← Quay lại trang sách

MỘT CÁCH KHÓC

Bạn tìm được cây me nhỏ dưới chân bồn hoa ở con đường ven sông. Vào một ngày nắng nỏ, ai qua đây cũng bồi hồi, ngày mai người ta kéo cưa máy về để dọn sạch hàng dầu gần hai trăm năm tuổi. Dầu không đẻ me, nên cây mà bạn nhổ được chắc mọc tình cờ từ một hạt rớt rơi. Nhưng không sao cả, mai này nhìn nó, bạn sẽ nhớ một con đường một hàng cây.

Không sao, mười năm nữa cây con cũng vươn tàng ngả bóng. Cổ thụ thì cũng bắt đầu từ những cây nhỏ nhỏ như vầy, bạn nghĩ vậy. Nên vỉa hè trước nhà đã chật mớ cây mà bạn nhặt nhạnh từ những nơi có cổ thụ bị bức tử.

Có quá nhiều thứ để chia tay vào những ngày thành phố đâu đâu cũng tung tóe như một đại công trường.

Mầm chia ly lẫn trong khói bụi, những đào dỡ những san ủi, những bản vẽ quy hoạch trên giấy. Tính bạn đa sự mặc sức mà thương.

Nhưng qua rồi quãng bày tỏ thương bằng thơ, hay bằng chữ nhỏ ra trên giấy. Hồi người ta dẹp chợ Nhà Lầu cùng với công viên đằng trước nó lấy chỗ cho cao ốc sáu tầng mọc lên vắt bóng qua tận bên kia sông, trước khi xe ủi san phẳng, nhà chức trách tổ chức trưng cầu dân ý, một trăm người đòi giữ lại cả trăm. Phản hồi cột tin tháo dỡ chợ trên nhật báo có cả ngàn bạn đọc khác cũng bảo chợ là ký ức, linh hồn thành phố, thiếu cha gì chỗ để trồng tòa nhà lên, sao cứ phải trên xác chợ Nhà Lầu. Có người viết bài báo hàng ngàn chữ, nói chuyện bên tây bên tàu người ta nhã nhặn và nâng niu với ký ức ra sao.

Nhưng rốt cuộc, chợ cũng thành đống gạch vụn, vườn cây cổ thụ thành củi vụn. Hôm nhìn mấy chị tiểu thương nức nở khi cánh cửa chợ sập xuống, bạn nghĩ nước mắt đó đâu chỉ khóc cho cái chợ mà gần như cả cuộc đời họ neo theo, nó có bao nhiêu lam gió, có bao nhiêu chỗ dột, có bao nhiêu cây cột, thông thuộc còn hơn nhà mình. Họ còn khóc cho chính họ, bị tính như vắng mặt lâu rồi.

Nước mắt sẽ chẳng thay đổi được gì hết, có ai thấy chúng đâu.

Cũng không phải tự dưng mà bạn nghĩ ra chuyện trồng cây. Có lần đem sửa đồng hồ ở chỗ một anh thợ quen, anh nói hên quá, cô tới trễ chắc không biết đâu tìm, ngày mai tôi dời tủ đi nơi khác, tránh chỗ cho nhà nước bật gốc hàng me của khúc đường này.

Anh kể hổm rày người ta rần rần tới tiễn cây. Họ đi chậm rãi, ôm gốc cây, đưa điện thoại nhờ anh chụp hình. Có người còn rờ lớp vỏ cây đã rêu mốc, miệng láp nháp kể chuyện tình, hồi xưa tôi với bồ hay ra đây chơi, lần đầu hôn hít con gái run như đuôi thằn lằn đứt. Có người tần ngần đảo xe vài lượt mới chịu đi, làm bảo vệ mấy tòa nhà bên kia đường ngó lom lom, bởi tụi trộm cướp thường làm vậy.

“Thiên hạ quỡn thiệt, chắc là dư nước mắt”, anh thợ đồng hồ cười. Một cái cười hơi khó cắt nghĩa.

Chỉ chắc chắn là không quá nhiều cảm tình cho những ai tới ôm cây. Trước khi bám lề đường, anh cũng có hai năm kê tủ thợ bên hông chợ Nhà Lầu. Cái chợ đó được thương không thua gì hàng me này đâu, anh kể, lại cười.

Muốn hỏi sao anh có vẻ không ưa mấy nước mắt khóc cổ thụ khóc cái chợ cũ nát, thì anh đã lảng qua chuyện khác. Ông già sửa giày ngồi gốc cây bên kia không biết đau ốm gì mà cả tuần rồi không thấy ra. Thằng nhỏ thợ hồ hay ăn cơm hộp rồi dựa gốc me chợp mắt, bữa trước nghe nói té giàn giáo gãy chân, giờ không biết sao rồi. Lâu quá không thấy hai cha con ông đẩy chiếc xe bán nước mưa, ống quần lúc nào cũng ướt sũng.

Chuyện có vẻ rời rạc như cơm nguội phơi khô, như nhớ gì nói nấy. Những người quen anh thợ đồng hồ đang nhắc, coi bộ cũng không có mối liên hệ gì nhau, ngoài một điểm chung duy nhất: biến mất.

Không cặn bụi. Không dấu tích. Mà chẳng thấy ai thương níu như những gì dành cho cái chợ, đường tàu sắt cũ bị bỏ rơi, một ngọn núi nung vôi hay nay mai là hàng cây cổ thụ này. Hoặc có nhớ, thì cũng lẻ tẻ âm thầm, như anh nhớ họ. Mà anh đâu có biết viết báo, làm thơ.

Những thân phận đó không gây được cơn sóng nhớ tiếc nào, chắc anh thợ khóa nghĩ vậy, khi ngồi nhìn cuộc tiễn cây. Chắc từ khi nhật báo đăng tin con đường này sẽ phát quang nới rộng, anh chưa nhận được câu nào mang tính thăm hỏi kiểu như gốc cây anh đang dựa dẫm bị cưa trụi rồi, anh sẽ dời đi đâu?

“Đâu cũng được, nhưng phải chỗ có cây thì đỡ nắng”, câu trả lời đơn giản của anh thợ đồng hồ đưa bạn tới ý nghĩ kiếm cây về trồng.

Anh thợ sửa đồng hồ hay bà già bán chuối ngào đường đằng kia, họ cần bóng mát cho cuộc mưu sinh.

CHỢ TRÔI

Ghe nước đá sáng sớm nhắn vói hai bờ, bảo dân xóm Rạch khỏi chờ, Tám Lê sẽ không tới nữa. Chiếc ghe hàng bông cùng người đàn bà mặn mà đã mang thằng con của ông Sáu Lò Rèn đi mất. Nuốt không trôi cái sự thật con trai bỏ nhà theo tiếng gọi tình, ông già xách mác vót lục lọi nát mấy khúc sông. Nhưng nước sớm xóa dấu vết, phẳng lặng như chưa từng xước dưới lườn ghe. Kinh rạch thì giăng giăng, nếu may mắn bắt được đôi tình nhân so le, lúc đó chắc lưỡi dao cũng gỉ sét rồi, ông già còn biết làm gì người đàn bà lớn hơn con trai ông mười sáu tuổi, bưng một đứa trẻ ra và nói đây là cháu nội ba. Đành vái trời cho cái đời sống nổi trôi làm thằng con trai buồn chân nhớ đất mà tự trồi đầu về.

Cuộc trốn chạy làm đàn bà xóm Rạch nhốn nháo đến tuần sau. Chợ trôi không ngang qua, bữa ăn thiếu thịt. Ngó quanh chỉ tìm được mấy cái hột vịt kho ăn với mớ rau luộc hái sau nhà. Ít xà bông còn lại không đủ giặt mẻ quần áo trẻ con. Chai nước mắm cũng gần cạn đến đáy. Chợ xã thì xa, cách nửa giờ đò.

Mới hôm qua mọi chuyện vẫn còn dễ dàng, chỉ cần bước ra trước nhà ngoắc ghe Tám Lê ghé lại. Chiếc ghe tưởng nhỏ mà hỏi gì cũng có, từ thịt cá đến rau củ, từ cây kim tây cho tới thùng chứa nước mưa. Họa hoằn vài thứ không sẵn trên ghe, chủ chợ hẹn lại sáng mai mang tới. Bảy năm buôn bán rạch trên kinh dưới, chợ trôi đi theo sự chống chèo của người đàn bà đơn lẻ. Hỏi từ đâu tới thì chị kêu lên một địa danh lạ hoắc, hỏi chồng con đâu thì chị hát “Bến cũ đò xưa, sao người quên bến đò xưa/chiều yên tiếng gió mà nỉ non ai khóc một mình/anh buông chèo, chứ ai chèo em lái qua truông/dòng sông bát ngát mà lẻ loi trơ trọi dòng đời”. Bài Dòng đời bình thường Hương Lan ca đã rầu, qua giọng Tám Lê thêm phần chới với. Như cái sào cắm hụt chỗ nước sâu.

Con nít trong xóm trông ghe chị Tám Lê vì bánh kẹo, đồ chơi. Người lớn trông chị bởi thịt tươi rau giòn. Trí nhớ tốt, chị biết nhà nào nết ăn ở ra sao, gợi ý luôn hôm nay nên nấu món gì đổi bữa. Chiều chuộng giỏi, chị hay làm khách hàng cảm động khi dúi cho thêm củ khoai, dây buộc tóc. Buôn bán thẳng ngay, cá ươn thì chịu thiệt hôm qua ế ẩm, không lấp liếm nhiều lời. Ghe hàng bông của Tám Lê lấy lòng hết thảy đàn bà xóm Rạch. Những bữa khách kẹt tiền, chị cho thiếu chịu, “cứ để đó, thím có dọn nhà đi đâu được mà con lo”. Mưa nắng không làm tắt miệng cười rờ rỡ. Chỉ mắt là buồn, thằng con trai mới lớn một lần té vào đó chìm luôn, không thèm ngoi lên nữa.

Chiếc ghe hàng bông quen thuộc biến mất, cư dân xóm Rạch nhận ra nó cũng một phần của đời mình. Tám Lê đem tới nhiều hơn những món hàng chị chất trên ghe. Mỗi sáng chị mang theo những câu chuyện của chân trời - ngoài tỉnh hôm qua xảy ra vụ cháy chết người, bên cống Cả Giếng có con nhỏ bị đánh ghen, axít cháy cả mặt mày, hồi tối đoàn hát về xã, đào Mỹ Lan ăn một hơi bốn tô bún mắm, bụng bự vậy mới lấy được hơi dài.

Xóm Rạch thấy chân trời gần lại, sông nước không còn là thứ cản trở, đời sống xó quê bớt đi tẻ nhạt. Không biết có phải vì những câu chuyện tươi rói đó mà người ta hay nhớ Tám Lê, thường nhắc không biết giờ chị đang trôi chợ ở miệt nào. Ngay cả khi mấy ghe hàng bông khác đã trờ tới lấp đầy chỗ trống chị bỏ lại, hàng hóa của họ cũng tươi cũng thơm, cũng giòn chuyện đầu đồng cuối bãi.

Phải mất nhiều thời gian kẻ bán người mua thông thuộc cảnh nhà nhau, để nhắc “cá ngừ này thịt có phong, coi chừng thằng nhỏ nhà chị nổi mề đay”, “bữa trước chị nói ông chồng thèm thịt trâu xào khổ qua, nay em kiếm được thịt trâu tơ, rất mềm”, “sau này thím có bị chú đánh thì dấp nước lạnh cho đỡ sưng, chớ đàn bà mà mặt mày bầm tím, nhìn xót”. Đâu chỉ ân cần, dân xóm Rạch mấy lúc còn gặp phải ông già bán hàng bông hay nổi khùng khi ai đó hỏi mua ớt, “đất mênh mông vậy, sao không trồng lấy mà ăn?”.

Ông già có ba đứa con gái, đều gả lên bờ. Làm sui gia với người chợ trôi, đỡ phải lọ mọ đưa rước dâu. Ghe đậu dưới bến, cô dâu bước lên đã đến đất nhà chồng. Nhiều mối nhân duyên mà người dưới nước kẻ trên bờ gặp nhau hồi còn nhỏ, nói năng xẵng lè, má tao cho má mày tương. Hết xác ghe thì tụi nhỏ lớn lên, vẫn nói ngang phè không ngôi thứ, cho nắm tay cái coi.

Hết xác ghe, tuổi chợ được tính thêm chục năm, từng ấy tháng ngày bám từng khúc sông khúc xóm. Cực chẳng đã mới bỏ đi, như Tám Lê. Gầy dựng một mối thâm tình giữa kẻ bán người mua đâu dễ. Và đâu phải ngày một ngày hai mà người trên bờ nhắm mắt cũng đoán trúng phóc tên chủ ghe. Tiếng máy nổ xịt lụi như nghẹt mũi vầy là ghe hàng bông của vợ chồng Ba Chà. Vẳng tiếng Phượng Hằng ca hơi dài, ghe tạp hóa của hai má con Xíu Muội chớ đâu. Cái nết rao lơ lớ này là xuồng mắm của bà Cà Bụi không sai.

Nên dân xóm Rạch cứ lo ghe Tám Lê lén qua đây thể nào cũng bị bắt. Ai cũng biết chiếc ghe đó vẫn thường mở băng Hương Lan, tua đi tua lại bản Dòng đời. Mà ông Sáu Lò Rèn lúc rày hay bắc ghế ngồi canh chừng dưới bến, ngoắc những cái chợ trôi ghé lại, chỉ để hỏi có gặp thằng con ông không.

Nghĩ, người có đôi rồi, cái chợ trôi đó chắc không còn ca bài Dòng đời nữa.