CORAZÓN (2)
Qua cửa sổ phòng họp của công ty ITC, trời chiều vàng óng tỏa ánh rực rỡ lên năm tòa nhà thí nghiệm toàn thép và kính của tổ hợp nghiên cứu Black Rock. Đằng xa, những đám mây giông đang hình thành trên nền trời sa mạc. Nhưng trong phòng, mười hai thành viên hội đồng quản trị ITC đang quay lưng lại với cảnh vật bên ngoài. Họ đang dùng cà phê ở một chiếc bàn nhỏ, nói chuyện với nhau trong khi chờ cuộc họp bắt đầu. Những cuộc họp hội đồng bao giờ cũng kéo dài đến đêm vì chủ tịch ITC, Robert Doniger là một người mắc chứng mất ngủ kinh niên và gã đã xếp lịch cho họ như thế. Nhưng nhờ tài năng tuyệt vời của Doniger mà toàn bộ hội đồng quản trị, tất cả giám đốc điều hành và các nhà đầu tư chính đều đã phải có mặt.
Lúc này, Doniger vẫn chưa xuất hiện. John Gordon, phó chủ tịch vạm vỡ của Doniger, nghĩ rằng mình biết vì sao. Vẫn tiếp tục nói chuyện qua di động, Gordon tiến về phía cửa ra vào. Gordon có thời là giám đốc dự án của Không quân Mỹ và anh vẫn mang phong thái nhà binh. Bộ vét doanh nhân màu xanh nước biển được là ủi phẳng lì, đôi giày đen sáng bóng. Áp chiếc di động vào một bên tai, anh nói, “Tôi hiểu, thưa anh cảnh sát,” rồi đi ra khỏi cửa.
Đúng như anh đoán, Doniger đang nhảy chồm chồm ngoài hành lang y như một cậu nhóc bị tăng động trong khi Diane Kramer, luật sư trưởng của ITC đứng một bên lắng nghe. Gordon nhìn thấy Doniger chỉ thẳng ngón tay về phía cô một cách giận dữ. Rõ ràng là gã đang chửi mắng cô.
*Ba mươi tám tuổi, Robert Doniger là một nhà vật lý tài ba kiêm một tỷ phú. Dù bụng bia và tóc muối tiêu, phong thái của gã vẫn rất trẻ trung – hay thậm chí là chưa trưởng thành nữa, điều đó còn phụ thuộc vào việc gã nói chuyện với ai. Rõ ràng là tuổi tác chẳng làm gã trầm tĩnh hơn. ITC là công ty khởi nghiệp thứ ba của gã; gã đã trở nên giàu có nhờ hai công ty kia, nhưng cách quản lý thì vẫn cứ luôn cay nghiệt và nóng nảy như vậy. Gần như tất cả mọi người trong công ty đều sợ gã.
Tôn trọng cuộc họp hội đồng quản trị, Doniger đã mặc vét xanh da trời, bỏ quần kaki và áo len vẫn mặc hằng ngày đi. Nhưng nhìn gã đóng bộ trông rất không thoải mái, giống như một cậu bé bị bố mẹ bắt mặc quần áo chỉnh tề vậy.
“Vâng, cảm ơn anh rất nhiều, cảnh sát Wauneka,” Gordon nói vào điện thoại. “Chúng tôi sẽ sắp xếp. Vâng. Chúng tôi sẽ làm ngay lập tức. Một lần nữa, xin cảm ơn anh.” Gordon dập điện thoại và quay về phía Doniger. “Traub chết rồi, họ vừa xác định nhân dạng của ông ấy xong.”
“Ở đâu?”
“Gallup. Một viên cảnh sát vừa gọi từ phòng cấp cứu đến.”
“Họ nghĩ ông ấy chết vì lý do gì?”
“Họ không biết. Họ nghĩ là trụy tim cấp. Nhưng có chút vấn đề với mấy ngón tay của ông ấy. Tuần hoàn máu. Họ định khám nghiệm tử thi. Luật yêu cầu như thế.”
Doniger phẩy tay, một cử chỉ rất không tán thành. “Làm trò vớ vẩn. Khám nghiệm tử thi chẳng được tích sự gì hết. Traub bị lỗi dịch chuyển. Họ sẽ chẳng tìm được cái gì đâu. Sao anh lại lãng phí thời gian của tôi bằng câu chuyện vớ vẩn này thế?”
“Một trong những nhân viên của anh vừa mới chết, Bob ạ,” Gordon nói.
“Đúng,” Doniger lạnh lùng nói. “Và anh biết sao không? Tôi chẳng làm được cái mẹ gì hết. Tôi rất lấy làm tiếc. Ôi trời ơi ôi đất ơi. Gửi ít hoa. Xử lý đi, được chưa?”
*Vào những lúc như thế này, Gordon lại hít một hơi thật sâu, tự nhắc mình nhớ rằng Doniger không khác gì những chủ doanh nghiệp trẻ năng nổ khác. Anh tự nhắc mình nhớ rằng phía sau vẻ mỉa mai ngạo nghễ kia, Doniger gần như lúc nào cũng đúng. Và anh cũng nhắc mình nhớ rằng kiểu gì thì kiểu Doniger cũng đã cư xử thế này cả đời rồi.
Robert Doniger đã có dấu hiệu thần đồng từ rất sớm, gã đọc sách kỹ thuật từ hồi tiểu học. Lên chín tuổi, gã đã có thể sửa được bất cứ thứ đồ điện nào – đài, ti vi – táy máy nghịch đèn chân không và dây nhợ cho tới khi gã làm nó hoạt động thì thôi. Khi mẹ gã nói bà lo rằng gã có thể sẽ bị điện giật thì câu trả lời là thế này, “Mẹ đừng có dở hơi đi.” Và khi người bà yêu dấu của gã mất, Doniger mắt ráo hoảnh ra thông báo với mẹ rằng bà cụ vẫn còn nợ gã hai mươi bảy đô la và mong mẹ mình sẽ giải quyết chuyện đó ổn thỏa.
Sau khi tốt nghiệp thủ khoa vật lý của Đại học Stanford lúc mười tám tuổi, Doniger đã tới làm việc ở Phòng Thí nghiệm Máy Gia tốc Quốc gia Fermi gần Chicago. Gã bỏ việc sau sáu tháng, nói với giám đốc phòng thí nghiệm rằng “vật lý phân tử chỉ dành cho bọn ngu”. Gã quay lại Stanford, làm việc trong một lĩnh vực mà bản thân cho rằng hứa hẹn hơn nhiều: vật lý siêu dẫn.
Đây là lúc các nhà khoa học trên mọi lĩnh vực đồng loạt rời trường đại học để lập công ty riêng nhằm khai thác tất cả những khám phá của mình. Doniger rời đi sau một năm để thành lập TechGate, một công ty chế tạo các bộ phận phục vụ kỹ thuật khắc trên con chip siêu chính xác mà gã đã tình cờ phát minh được. Khi Stanford phản đối vì cho rằng gã đã phát minh ra chúng khi đang làm việc tại phòng thí nghiệm của trường, Doniger nói, “Nếu thấy có vấn đề thì đi kiện đi. Không thì ngậm mồm lại nhé.”
TechGate là nơi phong cách quản lý khắc nghiệt của Doniger trở nên nổi tiếng. Trong những buổi họp với các nhà khoa học của mình, gã ngồi một góc, ngả người rung ghế, bắn liên thanh những câu hỏi. “Thế này thì sao? Sao ông không làm thế kia? Lý do làm thế này là gì?” Nếu câu trả lời làm gã thỏa mãn, gã sẽ nói, “Có lẽ thế…” Đó là lời khen nồng nhiệt nhất người ta có thể có được từ Doniger. Nhưng nếu gã không thích câu trả lời – và thường thì là như thế – gã sẽ gắt lên, “Ông bị nhũn não rồi à?” “Ông có khát khao được làm một thằng ngu à?” “Ông có muốn chết vì ngu không?” “Ông thậm chí còn chẳng được coi là tối dạ đâu.” Còn khi thực sự cáu lên, gã sẽ ném bút chì và sổ sách lung tung và gào thét ầm ĩ, “Cứt thối! Bọn mày chỉ toàn là một lũ cứt thối!”
Nhân viên ở TechGate chịu đựng những cơn thịnh nộ của “Thần Chết Dạo Phố Doniger” vì gã là một nhà vật lý tài năng, tài năng hơn bất kỳ ai trong số họ; vì gã biết những vấn đề mà nhóm của mình đang gặp phải; và vì những chỉ trích của gã thì thường là có lý. Dù khó chịu thế, chế độ làm việc nhức như kim châm này thực sự mang lại hiệu quả: TechGate đã đạt được những tiến bộ đáng kể chỉ trong vòng hai năm.
Vào năm 1984, gã bán công ty được một trăm triệu đô la. Cùng năm ấy, tạp chí Time đã bình chọn gã là một trong năm mươi người dưới tuổi hai lăm “sẽ định hình phần còn lại của thế kỷ”. Danh sách cũng bao gồm cả Bill Gates và Steve Jobs.
*“Khốn kiếp,” Doniger nói, quay sang phía Gordon. “Tôi có phải tự tay làm tất cả mọi thứ không? Chúa ạ. Họ tìm thấy Traub ở đâu vậy?”
“Ở sa mạc. Trong khu định cư của người Navajo.”
“Chính xác là ở đâu?”
“Tất cả những gì tôi biết là, cách Corazón mười dặm về phía Bắc. Rõ ràng là ngoài đó chẳng có gì nhiều đâu.”
“Được rồi,” Doniger nói. “Thế bảo Baretto ở phòng bảo vệ lái xe của Traub ra Corazón rồi vứt nó ở ngoài sa mạc đi. Chọc thủng một lốp rồi biến.”
Diane Kramer hắng giọng. Cô mới ngoài ba mươi, mái tóc sẫm màu và mặc một bộ vét đen. “Tôi không biết thế có ổn không, Bob ạ,” cô nói bằng giọng đúng kiểu luật sư nhất có thể. “Anh đang ngụy tạo bằng chứng đấy…”
“Dĩ nhiên là tôi đang ngụy tạo bằng chứng! Vấn đề là ở đấy! Ai đó sẽ hỏi là tại sao Traub lại ra được đó. Thế nên cứ để xe ông ta lại đó cho chúng nó tìm.”
“Nhưng chúng ta không biết đích xác chỗ nào là…”
“Chính xác hay không không quan trọng. Cứ làm thế đi.”
“Thế có nghĩa là Baretto và thêm một người nào đó sẽ biết việc này…”
“Ai thèm quan tâm đến việc khốn nạn đó chứ? Chẳng ai hết. Cứ làm thế đi, Diane.”
Có một khoảng lặng ngắn. Kramer nhìn chằm chằm xuống nền nhà, chau mày, rõ ràng là đang rất không vui.
“Anh nghe này,” Doniger nói, quay về phía Gordon. “Anh có nhớ khi Garman sắp có được hợp đồng còn công ty cũ của tôi thì không chứ? Anh có nhớ vụ bắn tin cho bọn báo chí không?”
“Tôi có nhớ,” Gordon nói.
“Anh đã rất lo lắng về việc đó,” Doniger cười mỉa. Gã giải thích với Kramer, “Garman là một con lợn béo ị. Rồi hắn ta sụt hàng đống cân vì bị bà vợ bắt ăn kiêng. Chúng ta đã bắn tin rằng Garman bị ung thư không chữa được và công ty của hắn ta sắp sập. Hắn ta chối nhưng chẳng ai tin vì cái vẻ ngoài ấy, Chúng tôi có được hợp đồng. Tôi gửi một giỏ hoa quả đại tướng tới cho bà vợ.” Gã cười. “Nhưng vấn đề là, chẳng ai lần ra vụ bắn tin là từ chỗ chúng ta hết. Mọi thứ đều rất đúng luật, Diane. Kinh doanh là kinh doanh thôi. Mang cái xe khốn kiếp ấy ra sa mạc đi.”
Cô gật đầu nhưng vẫn nhìn xuống sàn nhà.
“Rồi nữa”, Doniger nói, “trước hết, tôi muốn biết thế quái nào mà Traub vào được phòng dịch chuyển. Vì lão đã đi quá nhiều rồi, và đã tích lũy quá nhiều lỗi dịch chuyển. Lão đã vượt quá giới hạn cho phép rồi. Lão không được phép đi thêm lần nào nữa. Lão không được cấp giấy phép dịch chuyển. Chúng ta có rất nhiều hệ thống an ninh quanh cái phòng ấy. Thế nào mà lão lại vào đó được chứ?”
“Chúng tôi nghĩ là ông ta có giấy phép bảo dưỡng mấy cỗ máy đó,” Kramer nói, “Ông ta đã đợi đến tối, giữa hai phiên trực, và lấy một cái. Nhưng chúng tôi sẽ kiểm tra ngay bây giờ.”
“Tôi không muốn cô kiểm tra,” Doniger nói một cách mỉa mai. “Tôi muốn cô khắc phục nó, Diane.”
“Chúng tôi sẽ khắc phục, Bob.”
“Tốt hơn là thế đi, khốn kiếp thật,” Doniger nói. “Vì cái công ty này giờ đang phải đối mặt với ba vấn đề rất quan trọng. Và Traub là thứ ít quan trọng nhất trong số ấy. Hai cái kia mới là chính. Tối, tối thượng, tối quan trọng.”
*Doniger luôn có tài nhìn xa trông rộng. Hồi năm 1984, gã bán TechGate vì đã thấy trước rằng chip máy tính sắp sửa “đi vào ngõ cụt”. Vào thời điểm đó, điều này có vẻ rất vô lý. Cứ sau mười tám tháng chip lại mạnh lên gấp đôi còn giá thành thì lại giảm một nửa. Nhưng Doniger nhận ra rằng những tiến bộ này có được là nhờ việc ép các bộ phận càng ngày càng sát lại trên một con chip. Chuyện này chẳng thể kéo dài mãi được. Cuối cùng, mật độ trong mạch sẽ dày đặc đến nỗi các con chip bị tan chảy ra vì quá nóng. Điều này dẫn đến một kết luận rằng sức mạnh của máy tính cuối cùng vẫn có giới hạn trần. Doniger biết rằng xã hội sẽ đòi hỏi máy tính có khả năng xử lý cao hơn nữa nhưng gã đã không nhìn ra hướng nào để đạt được nó.
Nản lòng, gã liền quay lại với niềm đam mê trước kia, vật lý siêu dẫn. Gã thành lập công ty thứ hai, Từ Trường Tiên Tiến, sở hữu vài bằng sáng chế cần thiết từ những chiếc máy chụp cộng hưởng từ (MRI) hiện đại và bắt đầu công cuộc cách mạng ngành y. Từ Trường Tiên Tiến được trả hai trăm năm mươi nghìn đô la tiền bản quyền cho mỗi máy MRI được sản xuất ra. Đó là một “con bò sữa vắt ra tiền”, Doniger từng nói, “và cũng hấp dẫn ngang với vắt sữa bò.” Chán nản và muốn kiếm tìm thử thách mới, gã lại bán nó đi vào năm 1988. Lúc đó gã hai tám tuổi và công ty đáng giá một tỷ đô la. Nhưng trong suy nghĩ của mình, gã vẫn chưa thấy thế là đủ.
Năm tiếp theo, 1989, gã lại thành lập ITC.
*Một trong những thần tượng của Doniger là nhà vật lý Richard Feynman. Vào đầu những năm tám mươi, Feynman đã tiên đoán rằng có thể chế tạo một chiếc máy tính sử dụng những đặc tính lượng tử của nguyên tử. Trên lý thuyết, một chiếc “máy tính lượng tử” có thể mạnh hơn hàng tỷ tỷ lần so với bất cứ chiếc máy tính nào từng được chế tạo. Nhưng ý tưởng của Feynman cần một công nghệ hoàn toàn mới – một công nghệ phải được tạo nên từ con số không, một công nghệ thay đổi tất cả mọi định luật. Vì chẳng ai nhìn thấy khả năng chế tạo được máy tính lượng tử trong thực tiễn nên ý tưởng của Feynman nhanh chóng bị lãng quên.
Nhưng Doniger thì không quên.
Vào năm 1989, Doniger bắt tay vào chế tạo chiếc máy tính lượng tử đầu tiên. Ý tưởng thật đột phá – và cũng thật liều lĩnh – đến nỗi gã không hề công khai dự định của mình. Gã lặng lẽ đặt tên công ty là ITC, Tập đoàn Công nghệ Quốc tế10. Gã đặt trụ sở chính tại Geneva, chiêu mộ các nhà vật lý làm việc tại Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu về đầu quân cho mình.
Trong nhiều năm sau đó, người ta chẳng hề nhận được tin tức gì từ Doniger hay công ty của gã hết. Nếu còn nghĩ tới gã thì người ta cũng chỉ nghĩ rằng gã đã giải nghệ. Nói chung thì việc các doanh nhân công nghệ cao rời khỏi thương trường sau khi đã kiếm được những khoản tiền kếch xù cũng là chuyện bình thường.
Vào năm 1994, tạp chí Time lập ra danh sách hai mươi lăm người dưới bốn mươi tuổi đang định hình thế giới. Robert Doniger không ở trong số đó. Chẳng ai quan tâm; chẳng ai thèm nhớ.
Cùng năm ấy, gã chuyển ITC về Mỹ, thành lập một trung tâm nghiên cứu tại Black Rock, New Mexico, cách Albuquerque một giờ lái xe về phía Bắc. Một nhà quan sát tinh tế có thể sẽ nhận ngay ra rằng gã đã lại chuyển đến một nơi vốn đầy rẫy các nhà vật lý. Nhưng lúc ấy chẳng có nhà quan sát nào, có tinh tế hay không cũng vậy.
Thế là chẳng ai nhận ra ITC đã vững vàng phát triển trong suốt những năm 90. Có thêm nhiều phòng thí nghiệm được xây dựng ở New Mexico; thêm nhiều nhà vật lý học đến đó làm việc. Hội đồng quản trị của Doniger tăng từ sáu lên mười hai người. Tất cả đều là giám đốc điều hành các công ty đã đầu tư vào ITC hoặc là những nhà đầu tư mạo hiểm. Tất cả đều đã ký những hợp đồng bảo mật thông tin cực kỳ hà khắc quy định họ phải ký quỹ một khoản tiền lớn do bên thứ ba nắm giữ, phải làm những bài kiểm tra trắc nghiệm nói dối, và phải cho ITC ghi âm điện thoại của mình mà không được báo trước. Thêm vào đó, Doniger còn đòi một khoản đầu tư ít nhất là ba trăm triệu đô la. Đó, theo như gã giải thích một cách trịch thượng, là cái giá của một ghế trong ban quản trị. “Các anh muốn biết tôi định làm gì, các anh muốn là một phần của những gì chúng tôi đang thực hiện ở đây, thì xùy ra một phần ba của một tỷ đô la. Chấp nhận hoặc không thì bỏ đi. Thế nào cũng được, tôi không quan tâm.”
Nhưng dĩ nhiên là gã có quan tâm. ITC có một tốc độ tiêu tiền đầu tư khủng khiếp: họ đã làm bay ba tỷ đô la trong vòng chín năm vừa rồi. Và Doniger biết mình sẽ cần thêm tiền.
*“Vấn đề thứ nhất,” Doniger nói. “Vốn đầu tư. Chúng ta phải có thêm một tỷ nữa trước khi có thể nhìn thấy kết quả.” Gã hất hàm về phía phòng hội đồng. “Họ sẽ không chịu đâu. Tôi sẽ phải thuyết phục họ kết nạp thêm ba thành viên mới nữa.”
Gordon nói, “Sẽ có một cuộc chiến khó khăn trong căn phòng kia đấy.”
“Tôi biết,” Doniger nói. “Họ đã thấy tốc độ tiêu tiền đầu tư, và họ muốn biết khi nào thì cái tốc độ ấy sẽ bằng không. Họ muốn thấy kết quả cụ thể. Và đó là thứ tôi sẽ cho họ thấy hôm nay đây.”
“Kết quả cụ thể nào vậy?”
“Một chiến thắng,” Doniger nói. “Bọn đầu đất ấy đang cần chiến thắng. Một vài thông tin lý thú về một trong những dự án kia.”
Kramer hít một hơi thật sâu. Gordon nói, “Bob, đó toàn là mấy dự án dài hạn thôi.”
“Phải có dự án nào sắp hoàn thành rồi chứ. Mới xem nào, Dordogne thì sao?”
“Vẫn chưa. Tôi không nghĩ đây là ý kiến hay đâu.”
“Còn tôi thì cần một chiến thắng,” Doniger nói. “Giáo sư Johnston đã sang Pháp với lũ học trò thường Yale trong ba năm bằng tiền của chúng ta rồi. Phải có gì để xem chứ.”
“Chưa được đâu, Bob. Gì thì gì, chúng ta đã có tất cả vùng đất đó đâu.”
“Chúng ta có đủ đất rồi.”
“Bob…”
“Diane sẽ đi. Cô ấy sẽ đốc thúc họ một cách nhẹ nhàng.”
“Giáo sư Johnston không thích thế đâu.”
“Tôi chắc chắn là Diane sẽ xử lý được Johnston.”
Một trợ lý ra mở cửa phòng hội đồng và ngó ra. Doniger nói, “Một phút nữa!” Nhưng gã đã đi ngay về phía cửa phòng.
Gã ngoái nhìn lại chỗ họ và nói, “Cứ làm thế đi!” Rồi đi vào phòng và đóng cửa lại.
*
Gordon cùng với Kramer bước xuống cuối hành lang. Gót giày cao của cô đập cồm cộp trên sàn nhà. Gordon nhìn xuống và thấy dưới bộ vét chỉn chu đúng kiểu doanh nhân Jil Sander kia, cô ấy đang đi giày buộc dây màu đen. Đúng chất Kramer: vừa quyến rũ vừa thật khó với tới.
Gordon nói, “Cô đã biết chuyện này từ trước à?”
Cô gật đầu, “Nhưng cũng không lâu lắm đâu. Anh ta mới vừa nói cho tôi một giờ trước thôi.”
Gordon không nói gì. Anh cố nén cơn giận dữ. Gordon đã làm việc cùng Doniger mười hai năm nay, từ hồi ở công ty Từ Trường Tiên Tiến kia. Tại ITC, anh điều hành một đơn vị nghiên cứu công nghiệp lớn trên hai lục địa, thuê hàng tá nhà vật lý, nhà hóa học, nhà khoa học máy tính. Anh đã phải tự tìm hiểu về các kim loại siêu dẫn, nén ảnh dữ liệu đồng dạng, bit lượng tử11, truyền dẫn ion dòng cao. Anh đã có quá đủ các nhà vật lý lý thuyết – loại tệ không để đâu cho hết tệ – nhưng các mốc chỉ tiêu đều được hoàn thành; tiến độ vẫn theo kế hoạch; chi phí phát sinh vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng dù thành công như vậy, Doniger vẫn chẳng bao giờ thực sự tin tưởng anh.
Kramer, trái lại, vẫn luôn có mối quan hệ khá đặc biệt với Doniger. Bắt đầu sự nghiệp, cô là luật sư tại một văn phòng luật bên ngoài, có làm ít việc cho công ty. Doniger nghĩ cô rất thông minh và xuất chúng, thế là gã thuê cô. Cô trở thành bạn gái của gã trong năm tiếp theo, và dù chuyện đó đã qua từ lâu lắm rồi, gã vẫn luôn nghe lời cô. Cô đã giúp chặt đứt vài thảm họa tiềm tàng trong suốt những năm vừa qua.
“Trong suốt mười năm qua,” Gordon nói, “chúng ta đã giữ kín bí mật công nghệ này. Nghĩ mà xem, đây quả thực là một điều kỳ diệu. Traub là trường hợp hy hữu đầu tiên vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta. May là mọi chuyện rơi vào tay tên cảnh sát gà mờ nào đó nên sẽ không đáng lo đâu. Nhưng nếu Doniger bắt đầu đẩy mạnh ở Pháp, mọi người có lẽ cũng sẽ bắt đầu nghi ngờ đấy. Chúng ta đã bị tay phóng viên ấy rượt như ma ở Paris rồi. Bob có thể làm chuyện này vỡ lở mất.”
“Tôi biết anh ấy đã tính hết rồi. Đó là vấn đề nghiêm trọng thứ hai.”
“Tiết lộ cho báo giới?”
“Phải. Công bố hết.”
“Anh ta không lo à?”
“Có, anh ấy có lo chứ. Nhưng anh ấy dường như đã có kế hoạch đối phó rồi.”
“Tôi cũng hy vọng thế,” Gordon nói. “Vì chúng ta không thể lúc nào cũng hy vọng kẻ sục sạo chỗ đồ bẩn của mình chỉ là một tên cớm gà mờ được.”
*Sáng hôm sau, cảnh sát James Wauneka tới Bệnh viện McKinley tìm Beverly Tsosie. Anh nghĩ mình sẽ kiểm tra bản giám định khám nghiệm tử thi của ông lão mới chết. Nhưng họ nói với anh rằng Beverly đã lên phòng chẩn đoán hình ảnh trên tầng ba rồi. Thế là anh cũng lên đó.
Anh thấy cô trong một căn phòng nhỏ sơn màu be cạnh cái máy quét màu trắng. Cô đang nói chuyện với Calvin Chee, kỹ thuật viên MRI. Anh ta đang ngồi bên bàn máy tính, mở mấy bức ảnh đen trắng lên, hết cái này đến cái kia. Trong ảnh là năm vòng tròn xếp thành một hàng. Khi Chee lướt qua những bức ảnh, những vòng tròn càng lúc càng nhỏ dần.
“Calvin,” cô nói. “Không thể nào. Đó chắc chắn là lỗi thôi.”
“Cô nhờ tôi kiểm tra dữ liệu,” anh ta nói, “rồi cô lại không tin tôi? Tôi nói cô nghe này, Beverly, không phải là lỗi đâu; nó là đồ thật đấy. Đây này, nhìn cái tay kia mà xem.”
Chee nhấn bàn phím, giờ một hình ô van nằm ngang xuất hiện trên màn hình với năm vòng tròn mờ bên trong. “Thấy chưa? Đây là lòng bàn tay trái, nhìn vào mặt cắt.” Anh ta quay sang chỗ Wauneka. “Khá giống với thứ anh sẽ nhìn thấy nếu anh đặt tay lên cái thớt thái thịt và chặt đứt lìa ra.”
“Hay lắm, Calvin.”
“Ồ, tôi muốn tất cả mọi người đều hiểu rõ.”
Anh ta quay lại phía màn hình. “Được rồi, những điểm quan trọng này. Năm vòng tròn là năm cái xương lòng bàn tay. Đây là dây chằng nối đến các ngón tay. Nhớ nhé, những cơ làm bàn tay hoạt động hầu hết đều nằm ở cẳng tay. Cái vòng tròn nhỏ đó là động mạch quay, dẫn máu qua cổ tay tới bàn tay. Ừm. Giờ chúng ta sẽ chuyển từ cổ tay ra phía ngoài, theo những đường cắt.” Những hình ảnh biến dạng dần. Hình ô van càng lúc càng hẹp hơn, và từng cái từng cái một, những chiếc xương tách dần ra, y như quá trình phân bào amip. Giờ có bốn vòng tròn. “Nào. Giờ chúng ta ra ngoài lòng bàn tay rồi và chỉ còn nhìn thấy những ngón tay thôi. Những tiểu động mạch giữa những ngón tay, tỏa nhánh khi đi ra phía ngoài, càng lúc càng nhỏ hơn, nhưng mọi người vẫn có thể nhìn thấy. Thấy chưa, đây với đây này? Được rồi. Giờ đi về phía các đầu ngón tay, xương lớn dần lên, đó là ngón gần nhất, cái đốt ngón tay… và giờ… nhìn các động mạch nào, nhìn xem chúng tẽ ra đâu… từng phần từng phần một… và giờ thi coi thử đi.”
Wauneka nhíu mày. “Nó giống như bị lỗi. Như thể có cái gì vừa trật ra ấy.”
“Có cái gì đó thực sự đã bị trật ra,” Chee nói. “Những tiểu động mạch bị đứt gãy. Chúng không liền mạch. Tôi sẽ cho mọi người xem lại lần nữa.” Anh ta quay lại vùng trước đó, rồi vùng tiếp theo. Thật rõ ràng – những vòng tròn của các tiểu động mạch dường như nhảy hết sang một bên. “Đó là lý do tại sao ông ta lại bị hoại tử ngón tay. Không hề có máu tuần hoàn đến đó vì những tiểu động mạch của ông ta không liền mạch. Chúng giống như bị lỗi hay sao ấy.”
Beverly lắc đầu. “Calvin.”
“Tôi nói mọi người nghe. Và không chỉ thế thôi đâu. Ở các phần khác trên người ông ta nữa cơ. Như ở chỗ tim ấy. Chết vì nhồi máu cơ tim? Chẳng lạ gì, vì thành tâm thất cũng không hề liền mạch.”
“Từ những mô sẹo cũ,” cô nói, lắc đầu. “Calvin, thôi nào. Ông ấy bảy mươi mốt tuổi rồi. Tim ông ấy có vấn đề gì nữa, thì nó cũng đã làm việc được hơn bảy mươi năm rồi. Tay ông ấy cũng thế. Nếu thực sự có tình trạng tiểu động mạch đứt gãy như vậy, những ngón tay của ông ấy đã rụng hết ra từ hàng năm trước rồi. Nhưng chúng có rụng đâu. Dù sao thì đây là một vết thương mới; nó trở nên trầm trọng khi ông ấy vào viện.”
“Thế cô định nói với tôi là máy sai à?”
“Chắc thế thôi. Chẳng phải phần cứng có thể gặp lỗi đo đạc à? Và thi thoảng phần mềm mô phỏng cũng trục trặc đấy thôi?”
“Tôi đã kiểm tra máy rồi, Beverly. Nó ổn.”
Cô nhún vai. “Tôi xin lỗi, tôi không tin đâu. Chắc là phải có trục trặc đâu đó. Nghe tôi này, nếu anh chắc chắn là mình đúng thì đi luôn xuống khoa bệnh học và tự kiểm tra ông ta đi.”
“Tôi đã thử rồi,” Chee nói. “Cái xác đã bị đem đi mất rồi.”
“Thế à?” Wauneka nói. “Khi nào vậy?”
“Năm giờ sáng nay. Ai đó ở công ty ông ta.”
“Ồ, cái công ty đó ở tận bên núi Sandia đấy,” Wauneka nói. “Có lẽ họ vẫn đang trên đường chở cái xác… “
“Không.” Chee lắc đầu. “Đã hỏa táng sáng nay rồi.”
“Thật à? Ở đâu?”
“Nhà xác Gallup.”
“Họ hỏa táng ông ta ngay ở đây à?” Wauneka nói.
“Tôi nói với anh từ nãy tới giờ rồi mà,” Chee nói, “rõ ràng là ông lão này có gì đó rất lạ lùng.”
Beverly Tsosie khoanh tay trước ngực. Cô nhìn hai người đàn ông. “Chẳng có gì lạ lùng ở đây hết,” cô nói. “Công ty ông ấy làm thế vì họ có thể thu xếp mọi thứ từ xa, qua điện thoại. Gọi cho nhà xác, họ qua và hỏa táng ông ta. Chuyện xảy ra suốt, đặc biệt là khi không có họ hàng gì. Giờ thì hãy thôi nói linh tinh đi,” cô nói, “và gọi kỹ thuật viên tới sửa máy. Cái máy MRI đấy bị trục trặc – tất cả vấn đề là vậy đấy.”
Jimmy Wauneka muốn kết thúc vụ Traub càng nhanh càng tốt. Nhưng quay lại phòng cấp cứu, anh thấy một chiếc túi nhựa đầy quần áo cũ của ông lão và các đồ dùng cá nhân khác. Chẳng có cách nào khác ngoài việc gọi lại cho ITC lần nữa. Lần này anh nói chuyện với một phó chủ tịch khác, cô Kramer nào đó. Tiến sĩ Gordon đang họp và không rảnh để nói chuyện.
“Tôi muốn trao đổi về Tiến sĩ Traub,” anh nói.
“À vâng,” một tiếng thở dài não nề. “Thật tội nghiệp Tiến sĩ Traub. Một người đàn ông tốt bụng.”
“Thi thể của ông ấy được hỏa táng hôm nay. Nhưng chúng tôi vẫn còn giữ một ít đồ dùng cá nhân của ông ấy. Tôi không biết mọi người muốn chúng tôi làm gì với những thứ đó.”
“Tiến sĩ Traub không còn họ hàng thân thích nào hết,” Kramer nói. “Tôi không chắc là có ai ở đây muốn giữ quần áo hay tư trang của ông ấy. Anh đang nói về thứ tư trang gì vậy?”
“À, có một tấm bản đồ trong túi áo ông ấy. Nó trông giống một nhà thờ hay một tu viện gì đó.”
“Ừ hứ.”
“Cô có biết sao ông ấy lại có bản đồ tu viện không?”
“Không, tôi thực sự không biết. Nói thật là, vài tuần nay, Tiến sĩ Traub có biểu hiện hơi lạ. Ông ấy xuống tinh thần khá nhiều từ khi vợ mất. Anh có chắc đó là một tu viện không?”
“Không, tôi không chắc lắm. Tôi không biết nó là cái gì nữa. Cô có muốn lấy lại tấm bản đồ đó không?”
“Nếu không phiền thì anh hãy gửi nó cho chúng tôi.”
“Thế còn thứ đồ sứ này?”
“Thứ đồ sứ?”
“Ông ấy có một mảnh sứ. Khoảng 6,5 xăng ti mét vuông, và nó có chữ ‘ITC’.”
“Ừ. Không có vấn đề gì đâu.”
“Tôi đang băn khoăn không biết nó là cái gì.”
“Nó là cái gì ư? Một thẻ căn cước thôi.”
“Nó chẳng giống tấm thẻ căn cước nào tôi từng nhìn thấy.”
“Đó là loại mới. Chúng tôi dùng nó ở đây để qua các cửa an ninh, đại loại thế.”
“Cô có muốn nhận lại nó không?”
“Nếu không quá phiền anh. Anh này, tôi sẽ cho anh số dịch vụ chuyển phát nhanh của công ty chúng tôi, anh chỉ cần cho nó vào phong bì và thả vào thùng thư là xong.”
Jimmy Wauneka dập máy và nghĩ, Vớ vẩn.
*Anh gọi cho cha Grogan, vị linh mục ở giáo sứ Công giáo trong vùng và nói với ông về tấm bản đồ, và dòng viết tắt ở bên dưới: mon.ste.mere.
“Đó có thể là tu viện Sainte-Mère.” ông nói ngay lập tức.
“Thế nó là một tu viện thật à?”
“Ồ, chắc chắn rồi.”
“Ở đâu ạ?”
“Ta không biết. Đó không phải tên Tây Ban Nha. ‘Mère’ nghĩa là ‘Mẹ’ trong tiếng Pháp. Đức Mẹ ở đây là Mẹ Đồng Trinh Maria. Có lẽ nó ở Louisiana.”
“Con phải tìm nó ở đâu?” Wauneka nói.
“Ta có danh sách các tu viện đâu đó quanh đây. Con chờ khoảng một, hai tiếng để ta tìm nhé.”
*“Tôi xin lỗi, Jimmy. Tôi không thấy có gì bí ẩn ở đây hết.”
Carlos Chavez là trợ lý của cảnh sát trưởng Gallup, sắp nghỉ hưu, và là cố vấn cho Jimmy từ trước đến nay. Giờ ông đang ngồi ngả người ra sau với đôi ủng đặt chễm chệ trên bàn, lắng nghe Wauneka với vẻ mặt đầy ngờ vực.
“Ừm, vấn đề là,” Wauneka nói. “Họ tìm thấy ông lão này ở Corazon, điên khùng và hoảng loạn, nhưng không hề có dấu hiệu bị cháy nắng, mất nước hay dãi nắng dầm mưa.”
“Thế là ông ấy đã bị tống cổ. Gia đình ông ấy đã đẩy ông ấy ra khỏi xe.”
“Không. Chẳng có họ hàng thân thích nào còn sống hết.”
“Ờ, thế chắc ông ấy tự lái xe ra.”
“Chẳng ai thấy cái xe nào hết.”
“Chẳng ai là ai thế?”
“Những người tìm thấy ông ấy.”
Chavez thở dài, “Anh có tự đi ra Corazón tìm cái xe ấy không?”
Wauneka lưỡng lự. “Không.”
“Anh đã lấy lời ai đó để làm bằng chứng.”
“Phải. Tôi nghĩ mình đã làm thế. “
“Anh nghĩ? Nghĩa là có một cái xe nào đó vẫn còn ở ngoài kia?”
“Có lẽ. Phải rồi.”
“Được. Thế tiếp theo anh đã làm gì?”
“Tôi đã gọi cho công ty của ông ta, ITC.”
“Và họ đã nói gì với anh?”
“Họ nói là ông ta bị trầm cảm vì vợ chết.”
“Hợp lý đấy.”
“Tôi không biết,” Wauneka nói. “Vì tôi đã gọi cho tòa nhà nơi ông Traub từng sống, tôi đã nói chuyện với quản lý tòa nhà. Người vợ mất một năm trước rồi.”
“Vậy chuyện xảy ra gần ngày giỗ người vợ, đúng không? Đó là lúc mọi chuyện thường xảy ra, Jimmy.”
“Tôi nghĩ mình phải đến nói chuyện với một số người ở công ty ITC.”
“Tại sao? Họ ở cách nơi ông này được tìm thấy hai trăm năm mươi dặm đấy.”
“Tôi biết, nhưng…”
“Nhưng gì? Bao nhiêu lần chúng ta gặp cảnh du khách mắc kẹt trong khu định cư rồi? Ba, bốn lần một năm? Và nửa trong số đó là chết rồi, có phải không? Hoặc chết sau đó, đúng chứ?”
“Vâng…”
“Và lúc nào cũng vì một trong hai lý do sau. Họ là bọn ngố theo thuyết Thời đại mới từ Sedona muốn tới trò chuyện với thần đại bàng và bị kẹt lại, xe hỏng. Hoặc họ bị trầm cảm. Một trong hai thôi. Và ông này bị trầm cảm.”
“Đấy là họ nói thế… “
“Vợ ông ấy chết. Này, tôi tin thế đấy.” Carlos thở dài. “Vài ông rất dễ trầm cảm, vài người thì quá phởn.”
“Nhưng có những câu hỏi vẫn chưa có lời đáp,” Wauneka nói. “Có thứ gì đó như bản đồ, và một mảnh sứ…”
“Jimmy. Lúc nào chẳng có những câu hỏi không có lời đáp.” Chavez liếc anh. “Chuyện gì đang xảy ra thế này? Có phải anh đang cố gây ấn tượng với cô bác sĩ nhỏ nhắn xinh xắn kia không?”
“Bác sĩ nhỏ nhắn nào cơ?”
“Anh biết tôi đang muốn nói ai mà.”
“Ồ không. Cô ấy nghĩ chuyện này chẳng có gì hết.”
“Cô ấy nói đúng đấy. Bỏ đi.”
“Nhưng…”
“Jimmy.” Carlos lắc đầu. “Nghe tôi. Bỏ đi.”
“Được rồi.”
“Tôi nghiêm túc đấy.”
“Được rồi mà,” Wauneka nói. “Tôi sẽ từ bỏ vụ này.”
*Ngày hôm sau, cảnh sát ở Shiprock tìm thấy một lũ nhóc mười ba tuổi đang sung sướng lái một chiếc ô tô với biển số New Mexico. Đăng ký xe trong ngăn đựng găng tay có tên Joseph Traub. Bọn trẻ nói chúng đã tìm thấy cái xe ở ngay bên đường, cách không xa Corazón, chìa khóa vẫn cắm trong ổ. Lũ trẻ đã say túy lúy, và trong xe rất lộn xộn, nhầy nhụa những bia tung tóe vương vãi khắp nơi.
Wauneka chẳng buồn tới xem nữa.
*Ngày hôm sau, Cha Grogan gọi lại cho anh. “Ta đã xem hộ con,” ông nói, “và chẳng có tu viện Sainte-Mère nào ở bất cứ đâu trên thế giới.”
“Vâng,” Wauneka nói. “Cảm ơn cha.” Dù gì đó cũng là điều anh đã nghĩ tới. Lại một ngõ cụt nữa.
“Cũng từng có một tu viện có tên như thế ở Pháp nhưng nó đã bị thiêu trụi vào thế kỷ mười bốn rồi. Giờ chỉ còn là phế tích thôi. Thực ra thì các nhà khảo cổ học từ Đại học Yale và Đại học Toulouse đang khai quật ở đó. Nhưng ta nghĩ cũng chẳng có nhiều thứ còn sót lại ở đó đâu.”
“Ừm…” Nhưng rồi anh nhớ ra một vài điều ông lão đã nói trước khi chết. Vài vần thơ vô nghĩa nào đó. “Yale ở Pháp, tầm xàm bá láp.” Đại loại thế.
“Nó ở đâu ạ?” anh hỏi.
“Đâu đó ở Tây Nam nước Pháp, gần sông Dordogne.”
“Dordogne? Cha đánh vần từ đó đi ạ!” Wauneka nói.