
Đơn vị chúng tôi, một khối người gắn bó, súng trên vai, nóp trên lưng, và với hai bàn chân đất, cùng nhau hành quân đi tìm giặc khắp cả các làng hai bên bờ sông Tiền, khắp cả các làng dài dọc theo kinh rạch và khắp cả các cù lao trên giữa dòng sông. Chúng tôi đi ngày đi đêm, đi mưa đi nắng, đi trên các đường đất qua làng, đi trên bờ ruộng lầy lội, đi băng đồng trên những mảnh đất cày, đi xuống trên các rạch, con kinh, vượt qua sông lớn.
Chiếc nóp trên lưng thay cho giường chiếu và mùng mền. Với chiếc nóp, có khi ngủ cả trên sàn gỗ của những ngôi nhà sàn, có khi ngủ trước sân nhà, có khi ngủ dài theo bờ ruộng, và có khi ngủ cả trên xuồng giữa đồng nước dưới ánh trăng.
Dù ở đâu, chúng tôi cũng như những đứa con được trở về với xóm làng. Bậc cha, mẹ, anh, chị và các em đứng dài theo vệ đường, chào đón hoặc tiễn đưa. Các mẹ, các chị lo cho chúng tôi từng bữa cơm ngon. Các bà mẹ chiến sĩ và các chị hỏi chúng tôi:
- Bữa nay các con muốn ăn gì? Canh chua, cá kho hay là heo, là gà?
- Dạ, mấy má mấy chị cho gì ăn nấy.
- Nói vậy thì má hỏi mấy đứa con làm chi. Nghe nói mấy con ăn cá, ăn heo nhiều rồi. Bữa nay mấy con thắng trận trở về, mấy má làm cho các con một con bò.
Có người ở xa không kịp mang quà mừng chiến thắng cho đơn vị đã tìm cách chạy băng đồng, chặn đường hành quân của đơn vị, đứng dài theo bến sông, ném xuống từng chiếc xuồng chúng tôi nào thuốc, nào bánh.
Chúng tôi sống giữa lòng dân, êm ấm. Chúng tôi chỉ có mỗi một mơ ước: diệt thù và hy sinh cho Tổ quốc.
Cuộc đời Vệ quốc đoàn của tôi thật ngắn ngủi nhưng biết bao kỷ niệm, đủ cho tôi hiểu biết tình người, và cũng đủ cho tôi hiểu biết lòng nham hiểm và ác độc của kẻ thù. Từ đó, từng bước, với cuộc đời, tôi lớn lên với thời gian.
HẾT
.