← Quay lại trang sách

CORAZÓN

“Ai không bị sốc trước thuyết lượng tử thì chẳng hiểu gì về nó hết.”

NIELS BOHR, 1927

“Chẳng ai hiểu thuyết lượng tử hết.”

RICHARD FEYNMAN, 1967

*

Lẽ ra anh không bao giờ nên đi cái lối tắt ấy.

Dan Baker nhăn mặt khi chiếc xe Mercedes S500 mới cóng của mình chồm lên chồm xuống trên đoạn đường bẩn thỉu, tiến sâu vào khu định cư của người da đỏ Navajo ở vùng Bắc Arizona. Quanh họ, quang cảnh càng lúc càng cô quạnh: những vùng núi mặt bàn đỏ quạch xa xa về phía Đông, sa mạc phẳng lì kéo thẳng về hướng Tây. Một giờ trước, họ đã đi qua một ngôi làng – những ngôi nhà bụi bặm, nhà thờ và một ngôi trường nhỏ, co cụm lại trước vách đá – nhưng từ đó tới giờ, họ chẳng thấy gì hết, thậm chí một hàng rào cũng không. Chỉ có sa mạc đỏ vắng lặng. Họ không nhìn thấy bất cứ chiếc xe nào trong một giờ qua. Bây giờ đã là giữa trưa và mặt trời đang rọi thẳng xuống đầu họ. Baker, một nhà thầu xây dựng bốn mươi tuổi ở Phoenix, bắt đầu cảm thấy không thoải mái. Đặc biệt khi vợ anh, một kiến trúc sư, là típ người có đầu óc nghệ sĩ nhưng lại không có khả năng tính toán thực tế đối với những thứ như xăng và nước. Bình xăng của anh đã vơi một nửa. Và chiếc xe bắt đầu nóng lên.

“Liz,” anh nói, “em có chắc chúng ta đang đi đúng đường không?”

Ngồi bên cạnh anh, người vợ cúi rạp xuống tấm bản đồ, lấy ngón tay dò đường. “Chắc mà,” cô nói. “Sách hướng dẫn viết là bốn dặm sau khi ngoặt hướng thung lũng Corazon.”

“Nhưng chúng ta đã đi qua Corazon hai mươi phút trước. Chắc đi quá mất rồi.”

“Sao chúng ta có thể không nhìn thấy một trạm mậu dịch nào cơ chứ?” cô nói.

“Anh không biết.” Baker nhìn chằm chằm vào đoạn đường trước mặt. “Nhưng chẳng có gì ở đây hết. Em có chắc mình muốn làm việc này không? Anh muốn nói là, chúng ta có thể kiếm được những tấm thảm Navajo tuyệt vời ở Sedona. Họ có tất cả các loại thảm ở Sedona.”

“Ở Sedona,” cô khịt mũi, “không phải hàng xịn.”

“Dĩ nhiên là xịn, em yêu. Thảm nào chả là thảm.”

“Thảm dệt.”

“Được rồi,” anh thở dài. “Thảm dệt.”

“Không, chúng không giống nhau đâu,” cô nói. “Những cửa hàng Sedona đó chỉ bán toàn những thứ vớ vẩn dành cho khách du lịch – chúng là sợi tổng hợp chứ có phải len thật đâu. Em muốn những tấm người ta dệt bán ở khu định cư. Và có vẻ như ở trạm mậu dịch có một tấm thảm cổ họa tiết tranh cát từ những năm hai mươi, của Hosteen Klah. Em muốn có nó.”

“Được rồi, Liz.” Baker thì chẳng hiểu họ cần thêm một tấm thảm Navajo nữa – loại dệt tay – để làm gì cả. Họ đã có hai tá cái như thế rồi. Cô ấy trải nó ra khắp nhà. Và cả những cái gói ghém cất trong tủ nữa chứ.

Họ tiếp tục lái xe, không ai nói với ai câu gì. Con đường trước mặt như một mặt hồ bằng bạc lấp lánh trong cái nóng. Và ảo giác xuất hiện, nhà cửa hay người hiện ra trên đường, nhưng cứ lại gần là sẽ chẳng còn gì hết.

Dan Baker lại thở dài lần nữa. “Chắc chúng ta đã đi quá mất rồi.”

“Thêm vài cây nữa đi,” vợ anh nói.

“Bao nhiêu cây nữa?”

“Em không biết. Một chút nữa.”

“Bao nhiêu cây hả Liz? Em quyết xem chúng ta sẽ phải đi bao xa vì cái thứ đó đi nào.”

“Mười phút nữa,” cô nói.

“Được,” anh nói, “mười phút.”

Anh đang nhìn vào cái đồng hồ đo xăng thì Liz bịt tay lên miệng và nói, “Dan!” Baker ngẩng lên nhìn đường vừa kịp lúc anh nhìn một cái bóng vụt qua – một người đàn ông, mặc đồ nâu, ở bên lề đường – và nghe thấy một tiếng huỵch mạnh bên sườn xe

“Ôi Chúa ơi!” cô nói. “Chúng ta đâm vào anh ta mất rồi!”

“Cái gì?”

“Chúng ta đâm vào anh chàng đó rồi “

“Không, có đâm đâu. Chúng ta vừa đi vào ổ gà đấy.”

Từ gương chiếu hậu, Baker có thể nhìn thấy người đàn ông đó vẫn đang đứng bên lề đường. Một người mặc toàn đồ nâu, nhanh chóng biến mất trong đám mây bụi phía sau xe khi họ phóng vụt đi.

“Chúng ta không thể đâm vào người đó được,” Baker nói “Anh ta vẫn đang đứng kìa.”

“Dan, chúng ta đã đâm vào anh ta mà. Em thấy thế mà.”

“Anh không nghĩ vậy đâu, em yêu.”

Baker lại nhìn vào tấm gương chiếu hậu lần nữa. Nhưng giờ anh chẳng thấy gì trừ đống bụi mù ở phía sau chiếc xe.

“Chúng ta nên quay lại đi,” cô nói.

“Tại sao?”

Baker khá chắc chắn rằng vợ mình đã nhầm và họ không hề đâm vào người đàn ông bên đường kia. Nhưng nếu họ thực sự đã đâm vào anh ta, và dù anh ta chỉ bị sây sát thôi – một vết rách ở đầu, một vết trầy xước – thì điều đó có nghĩa là hành trình của họ sẽ bị trì hoãn một lúc lâu. Họ sẽ không thể về tới Phoenix trước hoàng hôn được. Chắc chắn kẻ nào ở chốn này đều là người Navajo; họ sẽ phải đưa anh ta tới bệnh viện, hay ít nhất cũng tới thị trấn gần nhất, Gallup, và nơi đó thì lại không nằm trong lộ trình của hai người…

“Em nghĩ anh muốn quay lại,” cô nói.

“Anh có muốn thật.”

“Vậy quay lại thôi.”

“Anh chỉ không muốn gặp phải bất cứ rắc rối nào thôi, Liz.”

“Dan, em không thể tin nổi anh lại thế đấy.”

Anh thở dài, cho xe chạy chậm lại. “Được rồi, anh đang quay xe đây. Anh đang quay xe đây.”

Anh vòng xe một cách cẩn thận để không bị kẹt vào đống cát đỏ bên vệ đường và quay lại chỗ họ vừa đi qua.

*

*

“Ôi Chúa ơi.”

Baker tấp vào lề, nhảy vào giữa đám bụi mù mịt bốc lên từ chiếc xe của mình. Anh thở hắt ra khi hứng luồng gió nóng kinh người phả vào mặt và người mình. Ngoài này phải 50 độ mất, anh nghĩ.

Khi bụi tan đi, anh nhìn thấy người đàn ông đang nằm bên lề đường, cố dùng khuỷu tay nâng người dậy. Người đàn ông khoảng bảy mươi tuổi đang run lẩy bẩy, đầu hói và râu ria lởm chởm. Da ông ta trắng, trông không giống người Navajo chút nào. Trang phục nâu của ông ta là kiểu áo thụng dài. Có lẽ ông ta là tu sĩ, Baker nghĩ.

“Ông không sao chứ?” Baker vừa nói vừa đỡ người đàn ông ngồi dậy trên đoạn đường đầy bụi cát.

Ông lão húng hắng ho. “Ừ. Tôi không sao.”

“Ông có muốn thử đứng dậy không?” anh hỏi. Anh nhẹ cả người khi không thấy máu me gì hết.

“Một phút nữa.”

Baker nhìn quanh. “Xe của ông đâu?” anh hỏi.

Người đàn ông lại ho. Đầu lờ đờ ngúc ngắc, ông ta nhìn chằm chằm vào con đường bụi đất.

“Dan, em nghĩ ông ấy bị thương rồi,” Liz nói.

“Ừ,” Baker nói. Ông lão thực sự trông rất bối rối. Baker lại nhìn quanh lần nữa: chẳng có gì ngoài sa mạc phẳng lặng tỏa ra bốn phía, cứ thế kéo dài mãi thành những lớp bụi mờ ảo.

Không có xe cộ. Không có gì hết.

“Sao ông ấy có thể đến đây được nhỉ?” anh hỏi.

“Thôi nào,” Liz nói, “chúng ta phải đưa ông ấy tới bệnh viện.”

Baker luồn tay xuống nách đỡ ông lão đứng dậy. Quần áo của ông ta rất nặng, làm bằng thứ gì như vải nỉ, nhưng ông ta lại không hề đổ mồ hôi vì nóng. Hóa ra người ông ta lại mát, có khi còn hơi lạnh.

Ông lão nặng nhọc tựa vào Baker khi họ băng qua đường. Liz mở cánh cửa xe phía sau. Ông lão nói, “Tôi đi được. Tôi đi được.”

“Được rồi. Tốt rồi.” Baker giúp ông ta ngồi vào băng ghế sau.

Ông lão nằm xuống tấm nệm da, cuộn tròn người lại, tư thế của một bào thai. Dưới lớp áo chùng, ông ta mặc đồ rất bình thường: quần bò, áo kẻ ca rô, giày Nike. Ông ta đóng cánh cửa lại, và Liz ngồi lại vào ghế trước. Baker lưỡng lự, ở lại bên ngoài giữa cái nóng như thiêu như đốt. Làm sao ông lão này lại có thể ra đây một mình được cơ chứ? Mặc cả đống đồ mà không hề đổ mồ hôi?

Cứ như ông ta vừa mới bước ra khỏi ô tô vậy.

Vậy có thể trước đó ông ta đang lái xe, Baker nghĩ thế. Có thể ông ta đã ngủ thiếp đi. Có thể chiếc xe của ông ta đã đi chệch đường và bị tai nạn. Có thể vẫn còn người đang bị kẹt trong xe.

Anh nghe tiếng ông lão lẩm bẩm, “Bỏ nó đó, nhấc nó lên. Quay lại mau, đem đi mau, và ra sao.”

Baker băng qua đường để nhìn cho rõ. Anh bước qua một cái ổ gà rất lớn, định chỉ cho vợ xem nhưng rồi lại quyết định không nói gì cả.

Anh không thấy có vết bánh xe ngoài lề đường nhưng có thể nhìn thấy rõ dấu chân của ông lão trên cát. Những vết chân từ mặt đường chạy ngược về phía sa mạc. Cách đó gần ba mươi mét, Baker nhìn thấy gờ một con lạch nhỏ, một khe suối cắt ngang. Những vết chân dường như xuất phát từ đó.

Thế là anh đi theo dấu chân về phía con lạch, đứng bên mép và nhìn xuống đáy. Chẳng có chiếc xe nào cả. Anh không thấy gì hết ngoại trừ một con rắn đang trườn ra khỏi đám đất đá chỗ anh đứng. Anh rùng mình.

Có gì đó trắng trắng phía dưới sườn dốc vài mét đang lấp lóe trong nắng. Baker trèo xuống để nhìn rõ hơn. Nó là một mảnh sứ trắng khoảng 6,5 xăng ti mét vuông. Nó giống một phần của tấm cách điện. Baker nhặt lên, ngạc nhiên khi thấy nó rất mát. Có lẽ nó là một trong những loại vật liệu mới không hấp thụ nhiệt.

Sau khi xem xét mảnh sứ kỹ hơn, anh thấy ba chữ cái ITC được đóng dấu vào một bên mép. Và có cái gì đó như nút bấm thụt vào một bên. Anh băn khoăn không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình ấn nút. Đứng giữa trời nắng, với những tảng đá lăn khổng lồ tròn nhẵn bao quanh, anh ấn nút.

Chẳng có gì xảy ra.

Anh ấn lần nữa. Cũng chẳng có gì hết.

Baker trèo ra khỏi khe suối và quay lại chỗ chiếc xe. Ông lão đang ngủ và ngáy vang. Liz đang ngồi nhìn bản đồ. “Thị trấn lớn gần nhất là Gallup.”

Baker khởi động máy. “Gallup thẳng tiến.”

*

*

Quay lại trục đường cao tốc chính, họ đi nhanh hơn, thẳng hướng Nam tới Gallup. Ông lão vẫn đang ngủ. Liz nhìn ông ta và nói, “Dan…”

“Gì cơ?”

“Anh nhìn thấy tay ông ấy chưa?”

“Chúng thì có gì?”

“Đầu ngón tay ấy.”

Baker thôi nhìn đường, liếc nhanh ra phía ghế sau. Những ngón tay của ông lão đỏ tới tận đốt thứ hai. “Thì sao em? Ông ấy bị cháy nắng,”

“Chỉ đầu ngón tay thôi à? Sao không phải là cả bàn tay?”

Baker nhún vai.

“Những ngón tay của ông ấy lúc trước không thế đâu,” cô nói. “Chúng đâu có đỏ khi chúng ta gặp ông ấy.”

“Em yêu, có lẽ lúc ấy em chưa để ý thôi.”

“Em có để ý mà, vì ông ấy có tỉa móng tay. Và em nghĩ một ông lão giữa sa mạc lại còn tỉa móng tay cũng là một chuyện khá thú vị đấy.”

“Ừ hứ.” Baker liếc nhìn đồng hồ. Anh băn khoăn không biết rồi họ sẽ phải ở lại bệnh viện tại Gallup trong bao lâu. Có lẽ phải mất vài tiếng.

Anh thở dài.

Con đường vẫn thẳng tắp trước mặt

*

Nửa đường tới Gallup, ông lão tỉnh dậy. Ông ta húng hắng ho và nói, “Chúng ta đã tới nơi chưa? Chúng ta đang… ở đâu vậy?”

“Ông cảm thấy sao?” Liz hỏi.

“Cảm thấy sao à? Tôi đang thấy nhiều sao lắm. Ổn, tôi khá ổn.”

“Tên ông là gì?” Liz hỏi.

Người đàn ông chớp mắt nhìn cô. “Điện thoại dở hơi khiến ta rong chơi.”

“Nhưng tên ông là gì?”

Người đàn ông lại nói, “Tên như nhau, đổ lỗi thật mau.”

Baker nói, “Ông ấy nói mọi thứ thành vần điệu hết.”

Cô nói, “Em có để ý thấy mà, Dan.”

“Anh đã xem một chương trình ti vi về chủ đề này,” Baker nói “Nói vần mọi thứ kiểu này tức là ông ta bị tâm thần phân liệt rồi.”

“Vần nhịp đang bắt kịp,” ông lão nói. Và rồi ông ta bắt đầu hát tướng lên, gần như đang gào lên giai điệu một bài hát của John Denver:

“Điện thoại dở hơi khiến ta rong chơi,

tới nơi ta thuộc về,

đến dãy Black Rocky xưa, đường mòn chốn cũ,

điện thoại dở hơi, nó đang rong chơi.”4

“Ôi trời,” Baker nói.

“Thưa ông,” Liz nói lại, “ông có thể cho chúng tôi biết tên được không?”

“Niobi nguyên tố có thể gây tủi hổ. Những gián đoạn khủng khiếp, công bằng không đất diễn.”

Baker thở dài. “Em yêu, lão này điên rồi.”

“Một tên điên có gọi thế nào thì cũng vẫn bốc mùi thôi.”

Nhưng vợ anh vẫn chưa chịu thua. “Thưa ông, ông có biết tên mình không?”

“Gọi Gordon,” ông lão nói, giờ gần như hét lên. “Gọi Gordon, gọi Stanley. Giữ cho gia đình mê li.”

“Nhưng thưa ông…”

“Liz,” Baker nói, “kệ ông ta đi. Cứ kệ ông ta, được không? Chúng ta còn phải đi xa lắm đấy’.’

Ông lão hát rống lên: “Nơi chốn tôi thuộc về, ma thuật xưa hắc ám, nỗi đau như đưa đám, đất nước sục sôi, tiếng kêu rền rĩ đã vang lên rồi.” Và ngay lập tức, ông ta ca lại cái bài ấy.

“Còn bao xa nữa?” Liz nói.

“Đừng hỏi anh.”

*

*

Do đã gọi điện trước nên lúc anh đỗ chiếc xe Mercedes dưới cái ô đỏ cam ở khu cấp cứu của Bệnh viện McKinley, hộ lý đã khiêng cáng đợi sẵn. Ông lão nằm yên khi được chuyển lên cáng, nhưng ngay khi bắt đầu bị nẹp lại, ông ta lập tức nổi điên và quát tháo ầm ĩ, “Cởi trói cho ta, cởi trói cho ta!”

“Chúng tôi làm thế vì sự an toàn của ngài thôi, thưa ngài.” Một trong những hộ lý nói.

“Nói nữa đi, biến khỏi đường ta đi! An toàn là chỗ trú ẩn cuối cùng của bọn côn đồ!”

Baker rất ấn tượng với cách đội ngũ nhân viên xử lý ông lão, nhẹ nhàng nhưng vẫn rất cứng rắn, họ nẹp chặt ông ta xuống. Anh cũng ấn tượng không kém một người phụ nữ tóc đen nhỏ nhắn mặc áo khoác trắng đang bước vào cùng với họ. “Tôi là Beverly Tsosie,” cô nói và bắt tay với họ. “Tôi là bác sĩ trực.” Cô rất bình tĩnh, dù người đàn ông đang nằm trên cáng vẫn tiếp tục gào thét khi họ cố đẩy ông ta vào phòng cấp cứu. “Điện thoại dở hơi khiến ta rong chơi…”

Tất cả mọi người trong phòng chờ đều nhìn chằm chằm vào ông ta. Baker thấy một cậu bé khoảng mười, mười một tuổi gì đó, tay đeo băng, ngồi trên ghế với mẹ, tò mò nhìn ông lão. Cậu bé thì thầm gì đó với mẹ mình.

Ông lão hát, “Tới nơơơơơi ta thuộộộộộc vềềềềềềềềề…”

Bác sĩ Tsosie nói, “Ông ấy bị thế này bao lâu rồi?”

“Ngay từ lúc đầu. Từ khi chúng tôi đón ông ấy.”

“Trừ lúc ông ấy ngủ,” Liz nói.

“Ông ấy có bị bất tỉnh lúc nào không?”

“Không.”

“Có buồn nôn, nôn mửa gì không?”

“Không.”

“Và hai người đã tìm thấy ông ấy ở đâu? Đã qua thung lũng Corazon chưa?”

“Qua khoảng mười, mười mấy cây.”

“Không xa lắm nhỉ?” cô nói.

“Cô biết chỗ đó à?” Baker nói.

“Tôi lớn lên ở gần đấy mà.” Cô nhoẻn miệng cười. “Chinle.”

Họ đẩy ông lão vẫn đang gào thét qua một cánh cửa xoay. Bác sĩ Tsosie nói, “Mọi người đợi ở đây, tôi sẽ quay lại ngay khi có thông tin gì đó. Có lẽ sẽ khá lâu đấy. Chắc hai người sẽ muốn đi ăn trưa cái đã.”

*

*

Beverly Tsosie thuộc biên chế Bệnh viện Đại học ở Albuquerque, nhưng gần đây mỗi tuần cô lại đến Gallup hai ngày để chăm bà ngoại mình, và trong hai ngày đó cô làm ca ở khu cấp cứu của Bệnh viện McKinley để kiếm thêm chút tiền. Cô thích McKinley với ngoại thất hiện đại sơn đỏ chói và sọc màu kem. Bệnh viện này rất tận tụy phục vụ cộng đồng. Và cô cũng thích Gallup, một thành phố nhỏ hơn Albuquerque, nơi cô cảm thấy thoải mái với gốc gác bộ lạc của mình.

Hầu hết các ngày trong tuần, khu cấp cứu luôn yên tĩnh. Chính vì thế, sự có mặt của ông lão tức tối và quát tháo này đã gây ra sự huyên náo. Cô đi xuyên qua rèm vào trong căn phòng nhỏ, hộ lý đã cởi chiếc áo chùng nâu và đôi giày Nike của ông lão ra. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục vùng vẫy, đánh lại họ, nên họ vẫn phải nẹp chặt ông ta lại. Họ đang cố cắt cái quần bò và cái áo kẻ ca rô của ông ta ra.

Nancy Hood, y tá trưởng, nói rằng cũng chẳng vấn đề gì vì áo ông ta cũng đã rách to rồi; dọc túi áo có một đường dích dắc lởm chởm chẳng ăn nhập gì hết. “Ông ta đã xé nó ra và khâu lại. Nếu ai có hỏi thì tôi cũng nói luôn, làm chẳng ra đâu vào đâu hết.”

“Không,” một nhân viên y tế nói, giơ chiếc áo lên. “Nó không hề được khâu lại, nó là một mảnh vải nguyên đấy. Kỳ cục nhỉ, đường sợi vải không liền mạch vì một bên lớn hơn bên còn lại…”

“Gì cũng được, ông ta cũng chẳng tiếc nó đâu,” Nancy Hood nói, ném nó lên sàn nhà. Cô quay sang Tsosie. “Cô có muốn thử kiểm tra ông ta không?”

Ông lão quá điên cuồng. “Chưa cần. Tiêm tĩnh mạch vào hai cánh tay đã. Và soát túi ông ấy. Xem xem ông ấy có thứ gì để nhận dạng được không. Nếu không có gì, lấy mẫu vân tay của ông ấy và fax đến Washington; có lẽ sẽ có dữ liệu về ông ấy ở đó.”

Hai mươi phút sau, Beverly Tsosie ngồi kiểm tra một cậu bé bị gãy tay khi trượt về chốt ba5. Cậu bé đeo kính, trông như mọt sách và có vẻ rất tự hào về chấn thương thể thao của mình.

Nancy Hood tới và nói, “Chúng tôi đã lục soát ông già.”

“Và?”

“Chẳng có gì hết. Không ví, không thẻ tín dụng, không chìa khóa. Thứ duy nhất trên người ông ta là thứ này.” Cô đưa cho Beverly một mẩu giấy được gập lại. Nó trông giống một bản in từ máy tính, trên đó là những dấu chấm kỳ lạ sắp xếp như một lưới tọa độ. Phía dưới viết ‘mon.ste.mere’.

“ ‘Monstemere’? Cô có hiểu nó có nghĩa gì không?”

Nancy lắc đầu: “Cô hỏi thì tôi trả lời luôn là ông ta bị thần kinh.”

Beverly Tsosie nói, “Chẹp, tôi không thể gây mê ông ta trước khi chúng ta biết được chuyện gì đang diễn ra trong cái đầu đó. Tốt nhất là chụp sọ để kiểm tra chấn thương và tụ máu não.”

“Hệ thống chụp X-quang đang được sửa chữa, nhớ chứ, Beverly? Chờ chụp được X-quang là hết đời luôn ấy. Sao không chụp MRI? Quét toàn thân, ta sẽ có thông tin tổng thể.”

“Được,” Tsosie nói.

Nancy Hood quay ra cửa. “Ô, ngạc nhiên chưa. Jimmy bên cảnh sát đến rồi này.”

*

*

Dan Baker đang rất sốt ruột. Đúng như anh đã dự đoán, họ sẽ phải ngồi quanh quẩn cái phòng chờ của Bệnh viện McKinley hàng giờ. Sau khi ăn trưa – bánh bột nhân thịt burrito rưới tương ớt – họ quay lại và gặp một viên cảnh sát ở bãi đậu xe, đang kiểm tra xe mình, lướt những ngón tay lên cánh cửa bên. Chỉ nhìn thấy anh ta thôi, Baker đã rùng mình. Anh định đi ra chỗ anh cảnh sát nhưng lại thôi. Thay vào đó, họ cùng nhau quay trở lại phòng chờ. Anh gọi cho con gái nói rằng họ sẽ về muộn; thực tế, khả năng cao là phải mai họ mới về Phoenix được.

Và họ cứ đợi. Cuối cùng, đến khoảng bốn giờ, khi Baker ra chỗ bàn làm việc hỏi về tình hình ông lão, người phụ nữ nói, “Anh có phải người thân của ông ấy không?”

“Không, nhưng…”

“Vậy xin hãy ngồi kia đợi. Bác sĩ sẽ ra tiếp anh ngay thôi.”

Anh quay lại và ngồi xuống, thở dài. Anh lại đứng dậy, đi ra chỗ cửa sổ, nhìn về phía chiếc xe của mình. Viên cảnh sát đã đi, nhưng giờ có một tấm giấy bay phấp phới bên dưới cần gạt nước trên kính chắn gió. Baker gõ gõ ngón tay lên bậu cửa sổ. Ở những thị trấn bé nhỏ kiểu này, một khi anh dính vào rắc rối rồi thì chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. Càng đợi lâu, tâm trí anh càng quay cuồng với đủ thứ viễn cảnh. Ông lão bị hôn mê; họ sẽ không thể rời thị trấn cho đến khi ông ta tỉnh lại. Ông lão chết; họ bị kết tội giết người. Họ không bị kết tội nhưng bị thẩm tra trong vòng bốn ngày nữa.

Cuối cùng cũng có người ra nói chuyện với họ, không phải là cô bác sĩ bé nhỏ mà là viên cảnh sát. Một anh cảnh sát trẻ tuổi khoảng ngoài hai mươi, mặc bộ cảnh phục chỉn chu gọn ghẽ. Anh ta tóc dài, và trên tấm bảng tên ghi JAMES WAUNEKA. Baker băn khoăn không biết tên thế là kiểu gì. Có lẽ cậu ta là người Navajo hay Hopi gì đó.

“Ông bà Baker?” Wauneka rất lịch sự, tự giới thiệu bản thân. “Tôi vừa ở chỗ cô bác sĩ. Cô ấy đã kiểm tra xong, và kết quả chụp MRI đã có rồi. Hoàn toàn không hề có dấu hiệu là ông ấy đã bị xe tông. Và tôi cũng đã ra kiểm tra xe của ông. Không có vết đụng. Tôi nghĩ ông đã đi vào ổ gà nhưng lại tưởng là tông trúng ông ấy. Đường ngoài đó khá xấu.”

Baker liếc vợ nhưng cô không chịu nhìn vào mắt anh. Liz nói, “Ông ấy sẽ ổn chứ?”

“Có vẻ thế, vâng.”

“Thế chúng tôi có thể đi được rồi chứ?” Baker nói.

“Anh yêu,” cô nói, “anh không định đưa cho cậu ấy thứ anh tìm được à?”

“Ồ, có chứ.” Baker lôi mảnh sứ vuông nhỏ bé ấy ra. “Tôi đã tìm thấy thứ này, gần chỗ gặp ông ấy.”

Viên cảnh sát lật lật mảnh sứ trên tay. “ITC,” anh ta đọc chữ khắc trên mặt. “Chính xác là ông đã tìm được thứ này ở đâu?”

“Cách đường gần ba mươi mét. Tôi đã nghĩ có lẽ ông ta đã ở trong một chiếc xe nào đó bị trệch đường nên tôi ra xem thử. Nhưng ở đó chẳng có chiếc xe nào hết.”

“Còn gì khác nữa không?”

“Không. Hết rồi.”

“Vâng, cảm ơn ông,” Wauneka nói, cho miếng sứ vào túi. Và rồi anh ta dừng lại, “Ôi, suýt nữa tôi quên mất.” Anh ta lấy một mẩu giấy ra khỏi túi áo và cẩn thận mở nó ra. “Chúng tôi đã tìm thấy thứ này trong chỗ quần áo của ông ấy. Tôi không biết ông đã thấy nó chưa?”

.

Baker liếc nhìn tờ giấy: một đống những dấu chấm được sắp xếp giống như lưới tọa độ. “Không,” anh nói. “Tôi chưa thấy nó bao giờ.”

“Ông không đưa nó cho ông ấy đấy chứ?”

“Không.”

“Ông có nghĩ ra thứ này là gì không?”

“Không,” Baker nói. “Tôi chẳng biết nó là cái gì nữa”

“Ồ, tôi nghĩ là tôi biết,” cô vợ nói.

“Bà biết ạ?” viên cảnh sát nói.

“Phải,” cô nói. “Cảm phiền anh, ừm…” Và cô lấy mẩu giấy từ tay anh cảnh sát.

Baker thở dài. Giờ Liz nhập vai cô kiến trúc sư chớp chớp mắt quan sát tờ giấy, xem xét nó một cách thận trọng, lật đi lật lại, nhìn những cái chấm từ trên xuống dưới rồi từ hai bên. Baker biết tại sao. Cô đang cố lảng tránh sự thật rằng cô đã sai, rằng xe anh đã đi vào ổ gà, rằng họ đã phí phạm cả ngày trời ở đây. Cô đang cố làm việc lãng phí thời gian ấy thành ra có ích, cố cho nó chút ít giá trị gì đó.

“Phải rồi,” cuối cùng cô nói, “tôi biết đây là cái gì rồi. Đây là một nhà thờ.”

Baker nhìn những cái chấm trên giấy và nói, “Nhà thờ sao?”

“À, thiết kế sàn của nó đấy,” cô nói. “Thấy không? Đây là trục dọc của thập tự, gian chính trong nhà thờ… Thấy không? Rõ ràng đây là một nhà thờ lớn, Dan. Và phần còn lại của hình này, những hình vuông trong những hình vuông, tất cả đều thẳng hàng, có vẻ như… có vẻ như đây là một tu viện.”

Viên cảnh sát nói. “Tu viện sao?”

“Tôi nghĩ vậy,” cô nói. “Và cái chữ ở dưới thì sao nhỉ: ‘mon.ste.mere.’ ‘Mon’ chẳng phải là viết tắt của monastery6 sao? Tôi cá đấy. Tôi muốn nói, tôi nghĩ rằng đây là một tu viện.”

Cô đưa bức tranh lại cho viên cảnh sát.

Baker cố ý liếc nhìn đồng hồ, “Chúng ta thực sự phải đi rồi.”

“À vâng,” Wauneka nói khi nhận ra được ẩn ý trong câu nói. Anh ta bắt tay họ. “Cảm ơn sự giúp đỡ của ông bà. Xin lỗi vì đã làm trễ chuyến đi của hai người. Chúc hai người có một chuyến đi vui vẻ.”

Baker quàng chặt tay ra eo vợ mình và dẫn cô ra giữa ánh trời chiều. Giờ đã mát hơn; những chiếc khinh khí cầu đang bay về phía Đông. Gallup là trung tâm của khinh khí cầu. Anh đi ra chỗ chiếc xe. Mảnh giấy dán trên kính chắn gió là mẩu quảng cáo hạ giá trang sức ngọc lam của một cửa hiệu địa phương. Anh giật nó ra khỏi cái cần gạt nước, vò nát nó rồi ngồi vào sau tay lái. Vợ anh ngồi khoanh tay trước ngực, nhìn chằm chằm về phía trước. Anh khởi động máy.

Cô nói, “Em xin lỗi.” Giọng cô nghe khó chịu nhưng anh biết đấy là tất cả những gì anh có thể nhận được.

Anh quay sang hôn lên má cô. “Không sao đâu,” anh nói. “Em làm đúng mà. Chúng ta đã cứu mạng ông ấy.”

Vợ anh mỉm cười.

Anh lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và hướng ra đường cao tốc.

*

Trong bệnh viện, ông lão đã ngủ, mặt nạ ô xy che mất một phần khuôn mặt. Giờ ông ta đã nằm yên; cô đã tiêm cho ông ta một liều thuốc gây mê nhẹ, ông ta đang rất thanh thản, nhịp thở nhẹ nhàng. Beverly Tsosie đứng ở chân giường, bàn về bệnh án với Joe Nieto, một người da đỏ Mescalero Apache, một bác sĩ nội khoa tải năng và cũng rất giỏi chẩn đoán bệnh. “Đàn ông da trắng, khoảng bảy mươi tuổi. Nhập viện trong tình trạng hoảng loạn, mất cảm giác, mất phương hướng cấp độ ba. Có triệu chứng trụy tim nhẹ, men gan hơi cao, ngoài ra không có gì khác thường.”

“Có đúng là họ không đâm xe vào ông ta không?”

“Rõ ràng là không. Nhưng kỳ cục thật. Họ nói thấy ông ta lang thang ở phía Bắc Corazón. Trong vòng bán kính mười dặm thì chẳng có gì ở đó hết.”

“Vậy thì sao?”

“Người này không có dấu hiệu bị bỏ lại ngoài sa mạc, Joe ạ. Chẳng có triệu chứng mất nước, nhiễm xeton7 nào hết. Ông ta thậm chí còn chẳng bị cháy nắng nữa cơ.”

“Cô có nghĩ ai đó đã bỏ rơi ông ta không? Quá ngán một cụ ông cứ ở nhà giành giật điều khiển từ xa tivi?”

“Phải. Tôi đoán thế đấy”

“Thế còn mấy ngón tay của ông ta thì sao?”

“Tôi không biết.” cô nói. “Ông ta có vài triệu chứng rối loạn tuần hoàn. Những đầu ngón tay của ông ta rất lạnh, tím tái cả đi, thậm chí còn có khả năng bị hoại tử nữa kia. Chẳng biết là bệnh gì nhưng từ khi vào bệnh viện, tình trạng của ông ta càng lúc càng xấu đi.”

“Ông ta có bị tiểu đường không?”

“Không.”

“Xơ cứng tứ chi Raynaud thì sao?”

“Không.”

Nieto đến bên giường bệnh nhìn vào mấy ngón tay. “Chỉ đầu ngón tay mới bị. Và tất cả mọi thương tổn đều ở vùng ngoại biên.”

“Phải,” cô nói. “Nếu không phải ông ta được tìm thấy ở sa mạc thì tôi sẽ cho đó là thương tổn do lạnh giá đấy.”

“Cô đã kiểm tra kim loại nặng cho ông ta chưa, Beverly? Vì có thể đây là nhiễm độc kim loại nặng. Cadimi hoặc thạch tín. Nó có thể giải thích vụ mấy ngón tay và cả chứng mất trí nhớ của ông ta nữa.”

“Tôi đã lấy mẫu. Nhưng kim loại nặng thì phải chuyển tới Đại học New Hampshire ở Albuquerque. Báo cáo phải bảy mươi hai tiếng nữa mới có cơ.”

“Cô có giấy tờ tùy thân, bệnh án, hay bất cứ cái gì tương tự không?”

“Chẳng có gì hết. Chúng tôi đã thông báo nhận dạng người mất tích và đã gửi mẫu vân tay của ông ta đến Washington để đối chiếu với cơ sở dữ liệu, nhưng cái đó có lẽ phải mất một tuần.”

Nieto gật đầu. “Và ông ta đã tỏ ra kích động, nói năng lảm nhảm đúng không? Ông ta đã nói gì?”

“Toàn vần điệu, toàn những thứ y hệt nhau. Gì đó về Gordon và Stanley. Rồi ông ta nói đi nói lại mãi, ‘Điện thoại dở hơi khiến ta rong chơi’8.”

“Quondam? Chẳng phải tiếng Latin sao?”

Cô nhún vai. “Lâu lắm rồi tôi không đến nhà thờ.”

“Tôi nghĩ quondam là một từ tiếng Latin,” Nieto nói.

Và rồi họ nghe thấy tiếng nói, “Cháu xin lỗi?” Đó là giọng của cậu bé đeo kính ở giường đối diện, cậu đang ngồi với mẹ mình.

“Các cô chú đang đợi bác sĩ phẫu thuật tới, Kevin,” Beverly nói với cậu ấy. “Rồi mọi người sẽ bó cánh tay cho cháu.”

“Ông ấy không nói ‘quondam phone’,” cậu bé nói. “Ông ấy nói là ‘quantum foam’9.”

“Gì cơ?”

“Bọt lượng tử. Ông ấy đã nói là ‘bọt lượng tử’.”

Họ đi về phía cậu. Nieto có vẻ thích thú với câu chuyện. “Chính xác thì bọt lượng tử là cái gì vậy?”

Cậu bé nghiêm túc nhìn họ, mắt chớp chớp phía sau cặp kính, “Ở quy mô hạ nguyên tử siêu nhỏ, cấu trúc không-thời gian trở nên dị thường. Nó không bằng phẳng mà giống kiểu bong bóng và có dạng bọt. Và vì nó ở tận cấp độ lượng tử nên được gọi là bọt lượng tử.”

“Cháu mấy tuổi vậy?” Nieto nói.

“Mười một ạ.”

Mẹ cậu bé nói. “Nó đọc nhiều lắm. Cha thằng bé làm ở Los Alamos.”

Nieto gật đầu. “Thế cái bọt lượng tử này để làm gì vậy, Kevin?”

“Chẳng để làm gì hết,” cậu bé nói. “Nó chỉ là trạng thái của vũ trụ ở cấp độ hạ nguyên tử thôi.”

“Sao ông lão này lại nói đến thứ đó nhỉ?”

“Vì ông ấy là một nhà vật lý nổi tiếng,” Wauneka vừa nói vừa đi về phía họ. Anh ta liếc nhìn vào tờ giấy trên tay mình. “Thông tin vừa đến từ Sở Cảnh sát Thủ đô. Joseph A. Traub, bảy mươi mốt tuổi. Nhà vật lý vật liệu. Chuyên gia về kim loại siêu dẫn. Được công ty ông ấy làm việc, ITC Research ở Black Rock thông báo mất tích khoảng trưa nay.”

“Black Rock? Nó ở tận đằng Sandia đấy!” Nó nằm ở trung tâm New Mexico, cách đó vài giờ lái xe. “Thế quái nào ông ấy lại có thể tới Corazon ở Arizona được cơ chứ?”

“Tôi không biết,” Beverly nói. “Nhưng ông ấy…”

Chuông báo động vang lên.

*

Sự việc xảy ra nhanh đến nỗi khiến Jimmy Wauneka giật mình. Đang nằm trên giường, ông lão nhỏm đầu dậy, nhìn chằm chằm vào họ, mắt dại đi, rồi ông nôn ra máu. Mặt nạ ô xy của ông chuyển sang màu đỏ ối; máu bắn cả ra khỏi mặt nạ, chảy thành vệt xuống má và cằm, tung tóe lên gối, lên tường. Ông phát ra những âm thanh òng ọc ghê người: ông đang ngập trong máu của chính mình.

Beverly liền chạy vội qua phòng. Wauneka chạy theo cô. “Quay đầu ông ấy lại!” Nieto nói, bước vội ra phía chiếc giường. “Quay đi!” Beverly giật cái mặt nạ ô xy ra và đang cố xoay đầu ông lão nhưng ông ta cứ giãy giụa liên tục, đánh lại cô, tiếp tục ộc máu ra, mắt trợn tròn vì kinh hãi. Wauneka đẩy cô ra, túm lấy đầu ông lão bằng cả hai tay và xoay mạnh, vặn người ông ta sang một bên. Ông lão lại nôn tiếp; máu bắn lên hết các màn hình theo dõi, lên khắp người Wauneka. “Ống hút!” Beverly thét lên, chỉ về phía một cái ống trên tường.

Wauneka cố giữ ông lão và với tay lấy cái ống nhưng sàn nhà đã trở nên trơn nhẫy đầy máu. Anh bị trượt chân nên vội bám lấy thành giường để giữ thăng bằng.

“Nhanh nào, mọi ngườỉ!” Tsosie thét lên. “Tôi cần mọi người! Ông hút!” Cô quỳ gối, thọc tay vào miệng ông lão, kéo lưỡi ông ta ra. Wauneka lảo đảo đứng dậy, nhìn thấy Nieto đang giơ cái dây dẫn hút ra. Anh túm lấy nó bằng bàn tay trơn nhẫy máu của minh, nhìn Nieto vặn cái van gắn trên tường. Beverly lấy cái thông ống cao su, bắt đầu hút miệng và mũi ông lão. Máu đỏ tươi chảy dọc theo ống. Ông lão thở hắt ra, húng hắng ho, càng lúc càng yếu dần đi.

“Tôi không thích thế này đâu,” Beverly nói, “chúng ta nên…” Báo động trên màn hình theo dõi bỗng đổi kiểu, tiếng kêu chói tai và đều đều. Trụy tim.

“Chết cha,” cô nói. Máu bắn đầy trên áo khoác, áo blouse. “Máy sốc điện! Lấy cái máy sốc điện đi!”

Nieto đang đứng ở đầu giường, cầm máy sốc điện, hai cánh tay dang rộng hết cỡ. Wauneka lùi lại khi Nancy Hood cố chen qua; giờ mọi người vây quanh ông lão. Wauneka ngửi thấy một mùi khá nồng và biết ruột ông lão đã xổ ra. Anh đột ngột nhận ra ông ta đang hấp hối.

“Thông,” Nieto vừa nói vừa ấn cái máy sốc điện xuống. Ông lão giật nảy lên trên bàn. Những chai thuốc trên tường rung bần bật. Tiếng báo động trên màn hình vẫn tiếp tục kêu.

Beverly nói, “Kéo rèm lại đi, Jimmy.”

Anh quay lại và nhìn thấy cậu bé đeo kính ở bên kia phòng mắt mở trừng trừng, miệng há hốc. Anh giật mạnh tấm rèm lại.

*

Một giờ sau, Beverly Tsosie mệt nhoài ngồi vào một chiếc bàn trong góc để viết tường trình. Nó phải được hoàn thiện một cách thật bất thường vì bệnh nhân đã chết. Khi Beverly còn đang mải rà qua biểu đồ thì Jimmy đã đi tới với một tách cà phê dành cho cô. “Cảm ơn,” cô nói. “Nhân tiện, anh có số điện thoại của công ty ITC đó không? Tôi phải gọi cho họ.”

“Tôi sẽ gọi giùm cô,” Wauneka nói, chạm nhẹ lên vai cô. “Hôm nay cô vất vả rồi.”

Cô còn chưa kịp nói gì, Wauneka đã đi về phía chiếc bàn ở cạnh đó, lật mở cuốn sổ tay và bắt đầu bấm số. Anh vừa mỉm cười với cô vừa chờ thông máy.

“Công ty ITC Research xin nghe”

Anh tự giới thiệu rồi nói tiếp. “Tôi gọi để báo tin về nhân viên bị mất tích của công ty, Joseph Traub.”

“Xỉn chờ một chút, tôi sẽ nối máy cho anh gặp người quản lý nhân sự.”

Anh chờ khoảng vài phút. Tiếng nhạc chờ. Anh khum tay che ống nghe và nói với Beverly, giọng điệu tự nhiên hết mức, “Cô có rảnh thì ăn tối cùng tôi nhé. Hay cô định đi thăm bà?”

Cô vẫn tiếp tục ngồi viết, không hề ngẩng đầu khỏi biểu đồ, “Tôi sẽ tới thăm bà.”

Anh hơi nhún vai.”Ừ, tôi cũng chi hỏi vậy thôi,” anh nói.

“Nhưng bà đi ngủ sớm lắm. Khoảng tám giờ.”

“Thật không?”

Cô mỉm cười, vẫn cúi nhìn tờ giấy. “Thật.”

Wauneka tươi cười, “Tốt rồi.”

“Ừ.”

Máy kêu cạch một cái và anh nghe thấy giọng phụ nữ, “Xin giữ máy, tôi đang nối máy cho anh với phó chủ tịch công ty chúng tôi, Tiến sĩ Gordon.”

“Cảm ơn cô.” Anh thầm nghĩ, Phó chủ tịch sao?

Một tiếng cạch nữa rồi một giọng trầm cất lên: “John Gordon xin nghe.”

“Tiến sĩ Gordon, tôi là James Wauneka ở Sở Cảnh sát Gallup. Tôi đang gọi cho ông từ Bệnh viện McKinley ở Gallup,” anh nói. “Tôi e là đã có chuyện không hay xảy ra.”