← Quay lại trang sách

DORDOGNE (2)

Ngày hôm sau Marek lại ở trong tu viện, giúp Rick Chang đào xới chỗ khu hầm mộ. Họ đã đào ở đây được một tuần rồi. Và mọi việc tiến triển rất chậm chạp vì họ cứ liên tục tìm thấy xác người. Cứ khi nào đào thấy xương, họ lại phải ngừng dùng xẻng, đổi sang dùng bay và bàn chải đánh răng.

Rick Chang là nhà nhân chủng học hình thể của đoàn khảo cổ. Được đào tạo để xử lý các hiện vật liên quan đến cơ thể con người, anh ta có thể nhìn vào một mẫu xương bé tí bằng hạt đậu và nói cho bạn biết đó là xương từ cổ tay phải hay cổ tay trái, đàn ông hay phụ nữ, trẻ con hay người lớn, cổ đại hay đương đại.

Nhưng những phần hài cốt họ tìm được ở đây đều rất bí ẩn. Đầu tiên, chúng đều là xương đàn ông; và trên vài mảnh xương dài có dấu vết bị thương trọng chiến trận khá rõ ràng. Vài hộp sọ có vết tên bắn. Do dẫn đến cái chết của hầu hết các binh lính vào thế kỷ mười bốn, vì tên bắn. Nhưng lại chẳng có một ghi chép gì về bất cứ trận đánh nào trong tu viện hết. Ít nhất là trong những tài liệu mà họ đã biết đến.

Họ vừa mới tìm ra một thứ trông giống một mảnh mũ trụ gỉ sét thì di động của Marek rung lên. Là Giáo sư.

“Mọi chuyện thế nào rồi ạ?” Marek nói.

“Ổn, tới giờ là như thế.”

“Thầy đã gặp được Donigbr chưa ạ?”

“Rồi. Gặp chiều nay.”

“Rồi thì sao ạ?”

“Vẫn chưa biết được.”

“Họ vẫn muốn tái thiết đến cùng ạ?”

“Ừm, thầy không chắc lắm. Mọi chuyện ở đây không như thầy đã nghĩ.” Giọng Giáo sư nghe mơ hồ, dường như đang bận suy nghĩ gì đó.

“Sao thế ạ?”

“Thầy không thể nói qua điện thoại được,” Giáo sư nói. “Nhưng thầy muốn dặn em điều này: trong vòng mười hai tiếng nữa thầy sẽ không gọi cho em được. Cũng có lẽ là phải trong vòng hai mươi tư tiếng nữa đấy.”

“Không sao đâu thầy. Mọi chuyện vẫn ổn chứ ạ?”

“Mọi chuyện đều ổn cả, André ạ.”

Marek thì không chắc chắn như thế. “Thầy có cần aspirin không ạ?” Đó là một trong những mật hiệu của họ, một cách hỏi xem liệu mọi chuyện có ổn không, trong trường hợp người kia không được nói một cách thoải mái.

“Không, không. Không cần đâu em.”

“Thầy có vẻ không được tập trung cho lắm.”

“Sửng sốt, thầy có thể nói thế. Nhưng tất cả mọi chuyện đều ổn, ít nhất thì, thầy cũng nghĩ là mọi chuyện đều ổn.” Nói đến đó, ông ngừng lại, “Thế còn khu khảo cổ thì thế nào rồi? Mọi người thế nào rồi?”

“Em đang ở trong tu viện với Rick. Bọn em đang đào các hầm mộ ở khu thứ tư. Em nghĩ chúng em sẽ đào tới nơi vào tối muộn hôm nay, hoặc chậm nhất là ngày mai.”

“Tuyệt. Cứ tiếp tục phát huy nhé, André. Thầy sẽ nói chuyện với em trong một, hai ngày tới.”

Rồi ông dập máy.

Marek cài chiếc điện thoại lại vào thắt lưng và nhíu mày. Tất cả những điều này là cái quái gì chứ?

Chiếc trực thăng bay ngay trên đầu, những chiếc hộp cảm ứng của nó treo bên dưới. Stern đã giữ nó lại thêm một ngày nữa, để thực hiện một buổi kiểm tra vào lúc sáng và chiều; anh ta muốn kiểm tra những chi tiết mà Kramer đã đề cập tới, muốn xem chính xác nếu kiểm tra với thiết bị chuyên dụng thì kết quả sẽ thế nào.

Marek băn khoăn không biết mọi chuyện đang diễn ra như thế nào, nhưng để nói chuyện với Stern, anh ta phải có một bộ điện đàm. Cái gần nhất là ở trong nhà kho.

*

“Elsie,” Marek nói khi đi vào nhà kho. “Bộ điện đàm để nói chuyện với David đâu rồi ấy nhi?”

Dĩ nhiên là Elste Kastner không trả lời. Cô tiếp tục nhìn chằm chăm vào đống tài liệu trước mặt mình. Elsie là một người phụ nữ xinh xắn, hơi mập một chút, có khả năng tập trung cực kỳ cao độ. Cô ngồi lì trong cái nhà kho này hàng giờ liền, giải mã những chữ viết trên các tấm giấy da. Công việc này đòi hỏi cô không chỉ biết sáu ngôn ngữ chính của thời Trung cổ, mà còn phải biết những thổ ngữ, những cách nói tắt, và tiếng lóng đã rơi vào quên lãng từ lâu. Marek thấy thật may mắn khi có được cô, dù cho cô có luôn xa cách với các thành viên khác trong đoàn đi chăng nữa. Và dù cho thỉnh thoảng cô cư xử cũng hơi kỳ lạ. Anh ta gọi, “Elsie?”

Cô đột ngột ngẩng lên. “Gì cơ? Ôi tôi xin lỗi, André. Tôi chỉ, ừm, tôi muốn nói là, tôi hơi…” Cô chỉ về phía mảnh giấy da trước mặt mình. “Đây là một bản thư của tu viện gửi tới một bá tước Đức. Về việc lo liệu chỗ nghỉ đêm cho đội hộ tống riêng của ông ta: hai mươi chín người và ba mươi lăm ngựa. Đó là những thứ mà ông bá tước này mang theo bên mình để rong ruổi qua khắp các vùng lãnh địa. Nhưng nó lại được viết bằng thứ ngôn ngữ trộn lẫn giữa tiếng Latin và tiếng Occitan, và chữ viết thì thật là kinh khủng.”

Elsie cầm tấm giấy da lên và mang nó tới trước cái máy chụp đặt trong góc phòng. Một chiếc camera được dựng trên cái giá bốn chân đặt trên bàn, với ánh sáng nhấp nháy chiếu vào từ bốn phía. Cô đặt mảnh giấy xuống, vuốt phẳng nó ra, sắp xếp mã vạch nhận dạng xuống dưới cùng, đặt một chiếc thước chia độ rộng khoảng sáu phân xuống để làm chuẩn, rồi chụp lại toàn bộ.

“Elsie? Cái điện đàm dùng để nói chuyện với David đâu?”

“Ôi, xin lỗi. Nó ở trên cái bàn đằng kia kìa. Nó có dán mẩu giấy ghi chữ DS ấy.”

Marek đi lại chỗ cái bàn, ấn nút. “David à? André đây.”

“Chào, André.” Marek gần như không thể nghe được David nói gì giữa những âm thanh ồn ào của trực thăng.

“Anh tìm được cái gì chưa?”

“Không. Không có gì. Hoàn toàn chẳng có gì hết,” Stern nói. “Bọn tôi đã kiểm tra tu viện, kiểm tra khu rừng rồi. Chẳng có khu nào như Kramer đã nói hết: không thấy trên SLS, chẳng thấy trên ra đa, hồng ngoại hay tử ngoại gì cả. Tôi chẳng biết họ phát hiện ra chúng bằng cách nào nữa.”

*

Họ rạp người trên lưng ngựa và phi nước đại dọc theo một thảm cỏ nhìn ra sông, ít nhất là Sophie cũng đang phi nước đại; Chris cứ xốc lên nảy xuống liên hồi, bấu chặt lấy dây cương vì sợ. Thường thì cô chẳng bao giờ phi nước đại những dịp họ đi chơi với nhau thế này, vì nghĩ cho khả năng hơi kém của anh, nhưng hôm nay cô vừa phi qua cánh đồng vừa reo hò vì vui sướng.

Chris cố bắt kịp cô, cầu mong sao cho cô sẽ sớm dừng lại, và cuối cùng thì cô cũng dừng lại thật, ghìm cương con ngựa đen đang thở phì phò và mồ hôi nhễ nhại của mình lại, vỗ vỗ vào cổ nó, đợi anh bắt kịp.

“Tuyệt đấy chứ?” cô nói.

“Phải,” anh vừa nói vừa thở hổn hển. “Hiển nhiên là thế rồi.”

“Anh giỏi lắm, thật đấy, Chris ạ. Thế ngồi của anh càng lúc càng vững.”

Tất cả những gì anh có thể làm là gật gật đầu. Mông anh đau nhói sau những cú nảy lên hụp xuống điên cuồng vừa rồi, đùi thì nhức nhối vì kẹp quá chặt vào hai bên hông ngựa.

“Ở đây đẹp quá,” cô nói, chỉ tay về phía dòng sông, về phía những tòa lâu đài sẫm màu trên vách đá phía xa. “Chẳng phải là rất tuyệt vời sao?”

Rồi cô liếc nhìn đồng hồ; điều đó làm anh thấy khó chịu. Nhưng đi nước kiệu hóa ra lại rất dễ chịu. Cô cưỡi ngựa rất gần anh, hai con ngựa gần như chạm vào nhau, và cô nhoài người sang để thì thầm vào tai anh; có lần cô còn quàng tay sang ôm vai và hôn lên môi anh nữa trước khi quay mặt đi chỗ khác, rõ ràng là xấu hổ trước giây phút táo bạo của mình.

Từ vị trí hiện tại, họ phóng tầm mắt nhìn về toàn bộ khu di tích: phế tích Castelgard, tu viện và La Roque trên ngọn đồi phía xa. Mây trôi nhanh trên đầu, và trải bóng lên cảnh vật. Không khí thật ấm áp, dễ chịu và tĩnh lặng, ngoại trừ tiếng động cơ của một chiếc ô tô từ đằng xa.

“Ôi, Chris,” cô nói, và lại hôn anh lần nữa. Khi họ dứt nhau ra, cô lại nhìn vào khoảng không và đột nhiên vẫy tay.

Một chiếc xe mui trần màu vàng đang phóng nhanh về phía họ. Đó là một chiếc xe đua thể thao gầm thấp, động cơ gầm rú liên hồi. Khi còn cách một đoạn ngắn, chiếc xe dừng lại, người lái xe đứng nhỏm dậy sau tay lái rồi ngồi lên lưng ghế. “Nigel!” cô reo lên hạnh phúc.

Người đàn ông trong ô tô uể oải vẫy tay đáp lại, tay anh ta tạo thành một đường cong lừ đừ chậm chạp.

“Ôi Chris, anh có thể giúp em một chút được không?” Sophie trao dây cương con ngựa của mình cho Chris, nhảy xuống đất, chạy xuống đồi về phía chiếc ô tô rồi vòng tay ôm người lái xe. Hai người bọn họ vào trong xe. Khi xe phóng đi, cô quay lại nhìn Chris và trao cho anh một nụ hôn gió.

*

Sarlat, thị trấn Trung cổ được phục dựng lại trông cực kỳ quyến rũ vào ban đêm, khi những tòa nhà chen chúc nhau và những con hẻm chật hẹp trở nên huyền ảo trong ánh đèn. Trên đường Toumy, Marek và những nghiên cứu sinh khác đang ngồi trong một nhà hàng ngoài trời dưới những chiếc ô lớn màu trắng, vừa uống rượu vang đỏ đậm Cahors vừa đắm chìm vào màn đêm.

Thường thì Chris Hughes rất thích những buổi tối như thế này, nhưng tối nay dường như chẳng có thứ gì vừa ý anh. Trời đêm quá ơi bức; cái ghế kim loại của anh không thoải mái. Anh đã gọi món thịt gà trộn nấm ưa thích nhưng thịt gà thì khô không khốc, nấm thì nhạt nhẽo. Thậm chí cả cuộc nói chuyện cũng làm anh ức chế: bình thường, các nghiên cứu sinh hay nói về ngày làm việc của mình, nhưng hôm nay kiến trúc sư trẻ của họ, Kate Erickson, vừa gặp vài người bạn từ New York tới, hai cặp đôi người Mỹ ngấp nghé tuổi ba mươi – hai tay buôn bán cổ phiếu với các cô bạn gái của họ. Anh ghét họ gần như ngay lập tức.

Mấy người đàn ông đó liên tục đứng lên để nghe điện thoại. Những người phụ nữ đều là chuyên viên quan hệ công chúng cho một công ty PR; họ vừa mới tổ chức một bữa đại tiệc chúc mừng cuốn sách mới của Martha Stewart. Thói tự cao tự đại bắng nhắng của họ nhanh chóng làm Chris nóng mặt; và, như các doanh nhân thành công khác, họ có cái thói hay coi những người lắm chữ là một bọn hâm hâm, không thể sống được trong thế giới thực, không thể hòa nhập vào trò chơi thực của cuộc sống. Anh nghĩ cũng có thể họ chỉ thấy không thể lý giải nổi tại sao lại có người chọn cái nghề mà không thể làm cho mình trở thành triệu phú ở tuổi hai tư.

Nhưng anh cũng phải thừa nhận rằng họ cực kỳ vui tính; họ uống rất nhiều rượu, và hỏi rất nhiều về dự án. Đáng tiếc, đó đều là những câu hỏi thông thường, những câu mà khách du lịch hay hỏi: Nơi đó có gì đặc biệt vậy? Sao anh biết cần đào ở đâu? Sao anh biết mình cần tìm cái gì? Anh đào sâu đến đâu và sao anh biết lúc nào thì cần phải dừng lại?

“Sao các cậu lại làm ở đây? Nơi này có gì đặc biệt vậy?” một người phụ nữ hỏi.

“Khu vực này có những nét rất đặc trưng của thời kỳ đó,” Kate nói, “với hai tòa lâu đài đối diện nhau. Nhưng thứ làm nó trở thành một phát hiện thực sự nằm ở chỗ nó đã từng là nơi ít người để ý tới và trước giờ chưa từng được ai khai phá cả.”

“Thế mà tốt à? Ít người để ý ấy?” Người phụ nữ đó chau mày; cô ta đến từ một thế giới mà không được quan tâm đến là một việc rất xấu.

“Nó rất đáng khao khát đấy,” Marek nói. “Trong ngành chúng tôi, những cơ hội thực sự chỉ đến khi thế giới bỏ quên một vùng đất nào đó. Ví dụ như Sarlat. Thành phố này này.”

“Ở đây rất tuyệt,” một người phụ nữ nói. Những người đàn ông lại bước ra chỗ khác để nói chuyện điện thoại.

“Nhưng cái chính,” Kate nói, “việc thành phố này tồn tại không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ban đầu, Sarlat là thánh địa cho người hành hương bao quanh một tu viện với nhiều di tích cổ; cuối cùng nó trở nên lớn đến nỗi tu viện phải dời đi, tìm sự yên ả và thanh bình ở một nơi khác. Sarlat tiếp tục là một trung tâm buôn bán phồn thịnh của vùng Dordogne. Nhưng ảnh hưởng của nó đã mất dần theo năm tháng, và vào thế kỷ mười hai, thế giới đã bỏ rơi Sarlat. Thành phố mờ nhạt và nghèo nàn đến nỗi chẳng có đủ tiền để xây lại những khu cũ nữa. Những tòa nhà cũ kỹ vẫn cứ đứng trơ trơ ở đó, không có hệ thống điện, nước hiện đại. Hầu hết đều đã bị bỏ hoang.”

Kate giải thích rằng vào những năm 1950, thành phố định cho phá sập khu nhà cũ và xây mới toàn bộ. “André Malraux đã ngăn việc đó lại. Ông ta đã thuyết phục chính phủ Pháp huy động đầu tư tái thiết nó. Người ta nghĩ ông ta bị điên. Giờ, Sarlat là thành phố Trung cổ chuẩn nhất trên toàn nước Pháp, là một trong những điểm thu hút khách du lịch lớn nhất trong cả nước.”

“Hay thật đấy,” người phụ nữ nói một cách bâng quơ. Thình lình, cả hai người đàn ông cùng lúc quay lại bàn, ngồi xuống, và cho điện thoại vào trong túi với điệu bộ rất quả quyết.

“Chuyện gì vậy?” Kate hỏi.

“Thị trường đóng cửa rồi,” một người giải thích. “Anh đang nói về Castelgard nhỉ? Nó có gì đặc biệt vậy?”

Marek nói, “Chúng ta đang nói chuyện trước đây nó chưa từng được khai quật. Nhưng nó cũng cực kỳ quan trọng với chúng tôi vì Castelgard là một thành phố đặc trưng của thế kỷ mười bốn với những bức tường thành bao quanh. Thị trấn còn cổ hơn thế, nhưng khoảng giữa những năm 1300 và 1400 hầu hết các kết cấu của nó đều đã được xây lại, chỉnh sửa, để phòng thủ vững chắc hơn: những bức tường dày hơn, những lớp tường đồng tấm, hào và cổng phức tạp hơn.”

“Thế đó là thời nào đấy? Đêm trường Trung cổ à?” một người đàn ông vừa hỏi vừa rót rượu.

“Không,” Marek nói, “Chính xác thì, đó là thời kỳ Trung Cổ Thịnh Vượng.”

“Không thịnh vượng được như tôi đâu,” người đàn ông nói. “Thế cái gì có trước nó vậy, thời kỳ Trung cổ Suy Thoái18 à?”

“Đúng đấy,” Marek nói.

“Này,” người đàn ông nói, nâng ly rượu lên. “Lần đầu tiên nói đúng!”

*

Bắt đầu vào khoảng những năm 40 trước Công Nguyên, châu Âu nằm dưới sự cai trị của La Mã. Vùng đất thuộc nước Pháp mà họ đang ngồi đây, Aquitaine, có nguồn gốc là vùng Aquitania thuộc địa của La Mã. Dọc khắp châu Âu, người La Mã xây đường, giám sát việc giao thương, duy trì luật lệ và trật tự. Châu Âu phồn thịnh phát triển.

Rồi, khoảng năm 400 Công Nguyên, La Mã bắt đầu rút lính và để mặc các khu vực đồn trú của mình. Sau khi đế chế La Mã sụp đổ, châu Âu rơi vào tình trạng không luật lệ, kéo dài tới tận năm trăm năm sau. Dân số giảm mạnh, thương mại trì trệ, các thành phố co lại. Đất nước bị bọn rợ xâm lược: bọn Goth và Vandal, Hung Nô và Viking. Giai đoạn đen tối đó được gọi là thời kỳ Trung cổ Suy Thoái.

“Nhưng về thiên niên kỷ gần nhất – tôi muốn nói là năm 1000 Công Nguyên, mọi chuyện đã bắt đầu trở nên tốt đẹp hơn.” Marek nói. “Một thể chế mới được hình thành mà chúng ta gọi là chế độ phong kiến – dù ở thời ấy thì người ta không dùng từ đó.”

Dưới chế độ phong kiến, những lãnh chúa hùng mạnh giúp duy trì trật tự từng địa phương. Thể chế mới rất có hiệu quả. Nông nghiệp phát triển mạnh. Thương nghiệp và các thành phố đua nhau nở rộ. Đến khoảng những năm 1200 sau Công Nguyên, châu Âu lại phồn hoa trở lại, với dân số đông hơn nhiều so với thời Đế chế La Mã.

“Vậy là năm 1200 đánh dấu mốc đầu tiên của thời kỳ Trung Cổ Thịnh Vượng – thời đại của phát triển, khi văn hóa bắt đầu nảy nở.”

Những người Mỹ có thái độ đầy ngờ vực. “Nếu nó vĩ đại thế, sao ai cũng xây thêm thành lũy phòng thủ làm gì?”

“Vì cuộc chiến một trăm năm,” Marek nói, “Pháp và Anh đánh nhau.”

“Gì thế, thánh chiến à?”

“Không,” Marek nói. “Tôn giáo chẳng liên quan gì ở đây hết. Hồi ấy tất cả mọi người đều theo Công giáo.”

“Thật à? Thế mấy người Tin Lành thì sao?”

“Không có người theo đạo Tin Lành.”

“Thế họ ở đâu?”

Marek nói, “Lúc ấy họ vẫn chưa tự tạo ra bản thân mình.”

“Thật à? Thế cuộc chiến ấy là về cái gì vậy?”

“Chủ quyền,” Marek nói. “Nó liên quan đến thực tế rằng Anh sở hữu một phần lớn đất của Pháp.”

Một trong hai người đàn ông chau mày đầy nghi hoặc. “Anh đang định nói gì với tôi vậy? Nước Anh từng sở hữu một phần nước Pháp á?”

Marek thở dài.

*

Anh ta có một thuật ngữ dành riêng cho những người loại này: phàm phu tục tử – những người không biết tí gì về quá khứ, và tự hào về cái sự không biết gì ấy.

Những kẻ phàm phu tục tử tin rằng hiện tại là khoảng thời gian duy nhất có ý nghĩa, và tất cả những thứ xảy ra trước đó đều có thể an tâm mà lờ đi cũng không vấn đề gì. Thế giới hiện đại đầy thách thức và thật mới mẻ, và quá khứ chẳng có chút dấu ấn nào lên nó hết. Học sử cũng vô ích y như học mã Morse, hay là học lái xe ngựa vậy. Và cái thời Trung Cổ ấy – mấy cái anh hiệp sĩ giáp trụ leng keng và các cô mặc váy chùng và đội mũ chóp nhọn ấy – hiển nhiên là không đáng quan tâm.

Nhưng sự thật là thế giới hiện đại được hình thành dựa trên thời kỳ Trung Cổ. Tất cả mọi thứ từ hệ thống pháp luật, tới quốc gia dân tộc, tới sự phụ thuộc vào công nghệ, tới những khái niệm về tình yêu lãng mạn đẹp đẽ đều đã được hình thành đầu tiên ở thời Trung cổ. Những nhà đầu tư chứng khoán này đã nợ cái ý tưởng về kinh tế thị trường của thời Trung Cổ. Và nếu họ không biết điều đó, thì họ sẽ chẳng biết được cả những điều cơ bản nhất về việc họ là ai. Tại sao họ lại làm những điều họ đã làm. Từ đâu mà họ lại xuất hiện ở đây được.

Giáo sư Johnston thường nói rằng nếu anh không biết lịch sử, anh sẽ chẳng biết điều gì hết. Anh sẽ như một chiếc lá vốn không hề biết mình chỉ là một phần của cái cây.

*

Những kẻ kinh doanh cổ phiếu cứ tiếp tục, ngoan cố đẩy chủ đề theo cái cách một số người hay làm khi bị buộc phải đối mặt với sự ngu dốt của chính mình: “Thật à? Nước Anh từng sở hữu một phần của nước Pháp à? Vô lý quá. Bọn Anh với bọn Pháp lúc nào chẳng ghét nhau.”

“Không phải lúc nào cũng thế,” Marek nói. “Chuyện này là sáu trăm năm trước rồi. Lúc ấy đó là một thế giới hoàn toàn khác. Người Anh và người Pháp khi đó gắn bó với nhau nhiều hơn bây giờ nhiều. Từ khi lính Normandy tới chinh phục nước Anh vào năm 1066, tất cả những quý tộc Anh ở đó về cơ bản hầu như đều là người Pháp. Họ nói tiếng Pháp, ăn đồ Pháp, chạy theo thời trang kiểu Pháp. Chẳng lạ gì khi họ sở hữu các vùng lãnh thổ của Pháp. Ở hướng Nam này, họ đã thống trị Aquitaine hơn một thế kỷ đấy.”

“Thế á? Vậy cuộc chiến ấy là về cái gì? Người Pháp quyết là họ muốn có lại tất?”

“Ít nhiều thì đúng là vậy.”

“Hiểu,” người đàn ông đó nói, với một cái gật đầu có vẻ như đã nắm được vấn đề.

*

Marek tiếp tục giảng giải. Chris giết thời gian bằng cách ngồi cố dõi theo ánh mắt của Kate. Những đường nét góc cạnh trên khuôn mặt của cô, khi ở dưới ánh mặt trời có vẻ rất thô, thậm chí còn khó nhìn, thì lúc này dưới ánh nến lại trở nên mềm mại lạ thường. Anh chợt nhận ra cô cuốn hút đến không ngờ.

Nhưng cô không nhìn lại anh. Mọi sự chú ý của cô đang tập trung hết lên đám bạn cổ phần cổ phiếu kia. Bản chất mà, Chris nghĩ. Dù họ có nói thế nào đi nữa, phụ nữ cũng vẫn cứ bị các tay lắm tiền nhiều quyền hấp dẫn. Kể cả có tâm thần và đáng ghét như hai thằng cha này đi nữa.

Anh thấy mình ngồi chăm chú soi mấy cái đồng hồ của bọn họ. Cả hai người đàn ông đều đeo đồng hồ to nặng hiệu Rolex, nhưng cái dây kim loại chỉ được gài lỏng lẻo, thế là mấy cái đồng hồ cứ thõng xuống và lủng lẳng quanh cổ tay họ như vòng đeo tay của phụ nữ. Đó là dấu hiệu của sự thờ ơ và giàu có, thói quen luộm thuộm thể hiện rằng bọn họ vĩnh viễn đang đi nghỉ. Nó làm anh thấy khó chịu.

Khi một trong hai người đàn ông bắt đầu ngồi nghịch đồng hồ, lật lật nó quanh cổ tay mình, Chris cuối cùng cũng không thể chịu thêm được nữạ. Anh vùng mình đứng dậy. Lẩm bẩm vài câu xin lỗi vì có việc phải đi kiểm tra những phân tích của mình ở khu di tích, anh đi thẳng ra đường Joumy xuống cuối bãi đậu xe bên rìa khu nhà cũ.

Dọc khắp con phố, dường như đập vào mắt Chris chỉ toàn là những đôi yêu nhau, tay trong tay dạo bước, phụ nữ ngả đầu vào vai đàn ông. Họ rất thoải mái dễ chịu với nhau, chẳng cần phải nói câu nào, chỉ thư thái tận hưởng cảnh vật xung quanh. Mỗi người đi qua lại càng làm anh cảm thấy khó chịu hơn, và khiến anh phải rảo bước nhanh hơn.

Thật thanh thản khi cuối cùng cũng ra được chỗ chiếc ô tô và lái về nhà.

Nigel!

Thể loại ngớ ngẩn nào lại có tên là Nigel cơ chứ?

*

Sáng hôm sau, Kate lại đang treo người trên trần nhà nguyện ở Castelgard thì chiếc điện đàm của cô kêu một tiếng bíp và có tiếng người gào lên “Thịt băm trộn ngô Mexico nóng hổi này! Thịt băm trộn ngô Mexico nóng hổi này! Khu số 4. Đến lấy đi này. Bữa trưa được rồi.”

Đó là tín hiệu của đoàn khảo cổ khi có phát hiện mới được tìm thấy. Họ dùng ám hiệu cho tất cả những thông tin quan trọng của mình, vì họ biết các nhà chức trách địa phương thỉnh thoảng cũng theo dõi họ. Ở những khu khác, các quan chức chính phủ thậm chí còn thỉnh thoảng mời người đến tịch thu những phát hiện chỉ ngay khi chúng vừa được tìm thấy, trước khi những nhà khảo cổ kịp ghi lại và định mức giá trị của chúng. Dù chính phủ Pháp có cách nhìn thoáng hơn về các cổ vật – tốt hơn nhiều so với chính phủ Mỹ – thì các thanh tra hiện trường cũng luôn khét tiếng khó lường. Và dĩ nhiên, luôn có những cảm giác không hay về việc mấy kẻ ngoại quốc dám chiếm đóng những nơi thiêng liêng cao quý của nước Pháp.

Khu số 4, mà cô đã biết, là ở chỗ tu viện. Cô băn khoăn không biết nên ở lại trong nhà nguyện hay cất công đi ra đấy, nhưng rồi cuối cùng cô cũng quyết định là sẽ đi. Sự thật là hầu hết những công việc hằng ngày của họ đều rất nhàm chán và chẳng có gì nổi bật hết. Họ luôn cần đến sự phấn khích trước những phát hiện mới để nhóm lên ngọn lửa nhiệt tình.

Cô đi qua phế tích của thị trấn Castelgard. Không giống với rất nhiều người khác, Kate có thể dựng lại phế tích đó trong tâm trí, và nhìn thị trấn một cách tổng thể. Cô thích Castelgard; đây là một thị trấn nghiêm trọng đứng đắn, được hình thành và xây dựng giữa thời chiến. Nó có tất cả những nét chân thực dứt khoát đến tuyệt vời mà cô không thể nào tìm được trong bất kỳ khóa học nào ở trường kiến trúc.

Cô cảm nhận ánh mặt trời nóng nực chiếu xuống cổ, xuống chân mình và nghĩ đến niềm vui không gì tả nổi khi bản thân đang được ở Pháp chứ không phải đang ngồi ở New Haven, trong cái chỗ làm việc bé tí chật như nêm trên tầng sáu của tòa nhà A&A19, với những ô cửa sổ phản chiếu xuống công trình giả kiến trúc thuộc địa của Đại học Davenport và nhà tập đa năng giả kiến trúc Gothic Payne Whitney. Kate thấy thất vọng về trường kiến trúc, thấy A&A thực sự là rất đáng thất vọng, và cô chưa bao giờ hối tiếc với quyết định chuyển sang ngành sử học của mình.

Dĩ nhiên, mùa hè ở miền Nam nước Pháp thì khỏi phải bàn. Cô thích nghi với đội khảo cổ ở Dordogne đây khá tốt. Cho tới giờ thì đây đúng là một mùa hè thú vị.

Đương nhiên là cũng có vài người đàn ông phải né tránh. Marek ngay từ đầu đã có chút đong đưa, rồi Rick Chang, và rất chóng thôi cô sẽ phải xử lý anh chàng Chris Hughes nữa. Chris đã rất khó khăn trong việc đối mặt với lời từ chối của cô bạn người Anh – anh ta hiển nhiên là người duy nhất trong cả Périgord không thấy được chuyện đó chắc chắn sẽ tới và giờ anh ta đang cư xử cứ y như một con cún bị thương. Anh ta đã nhìn chằm chằm vào cô tối hôm qua, trong suốt bữa ăn. Đàn ông không chịu nhận ra rằng cách xử sự hậu chia tay kiểu ấy khá là xúc phạm người khác.

Cứ mải chìm đắm trong suy nghĩ, cô đi dọc xuống cuối sông, nơi nhóm nghiên cứu neo chiếc thuyền nhỏ dùng để đi lại.

Và đang ở đó, mỉm cười chào cô, là Chris Hughes.

*

“Tôi sẽ chèo,” anh đề nghị khi hai người leo lên thuyền. Cô để anh làm thế. Anh bắt đầu đẩy thuyền qua sông với những cú sải thật dễ dàng. Cô không nói gì hết, chỉ nhắm mắt lại, quay mặt về phía ánh mặt trời. Thật ấm áp và dễ chịu.

“Hôm nay đẹp quá,” cô nghe anh nói thế.

“Ừm, rất đẹp.”

“Cô biết đấy, Kate,” anh bắt đầu, “tôi thực sự rất thích bữa tối hôm trước. Tôi đang nghĩ là có lẽ…”

“Anh quá khen rồi, Chris,” cô nói. “Nhưng tôi phải thành thật với anh.”

“Thật à? Về chuyện gì?”

“Tôi vừa mới chia tay một người.”

“Ồ. Ừm hừm…”

“Và tôi muốn có chút thời gian để suy nghĩ.”

“Ồ,” anh nói. “Chắc chắn rồi. Tôi hiểu mà. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn có thể…”

Cô trao cho anh nụ cười dịu dàng nhất có thể. “Tôi không nghĩ vậy đâu,” cô nói.

“Ồ. Được.” Cô thấy rằng anh bắt đầu muốn trề môi hờn dỗi. Rồi anh nói, “Cô biết không, cô nói đúng đấy. Tôi thực sự nghĩ rằng chúng ta cứ là đồng nghiệp là tốt nhất.”

“Đồng nghiệp nhé,” cô nói và bắt tay anh.

Chiếc thuyền đã cập bến bờ bên kia.

*

Tại tu viện, một đám đông đang đứng quanh đỉnh của khu số bốn và nhìn xuống khu vực khai quật phía dưới.

Khu vực khai quật là một hình vuông hoàn hảo, hơn sáu mét mỗi cạnh, đâm sâu xuống khoảng ba mét. Ở phía Bắc và phía Đông, các nhà khảo cổ đã khai quật được những phần dẹt của các mái vòm đá, dấu hiệu chỉ ra rằng phạm vi đào xới giờ nằm trong khu vực hầm mộ, ngầm phía dưới chân tu viện chính. Những mái vòm đá được lèn đầy những tảng đất cứng. Tuần trước, họ đã đào một hệ thống cống ngầm qua mái vòm phía Bắc, nhưng nó dường như chẳng đi đến đâu hết. Được chống đỡ bởi những cột gỗ cứng, nó giờ đã bị lờ đi không thương tiếc.

Giờ mọi sự hồi hộp phấn khích đều đổ dồn về phía vòm Đông, nơi gần đây người ta đã đào được một đường cống khác. Tiến độ khá chậm vì họ cứ liên tục phát hiện thấy hài cốt mà Rick Chang có thể xác định cụ thể đó là của binh lính.

Nhìn xuống phía dưới, Kate thấy những bức tường bao quanh đường cống đều đã đổ nát ở cả hai phía, đất cứ lở vào trong, phủ lên đường cống. Ở đó giờ là một ụ đất tướng, giống như một vụ lở đất vậy; chặn đứng mọi nỗ lực đào bới sâu hơn. Và khi đất cứ đổ xuống, những cái sọ người phủ màu đất và những khúc xương dài cũng theo đó mà rơi ra.

Cô nhìn thấy Rick Chang đang ở dưới đó, cả Marek, và Elsie, người đã chịu rời ổ để đi ra đây. Elsie đặt chiếc máy ảnh kỹ thuật số lên một cái chạc ba chân, chụp lia lịa. Những tấm này sau đó sẽ được đưa vào máy tính để tạo ra một bức hình toàn cảnh ba trăm sáu mươi độ. Thường thì cứ cách một giờ chúng lại được chụp một lần, để ghi lại đầy đủ mọi giai đoạn khai quật.

Marek ngước lên và thấy Kate đang đứng bên rìa. “Ê này,” anh ta nói. “Tôi tìm cô mãi. Xuống dưới đây đi.”

Cô trèo cầu thang xuống mặt nền đầy đất của cái hố. Dưới ánh nắng nóng nực giữa trưa, cô ngửi rõ mùi đất ẩm, và mùi ngai ngái của hài cốt mục rữa. Một trong những cái sọ người rời ra và lăn về phía chân cô. Nhưng cô không hề chạm vào nó; cô biết những phần di hài đó phải được ở nguyên như thế cho tới khi Chang chuyển chúng đi.

“Đây có lẽ là khu hầm mộ,” Kate nói, “nhưng những phần xương này không hề được chôn cất cẩn thận. Có phải đã từng có một trận đánh ở đây không?”

Marek nhún vai. “Đánh nhau ở khắp mọi nơi. Tôi có hứng thú với cái đó hơn.” Anh ta chỉ về phía mái vòm, chẳng có trang trí gì hết, tròn và hơi dẹt.

Kate nói, “Hội thánh Citeaux, thậm chí là có thể vào khoảng thế kỷ mười hai…”

“Ừ, chắc chắn rồi. Thế còn cái kia thì sao?” Ngay bên dưới phần chính của mái vòm, chỗ đổ nát của đường cống đã để lại một cái hố đen ngòm rộng gần một mét rưỡi.

Cô nói, “Anh đang nghĩ gì vậy?”

“Tôi đang nghĩ là chúng ta nên vào trong đó. Ngay lập tức.”

“Tại sao?” cô hỏi. “Sao phải vội thế?”

Chang nói với cô: “Trông có vẻ là sau lỗ hổng ấy cũng khá rộng đấy. Một phòng, có thể là một vài phòng.”

“Thế thì sao?”

“Giờ nó đã tiếp xúc với không khí. Lần đầu tiên trong, có lẽ là khoảng, sáu trăm năm đấy.”

Marek nói. “Và trong không khí thì có ô xy.”

“Mấy người, nghĩ là có cổ vật trong đấy à?”

“Tôi không biết trong đấy có gì,” Marek nói. “Nhưng chúng có thể bị hư hại nặng chỉ trong vài giờ.” Anh ta quay về phía Chang. “Chúng ta có cái ống rắn không nhỉ?”

“Không, nó ở Toulouse, đang sửa.” Ống rắn là một đoạn cáp sợi quang có thể gắn với một cái máy quay camera. Họ dùng chúng để quay những nơi không thể tiếp cận được.

Kate nói, “Sao mọi người không bơm đầy ni tơ vào phòng đó?” Ni tơ có đặc tính khá trơ, lại nặng hơn không khí. Nếu họ bơm nó qua lỗ hổng đó, nó sẽ lấp đầy các khoảng trống, y như nước vậy. Và ngăn tất cả những cổ vật khỏi bị ô xy hóa.

“Tôi sẽ làm thế.” Marek nói, “nếu tôi có đủ lượng khí. Thể tích của cái bình khí lớn nhất chúng ta có chỉ là năm mươi lít thôi.”

Và như thế thì không đủ.

Cô chỉ về phía những cái sọ. “Tôi biết, nhưng nếu anh định làm gì lúc này thì sẽ là động…”

“Tôi chẳng bận tâm gì về mấy cái xương,” Chang nói. “Chúng đã bị dời chỗ rồi. Và trông giống như là mộ tập thể sau một trận chiến ấy. Nhưng cũng chẳng tìm hiểu được gì nhiều từ chúng đâu.” Anh quay người lại và ngước nhìn lên, “Chris, ai cầm cái đèn chiếu ấy nhỉ?”

Phía trên cao, Chris nói, “Không phải tôi. Tôi nghĩ lần cuối cùng chúng được dùng là ở đây mà.”

Một trong những sinh viên nói, “Không, nó ở khu số ba ấy.”

“Đi lấy thôi. Elsie, cô sắp xong chỗ ảnh đấy chưa?”

“Chút nữa, chút nữa.”

“Sắp xong, hay là còn lâu mới xong?”

“Một phút nữa.”

Chang đang gọi với lên những sinh viên ở phía trên, nhờ họ mang mấy cái đèn chiếu xuống. Bốn người trong số họ đã hớn hở chạy vội đi tìm.

Marek nói với những người còn lại, “Được rồi, mọi người, tôi cần đèn pin cầm tay, túi đụng dụng cụ khai quật, bình ô xy mang theo người, tai nghe, dây dẫn, tất cả các thứ cần thiết – ngay bây giờ.”

Xuyên suốt khung cảnh khẩn trương ấy, Kate vẫn tiếp tục đưa mắt nhìn vào cái lỗ bên dưới mái vòm. Mái vòm trông rất mỏng manh, những tảng đá chỉ được gắn hờ với nhau. Thông thường, một vòm mái giữ được hình nhờ sức nặng của những tảng đá ngoại biên ép lên phiến đá trung tâm, phiến đá đỉnh của mái vòm. Nhưng ở đây, toàn bộ phần phía trên cái lỗ ấy trông có vẻ như sẽ đổ ụp xuống bất cứ lúc nào. Phần gờ đất đắp bên dưới cái lỗ thì cực kỳ lỏng lẻo. Cô nhìn những viên sỏi cứ thế rơi rụng hết chỗ này đến chỗ khác. Trông chẳng hay chút nào.

“André, tôi không nghĩ là trèo ra đó lại an toàn đâu…”

“Ai bảo là trèo ra nào? Mọi người sẽ thả cô xuống.”

“Tôi á?”

“Dĩ nhiên. Cô treo người lên trên mái vòm, rồi đi vào trong.” Cô chắc chắn trông rất khổ sở, vì anh ta đã không thể nhịn nổi cười, “Đừng lo, tôi sẽ đi với cô.”

“Anh có nghĩ là, nếu chúng ta tính sai…” Cô đang nghĩ là, Chúng ta sẽ có thể bị chôn sống ở đây đấy.

“Gì thế?” Marek nói. “Sợ mất mật rồi à?”

Anh ta chỉ cần nói có thế.

*

Mười phút sau, cô đã treo người lơ lửng trên rìa mái vòm lộ thiên. Cô đeo cái ba lô đựng dụng cụ khảo cổ phía sau, gồm một bình ô xy trên lưng và hai chiếc đèn pin lủng lẳng như hai quả lựu đạn cầm tay giắt ở thắt lưng. Cô đẩy bộ lọc ra trước trán. Dây điện chạy từ chiếc điện đàm tới một bộ pin bỏ trong túi quần. Với quá nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh thế này, cô cảm thấy thật lóng ngóng và không thoải mái. Marek đứng phía trên cô, giữ lấy sợi dây an toàn. Và dưới đáy hố, Rick và các sinh viên đang căng thẳng dõi theo họ.

Cô ngước nhìn Marek. “Cho tôi mét rưỡi nào.” Anh ta thả một mét rưỡi dây ra, và cô trượt xuống cho tới khi chân chạm nhẹ vào đống đất bên dưới. Đất vụn rơi xuống dưới chân. Cô ngả người về phía trước.

“Thêm một mét nữa.”

Cô hạ xuống bằng cả tay và chân, dồn toàn trọng lực xuống gò đất. Nó vẫn cứng. Nhưng cô vẫn nhìn lên trên trần vòm với vẻ đầy cảnh giác. Rìa phiến đá đỉnh mái vòm đang vỡ ra.

“Mọi thứ ổn cả chứ?” Marek gọi.

“Ổn,” cô nói. “Giờ tôi sẽ vào trong đây.”

Cô bò lại chỗ cái lỗ hổng phía mái vòm. Ngước lên nhìn Marek, cô tháo chiếc đèn ra. “Tôi không biết liệu anh có thể làm được không, André. Đất có thể không chịu nổi sức nặng của anh đâu.”

“Vui tính nhỉ. Cô không làm việc này một mình đâu, Kate.”

“Ừ thì, ít nhất cũng để tôi vào đó trước.”

Cô bật đèn, bật điện đàm lên, kéo cái bộ lọc xuống để có thể thở qua đầu lọc, và bò qua cái lỗ, xuyên thẳng bóng tối phía trước.

*

Không khí mát mẻ đến bất ngờ. Ánh đèn vàng từ chiếc đèn pin của cô hắt lên những bức tường đá trơ trọi, lên mặt sàn đá trống trơn. Chang nói đúng; đây là không gian mở ngầm phía dưới tu viện. Và nó dường như kéo dài khá xa, trước khi đất và gạch vụn bịt kín lối đi. Bằng cách nào đó căn hầm này lại không hề bị ngập đầy đất như những căn hầm khác. Cô chiếu đèn lên trần, cố nhìn hiện trạng của nó. Cô không thể nói chính xác được. Không tốt lắm.

Cô bò lên phía trước bằng hai tay và đầu gối, rồi bắt đầu tụt xuống dưới, trượt dần xuống mặt đất. Vài giây sau, cô đã đứng trong hầm mộ.

“Tôi ở đây rồi.”

Quanh cô chỉ toàn bóng tối, còn không khí thì thật ẩm ướt. Mùi ngai ngái khó chịu vẫn xộc lên, dù đã có ống lọc. Những cái ống đó như mặt nạ phòng độc loại bỏ hết các vi khuẩn và vi rút. Ở hầu hết các khu khai quật khác, chẳng ai thèm đoái hoài gì đến mặt nạ, nhưng ở đây là bắt buộc, vì bệnh dịch đã hoành hành tới vài lần trong suốt thế kỷ mười bốn, giết tới một phần ba dân số. Có loại bệnh thì lây truyền qua chuột nhiễm bệnh, có loại khác thì lại lây lan qua đường không khí, khi hắt hơi và sổ mũi, và do đó bất cứ ai phải đi vào một nơi cổ xưa, bị niêm kín cũng đều phải phòng ngừa cẩn thận cả…

Cô nghe thấy một tiếng cạch từ phía sau mình. Marek đang tới qua cái lỗ phía trên. Anh ta bắt đầu trượt, rồi nhảy xuống đất. Trong khoảng lặng kéo theo sau đó, họ nghe thấy tiếng sỏi và đất lạo xạo đổ xuống.

“Anh cũng thấy,” cô hỏi, “là chúng ta sẽ có thể bị chôn sống ở đây chứ.”

“Lúc nào cũng phải nhìn mọi thứ một cách lạc quan chứ,” Marek nói. Anh ta tiến về phía trước, giữ chắc ánh đèn huỳnh quang rực rỡ từ chiếc đèn chiếu phát ra. Nó rọi sáng cả gian phòng. Giờ khi họ đã thấy rõ, căn phòng trông trơ trọi đến đáng thất vọng. Bên trái là cỗ quan tài đá của một hiệp sĩ; hình anh ta được tạc trên cái nắp đã bị tháo ra. Khi họ nhìn vào bên trong cỗ quan tài thì thấy nó trống rỗng. Rồi có một cái bàn gỗ sần sùi tựa vào một bức tường. Chẳng có gì trên đó hết. Một hành lang mở chạy dọc xuống bên trái họ, dừng lại ở chân một hàng cầu thang đá, dẫn thẳng lên trên cho tới khi nó bị chặn đứng lại trước một ụ đất. Thêm nhiều ụ đất nữa xuất hiện trong căn hầm này, về phía bên phải, chúng lại chặn trước một lối đi khác, một mái vòm khác.

Marek thở dài, “Phấn khích đến thế mà rồi công cốc.”

Nhưng Kate vẫn đang lo lắng về chuyện đất đá sẽ vỡ vụn ra và đổ sụp xuống đầu họ. Điều đó khiến cô chăm chú nhìn vào ụ đất phía bên phải.

Và đó là lý do tại sao cô lại nhìn thấy thứ đó.

“André,” cô nói. “Lại đây đi.”

*

Đó là một chỗ thò ra màu đất. Màu nâu của nó lẫn với màu ụ đất, nhưng bề mặt lại có ánh lấp lánh mờ mờ. Cô lấy tay phủi phủi. Nó là vải dầu. Cô làm lộ ra một góc nhọn. Vải dầu, bọc một thứ gì đó.

Marek nhìn qua vai cô. “Rất tốt, rất tốt.”

“Hồi ấy họ đã có vải dầu chưa?”

“Ồ rồi chứ. Vải dầu là phát minh của người Viking, có lẽ khoảng thế kỷ thứ chín. Khá phổ biến ở châu Âu trong thời đại chúng ta khảo cứu. Dù tôi không nghĩ chúng ta đã từng tìm được thứ gì trong tu viện mà lại được bọc bằng vải dầu cả.”

Anh ta giúp cô đào nó lên. Họ tiến hành một cách cẩn trọng, không muốn ụ đất đổ xuống người mình, chẳng mấy chốc họ đã lôi được nó ra. Đó là một bọc hình chữ nhật độ gần 0,4 mét vuông, được buộc lại bằng dây tẩm dầu.

“Tôi đoán đó là tài liệu cổ,” Marek nói. Những ngón tay của anh ta cứ giật giật trên chiếc đèn huỳnh quang, anh ta cực kỳ muốn mở nó ra, nhưng đã cố kìm bản thân lại. “Chúng ta sẽ mang nó về.”

Anh ta luồn nó dưới nách rồi đi thẳng về phía cửa ra. Cô nhìn lại lần cuối ụ đất, băn khoăn không biết mình có để sót thứ gì không. Nhưng chẳng thấy gì hết. Cô lia đèn đi và…

Cô dừng lại.

Qua khóe mắt, cô đã liếc thấy thứ gì đó lấp lánh. Cô quay lại, nhìn lại lần nữa. Trong thoáng chốc, cô đã không thể tìm ra nó. Nhưng rồi cuối cùng cô cũng tìm được.

Đó là một mảnh thủy tinh nhỏ, nhô ra từ lòng đất.

“André?” cô nói. “Tôi nghĩ là còn nữa đấy.”

*

Mảnh thủy tinh rất mỏng, và cực kỳ trong. Cạnh được làm cong lại và trơn nhẵn, gần như đạt chất lượng của thủy tinh hiện đại. Cô lấy mấy đầu ngón tay phủi đất đi và nhận ra đó là một bên mắt kính.

Nó là một mảnh kính hai tròng.

“Gì thế?” André vừa nói vừa đi về phía cô.

“Anh nói tôi biết đi.”

Anh ta liếc nhìn nó, chiếu đèn lại gần. Mặt anh ta gần miếng kính đến nỗi gần như chạm mũi vào nó. “Cô tìm thấy cái này ở đâu thế?” Anh ta có vẻ lo lắng.

“Ngay đây này.”

“Nằm lộ ra, y như bây giờ á?” Giọng anh ta rất nghiêm trọng, gần như có ý kết tội.

“Không, chỉ có một góc lộ ra thôi. Tôi mới lau nó đi đấy.”

“Lau thế nào?”

“Bằng ngón tay.”

“Thế cô định nói với tôi là cái này đã bị vùi một phần à?” Anh ta nói cứ như không hề tin cô vậy.

“Này, kiểu gì đấy?”:

“Chỉ cần trả lời thôi, có được không?”

“Không, André. Nó gần như là bị vùi hẳn đi. Tất cả trừ cái cạnh ấy thôi.”

“Giá mà cô không động vào nó.”

“Tôi cũng ước vậy lắm, nếu tôi biết anh sẽ xử sự như là…”

“Cái này phải có cách giải thích,” Marek nói. “Quay người lại xem nào.”

“Gì cơ?”

“Quay người lại.” Anh ta bấu lấy vai cô, xoay thật mạnh để cô phải quay ra đối mặt với mình.

“Chúa ơi,” Cô hơi ngoái đầu lại để nhìn xem anh ta đang làm gì. Anh ta gí chiếc đèn pin sát vào ba lô của cô, chậm rãi di chuyển chiếc đèn pin và kiểm tra bề mặt ba lô kỹ lưỡng, rồi xuống đến chiếc quần soóc của cô. “Ừm, anh có định nói với tôi…”

“Yên lặng chút đi.”

Mất cả phút thì anh ta mới xong. “Cái khóa trái ở túi dưới của cô mở đấy. Cô mở nó ra à?”

“Không.”

“Thế chắc nó đã bị hở suốt? Từ lúc cô đeo cái túi lên?”

“Chắc thế…”

“Cô có quệt vào tường lúc nào không?”

“Không có đâu.” Cô đã rất cẩn thận với mấy bức tường vì luôn sợ chúng sẽ nứt ra bất cứ lúc nào.

“Cô chắc chứ?” anh ta hỏi.

“Vì Chúa. Không, André. Sao tôi chắc được.”

“Được rồi. Giờ cô kiểm tra tôi nhé.” Anh ta đưa cây đèn cho cô, và quay lưng lại.

“Kiểm tra anh thế nào?” cô nói.

“Mảnh thủy tinh ấy là dị vật đấy,” anh ta nói. “Chúng ta phải xem xem nó vào đây bằng cách nào. Xem xem có phần nào trên ba lô của tôi bị hở không?”

Cô nhìn. Chẳng có chỗ nào như thế hết.

“Cô có xem cẩn thận không đấy?”

“Có, cẩn thận lắm rồi đấy,” cô nói, đầy vẻ bực dọc.

“Tôi nghĩ là cô chưa dành đủ thời gian đâu.”

“André. Tôi có dành đủ đấy.”

Marek nhìn chằm chằm vào đống đất trước mặt họ. Những viên sỏi nhỏ cứ vãi xuống khi anh ta đứng nhìn. “Nó chắc là đã rơi từ một trong những cái túi của chúng ta rồi bị vùi đi…”

“Chắc thế, tôi đoán vậy.”

“Nếu cô có thể dùng đầu ngón tay lau sạch nó thì nó cũng không được chôn chặt lắm đâu…”

“Ừ ừ, nông choèn ấy.”

“Được rồi. Vậy thì, có lẽ đây sẽ là cách giải thích.”

“Là gì?”

“Thế nào đó, chúng ta đã mang cái mắt kính này theo cùng, và trong khi chúng ta đang xem xét chỗ vải dầu kia, nó rơi ra khỏi túi, và bị đất phủ lên. Rồi cô nhìn thấy nó, phủi sạch nó. Đó là cách giải thích duy nhất.”

“Ừm…”

Anh ta lấy một chiếc máy quay ra, chụp mảnh thủy tinh từ các khoảng cách khác nhau – rất gần, rồi từ từ ra xa dần. Chỉ khi đó anh ta mới lấy một cái túi nhựa ra, dùng kẹp cẩn thận gắp mảnh thủy tinh lên, thả nó vào trong túi. Anh ta lấy ra một cuộn băng dính trong loại nhỏ, kẹp cái túi lại, dính chặt miệng, và đưa nó cho cô. “Cô mang cái này ra. cẩn thận đấy!” Anh ta có vẻ đã dịu đi và đang tỏ ra tử tế hơn với cô.

“Được,” cô nói. Họ lại trèo lên gò đất lần nữa, quay ra ngoài.

*

Họ được các sinh viên đại học đón chào nồng nhiệt, và cái gói vải dầu được trao cho Elsie, cô nhanh chóng mang nó về ngôi nhà chính của nông trại. Tất cả mọi người đều cười nói ồn ào, trừ Chang và Chris Hughes. Họ đeo tai nghe, và đã nghe thấy tất cả mọi chuyện xảy ra trong cái hang ấy. Họ trông có vẻ ủ dột và buồn bã.

Có dị vật ở khu khai quật là một việc cực kỳ nghiêm trọng, và tất cả họ đều biết điều đó. Vì nó có nghĩa là kỹ thuật khai quật không đảm bảo và sẽ có những câu hỏi được đặt ra cho những khám phá chính thức khác của đoàn. Ví dụ điển hình là một vụ bê bối nho nhỏ ở Les Eyzies năm ngoái.

Les Eyzies là một khu khai quật di tích thời kỳ Đồ đá cũ, một nơi cư ngụ của người thượng cổ ở dưới vách núi. Những nhà khảo cổ học đang đào ở địa tầng hóa thạch cách đây 320.000 năm thì một trong số họ tìm thấy một cái bao cao su được chôn một nửa. Nó vẫn còn đang ở trong gói bọc kim loại, và chẳng ai nghĩ dù chỉ một giây là nó thuộc cái tầng ấy hết. Nhưng cái việc là nó đã bị chôn ở đó – chôn một nửa – đã cho thấy rằng họ đã không hề cẩn thận chút nào. Nó gần như đã tạo ra trong nhóm nghiên cứu một cuộc khủng hoảng, một cuộc khủng hoảng kéo dài cho đến sau khi một nghiên cứu sinh bị gửi trả về Paris trong nhục nhã.

“Miếng thấu kính thủy tinh ấy đâu?” Chris nói với Marek.

“Kate cầm.”

Cô đưa nó cho Chris. Trong khi tất cả những người khác đang hò reo, anh chỉ quay người đi, mở cái bọc ra, và giơ cái gói lên trước ánh sáng.

“Rõ ràng là đồ hiện đại.” anh nói. Anh lắc đầu, không lấy gì làm vui vẻ cho lắm. “Tôi sẽ kiểm tra lại. Nhớ ghi lại nó trong báo cáo nhé.”

Marek nói anh ta sẽ làm.

Rồi Rick Chang quay ra và vỗ tay. “Được rồi, tất cả mọi người. Phấn khích thế đủ rồi. Giờ quay lại làm việc đi!”

*

Buổi chiều, Marek lên kế hoạch luyện bắn cung. Những sinh viên đại học rất thích thú với việc đó, và họ chưa bao giờ bỏ lỡ buổi tập nào, gần đây Kate cũng tham gia. Mục tiêu hôm nay là một con bù nhìn nhồi đầy rơm, được đặt cách chỗ họ gần năm mươi mét. Tất cả đều đứng xếp hàng, giương cung lên, và Marek tiến tới phía sau họ.

“Khi muốn giết một ai đó,” anh ta nói, “mọi người phải nhớ: anh ta gần như chắc chắn sẽ đeo giáp trụ che ngực. Khả năng che chắn phần đầu và cổ của anh ta là rất thấp, hay chân cũng thế. Thế nên để chắc chắn giết được, phải bắn vào đầu, hoặc vào hai bên mạng sườn, nơi tấm giáp không che chắn được.”

Kate lắng nghe Marek, mỉm cười thích thú. André nói tất cả những câu đó một cách khá nghiêm túc. Khi muốn giết một ai đó. Cứ như là anh ta thực sự có ý như thế vậy. Đứng giữa ánh trời chiều vàng rực của miền Nam nước Pháp, nghe tiếng còi ô tô từ xa vọng lại, cái nghĩ đó có vẻ gì khá kỳ cục.

“Nhưng nếu mọi người muốn ngăn ai đó lại,” Marek tiếp tục, “thì chỉ cần bắn vào chân anh ta. Anh ta sẽ khuỵu xuống ngay. Hôm nay chúng ta sẽ dùng bộ cung hai mươi hai cân.”

Hai mươi hai cân là muốn nói tới lực kéo cần để giương cung. Những cây cung này rõ ràng là rất nặng và khó giương. Những mũi tên dài gần một mét. Hầu hết các học viên đều gặp khó khăn với chúng, đặc biệt là lúc đầu. Marek thường kết thúc mỗi buổi tập với vài bài tập tạ, để tăng sức chịu đựng cho các bắp cơ của họ.

Bản thân Marek có thể giương được một cây cung nặng tới gần bốn mươi lăm cân. Dù rất khó tin, nhưng anh ta cứ khẳng định rằng đó là kích thước chuẩn của những vũ khí thế kỷ mười bốn – chúng vượt xa khả năng sử dụng của tất cả thành viên trong nhóm.

“Được rồi,” Marek nói, “đặt tên vào dây cung, ngắm, và thả nào.” Những mũi tên bay vút đi trong không trung. “Không, không, không, David, đừng có kéo đến lúc run lên như thế. Duy trì kiểm soát nào. Carl, chú ý thế đứng. Bob, cao quá. Deanna, nhớ cẩn thận mấy ngón tay. Rick, tốt hơn nhiều rồi đấy. Được rồi, làm lại nào, đặt tên vào dây cung, ngắm, và thả nào…”

*

Chiều muộn, Stern gọi vào điện đàm của Marek, và nhắn anh tới nhà chính. Anh ta nói mình có tin tốt. Marek thấy anh ta ở bên chiếc kính hiển vi, đang kiểm tra miếng mắt kính.

“Gì đấy?”

“Đây. Tự nhìn đi này.” Anh ta bước qua một bên và Marek nhìn vào. Anh thấy miếng mắt kính, và đường cắt bén ngọt của cái tròng đôi. Ở vài chỗ, miếng kính có những vòng trắng mờ, có vẻ là dấu vết của vi khuẩn.

“Tôi phải nhìn ra cái gì nhỉ?” Marek nói.

“Cạnh trái.”

Anh ta di chuyển ống kính, đưa góc trái vào tầm nhìn. Bị khúc xạ trong ánh sáng, cạnh trái sáng trắng lên. Rồi anh nhận thấy màu trắng tràn lên khắp cạnh, lên cả bề mặt của bản thân cái thấu kính ấy.

“Đấy là vi khuẩn mọc trên thấu kính,” Stern nói. “Nó giống như là men đá ấy.”

Men đá là thuật ngữ chỉ các loại vi trùng và nấm mốc mọc ở mặt dưới của tảng đá. Vì tính chất hữu cơ của mình nên men đá có thể xác định được niên đại.

“Cái này xác định được niên đại chứ?” Marek hỏi.

“Được,” Stern nói “nếu có đủ mẫu để sử dụng C-14. Nhưng giờ tôi có thể nói cho anh biết, chẳng có đủ đâu. Anh không thể có được niên đại đúng với chỉ một nhúm đó. Chẳng nên cố thử làm gì.”

“Thế thì?”

“Vấn đề là, đó là phần lộ ra của miếng kính, có phải không? Cái phần Kate nói là trồi lên khỏi mặt đất ấy?”

“Đúng rồi…”

“Thế nên nó cũng cổ lắm đấy, André. Tôi không biết nó cổ đến đâu, nhưng nó không phải là dị vật ở khu khảo cổ đâu. Rick đang xem xét tất cả chỗ xương được khai quật vào hôm nay, và anh ta nghĩ là một số trong chỗ ấy có vẻ có niên đại hiện đại hơn thời kỳ chúng ta đang nghiên cứu, có thể là thế kỷ mười tám, hoặc thậm chí là thế kỷ mười chín. Có nghĩa là một trong số họ có thể đeo kính hai tròng.”

“Tôi không biết. Miếng kính này trông có vẻ rất tinh xảo…”

“Không có nghĩa là nó mới,” Stern nói. “Kỹ thuật cắt gọt đã phát triển từ suốt hai trăm năm qua rồi. Tôi đang sắp xếp để đem mảnh kính này cho một người chuyên về kính ở New Haven kiểm tra. Tôi đã nhờ Elsie ngó trước chỗ đống tài liệu bằng vải dầu kia rồi, chỉ để xem xem có gì bất thường trong đống đó không. Hiện tại thì, tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có thể thư giãn được rồi.”

“Tin tốt đấy nhỉ,” Marek nói, cười toe toét.

“Tôi nghĩ là anh muốn biết mà. Chút nữa ăn tối gặp lại nhé.”