← Quay lại trang sách

RĂNG CỦA CHÚNG MÌNH

Nghe thuật chuyện đời của chị nửa chừng thì ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu tôi. Được cho ăn thêm một nắm giận dữ nữa, nó nhanh chóng phình căng cho đến khi nổ thành cái câu, “Người ta nói sở dĩ thiên hạ cắn ta vì muốn nhắc nhở rằng ta cũng có răng. Suốt chục năm trời bị bỏ đói, đánh đập, xẻo da thịt, chôn sống bởi chính tay chồng, chị bỏ răng ở đâu, sao không cắn lại?”. Câu hỏi làm tôi áy náy đến mấy ngày sau.

Tôi cho là chị không thèm tự cứu mình. Giậm cẳng kêu trời, tôi thấy bức bối vì hàng xóm ở đâu, chính quyền ở đâu mà không bảo vệ một con người đang bị vùi dập tận đáy sâu, bị những nhục hình man dã. Giận vì cái ác nhơ nhởn trước mặt bao nhiêu người mà không ai ra tay nghĩa hiệp. Xã hội đã vô cảm đến mức này, đúng là không mong gì nữa. Nhưng chị có tự vớt đời chị chưa? Lúc chị đang kể đến đoạn chồng chém đứt gò má bằng dao phay, đâm mù mắt chị bằng cây đũa bếp, tôi nghĩ ngay ủa sao chị không bỏ đi, nắm níu gì. Thoát khỏi địa ngục cái đã, rồi tính sau.

Tôi muốn chị ngẩng đầu lên và nhìn trừng vào mắt kẻ thủ ác, dùng bất cứ gì có thể vớ được để chống đỡ đòn roi (giống như gã chồng cũng vớ được bất cứ gì trong tầm tay để ra roi đòn), hay ít ra chị cũng bỏ đi nếu nhắm cầm cự không nổi. Với bao nhiêu bạo hành trút xuống đầu mà khi nhìn lại, chị chỉ chép miệng, “tôi khổ dữ lắm cô ơi”. Câu đó làm tôi có cảm giác sau mỗi trận đòn, chị chỉ nghĩ

“má mình cũng bị ba đánh, rồi cũng quen thôi” hoặc “thân đàn bà con gái yếu nhớt như mình thì biết đi đâu”.

Cái huyệt mà chồng đào để chôn lấp chị, nó có miệng, chị biết sao không. Bầu trời ở trên đó thì rộng vô cùng, chị biết. Con kiến coi nhỏ vậy mà cũng biết cắn và cắn rất đau, chị biết. Chuột khiếp nhược trước con mèo thế nào, nhưng cũng biết cong đuôi bỏ chạy những khi bị đụng trận bất ngờ. Hồi nhỏ, không cần má dạy thì bản năng tự nhiên mình cũng biết tránh xa đám cháy, nhánh cây gãy. Chị không dám trèo lên khỏi miệng huyệt, vì không đoán được chồng đang thủ dao hay kéo ngồi chờ trên ấy, nhưng ít nhất chị phải nghĩ tới việc chống trả, vượt thoát dù chỉ một lần. Ý nghĩ là thứ sống dai, mình có bỏ đói thì nó cũng còn đó, bằng nuôi cầm chừng thì nó lớn lúc nào mình không hay. Chẳng nhất thiết đáp trả bằng bạo lực - lấy cuốc chim bổ vào da thịt để trả hận vết sẹo từ cuốc chim - nhưng chị cho chồng thấy vợ cũng biết phản kháng đó nghen, đừng tưởng. Đôi chân dù mảnh khảnh đến đâu cũng có thể đưa chị ra khỏi nhà, phía trước có là gì thì cũng không khủng khiếp bằng những trận đòn của chồng.

Không phải tự nhiên mà tôi nghĩ chị đã không yêu chính chị. Có yêu ngón tay đứt lìa, yêu dòng tóc bị xén tả tơi, chị sẽ bảo vệ chúng. Trời thì xa và chung quanh thiên hạ đang sấp ngửa kiếm ăn, bị vài ba vết sẹo đầu tiên chị cảm thấy không thể chờ đợi được, sẽ không ai chìa cánh tay ra đâu, ngay lúc ấy còn không biết tự cứu, thì thôi. Trong các lý do mà chị chịu đựng, chắc có cái gọi là “số mình nó vậy”, hay “chắc kiếp trước mình nợ ổng (chồng)”, hình dung ấy làm tôi tức thở.

Và câu hỏi bật ra, sao chị không cắn trả. Chị quệt nước mắt, vén những sợi tóc xác xơ lên lòi ra mấy cái sẹo dọc ngang trên mặt, hơi ngơ ngác, “răng hả, để cắn chỉ lúc vá áo cho tụi nhỏ thôi”.

Có cắn, thì cắn nhá âu yếm vào gáy người yêu, cắn tách vỏ bóc lấy thịt cua cho trẻ con ăn, cắn xem ổi chua hay chát, cắn hột lúa coi đã khô chưa, cắn đầu dây để cắt khoanh bánh tét cho đẹp cho đều.

Răng của người lành hiền đến tê dại như chị sao có thể làm thịt da bất cứ ai chảy máu. Tôi quên.Chị nhắc tôi nhớ ra mỗi người mỗi tính, mỗi nhà mỗi cảnh.

Và những người đàn bà (luôn cho rằng mình mạnh mẽ) như tôi, bỗng thấy chẳng làm được gì ngoài chuyện ngồi nghe chị kể chuyện cho vợi lòng, trong lúc chờ công lý của trời và của người còn đâu đó ngoài xa.

MƯƠNG RỘNG HÀO SÂU

Hồi đầu cũng không ai nghĩ tới chuyện làm một ranh giới giữa hai nhà.

Con mương được đào chỉ vì lúc lập vườn, người ta cần đất để lên liếp, đắp bờ, trồng mấy thứ cây ăn trái lâu năm. Mùa gặt, lần xuồng theo đường nước ấy chở lúa từ ngoài ruộng sau về sân phơi cũng tiện. Vậy là giữa hai khu vườn hai nóc gia có một con mương rộng chừng hai, ba thước tây, chạy dài đến hết đất.

Mương ranh.

Những thứ cây mọc hai bên bờ mương không quan tâm đó là biên giới, tầng lá đan vào nhau. Gốc ổi sẻ vườn kia vẫn vô tư rụng trái chín vườn này. Rau muống, cần nước mọc chen nhau, nhà nào muốn ăn nấy hái. Bầy gà cứ bay qua bay lại, bạ đâu đẻ đó, gốc chuối đống rơm, không quan tâm chuyện trứng nằm vườn nào mới phải. Giàn bầu, mướp vắt dây qua mương, trái phía đâu cũng thơm phức nồi canh nấu với tép đất. Đoạn giữa mương bắc cây tre hay thân so đũa cho tiện qua lại sẻ chia vài viên chè trôi nước, mượn ít tỏi tiêu những ngày chưa thể đi chợ xa, mà khỏi phải vòng ra lộ cái. Vườn dày cỏ tới cỡ nào, cũng có con đường mòn mà người hai nhà thường đi tắt để qua lại với nhau.

Và đám con nít cũng tự do như ong và chim, không coi con mương là thứ ngăn trở, bất tiện. Mùa khô, mương cạn lòng, không cần cầu tre, tụi nhỏ chỉ phóng vèo đã qua vườn khác. Lúc bà mẹ kêu ới đứa trẻ vẫn còn lăn lóc đất láng giềng, nhưng nó lên tiếng dạ thì đặt chân bờ liếp nhà mình. Vậy là tránh được tội “suốt ngày xách đít đi chơi bên xóm”. Thằng nhỏ nhà này cũng hay oằn nhánh bình bát cho con bé nhà kia hái trái chín đem dầm đường.

Gần tết nước giựt lộ nửa vách mương, mùa đìa. Tụi nhỏ hai nhà rủ rê nhau đắp chặn từng đoạn mương bắt cá. Lựa mấy con lóc, trê vàng lớn nhất đốt lửa nướng trui cùng ăn bên bờ mương, mớ cá còn lại chia đều cho hai căn bếp, bữa cơm cũng phải rủng rỉnh đến tận một tuần. Lá rụng vào mương cứ mỗi năm mỗi dày, hai nhà thay phiên đào một vài lớp bùn nhão bồi lên gốc dừa. Thứ đất tan chảy vào đâu, cây oằn nhánh sai trái ở đó.

Những con mương ranh cứ nằm thanh thản giữa bao nhiêu khu vườn miền Hạ, với cá trong lòng và bèo trên mặt nước, với tiếng trái rụng sau cú chao mình của lũ chim đêm, với những cuộc lại qua của con người bất chấp đôi bờ xa hơn một tầm tay với. Mương luôn bị vượt qua một cách dễ dàng, bằng cách người quăng kẻ bắt lấy những món bánh nhà quê thơm thảo, hay cú đu nhánh cây để búng mình sang bờ gọn bân của trẻ con. Gặp buổi cùng làm cỏ vườn, cuộc trò chuyện của người hai nhà không vì mương nước lạnh mà thôi giòn giã. Nhất là khoảng tháng tư cuối hạn khi lòng mương cạn tới đáy, cây mọc hoang dại hai bờ đã được đốn làm củi chụm, mương chỉ là một hõm đất trũng đến gà con cũng có thể băng qua.

Lúc ấy ai mà biết được đến một ngày, cũng những đứa trẻ ngày xưa, ai có gậy cầm gậy ai có dao cầm dao, máu vằn tia lên mắt, đứng hai bên bờ lăm le xông vào nhau chỉ vì cái ranh đất đổ bằng bê tông không thẳng. Xê dịch một tấc, nghĩa là được/mất một tấc vàng. Ông bà mình xưa giờ nói đâu trúng phóc đó, đâu có giỡn chơi.

Tên người không đổi, vẫn là Tư Chèo Bẻo, Sáu Đực, Út Lớn, nhưng thời gian và cuộc mưu sinh đã sắm cho đám trẻ xưa những gương mặt vằn vện, gai góc. Con mương ranh lâu rồi không còn ai đào đất bồi liếp, giờ cạn chỉ săm sắp nước vào mùa mưa. Mọi thứ phơi ra hết, nhưng khó mà tả được cái rộng, sâu của làn nước lạnh lẽo trong tâm tính con người.

Con mương ranh mà người hai nhà từng cùng tắm táp sau buổi làm đồng về, giờ họ cùng tắm hằn thù hung hiểm.