← Quay lại trang sách

DORDOGNE (3)

Họ đã sắp xếp dùng bữa tối ở khu nhà cổ Domme, ngôi làng trên đỉnh một vách đá cách chỗ khai quật của họ chừng vài dặm. Tối đến, Chris, dù đã cau có suốt cả ngày, thì giờ cũng đã hết ức chế và đang rất háo hức chờ tới bữa tối. Anh băn khoăn không biết Marek đã nghe được tin gì từ Giáo sư chưa, và nếu không thì họ sẽ phải làm gì trước tình huống đó. Trong anh có một chút gì đó chờ mong.

Tâm trạng hưng phấn của anh tan biến khi tới nơi và rồi lại nhìn thấy hai cái đôi cổ phần cổ phiếu đó đang ngồi sẵn bên bàn ăn. Rõ ràng là họ đã được mời thêm một đêm nữa. Chris đang chuẩn bị quay người lại và bỏ đi thì Kate đã đứng lên và nhanh chóng quàng tay quanh thắt lưng anh, dẫn anh tới chỗ cái bàn.

“Tôi không có hứng đâu,” anh nói thầm. “Tôi không chịu nổi mấy người này.” Nhưng rồi cô ôm nhẹ lấy anh, rồi chỉ chỗ cho anh ngồi. Anh thấy rằng mấy tay kinh doanh cổ phiếu đã bao rượu cho bữa tối nay – Château Lafite-Rothschild ‘95, dễ đến hai nghìn franc một chai ấy chứ.

Và anh nghĩ, Chơi thì chơi.

“Ồ, đây quả là một thị trấn thơ mộng,” một trong hai người phụ nữ đó nói. “Chúng tôi đã đi xem những bức tường thành ngoài kia. Chúng cũng khá là dài đấy. Cao nữa. Và cái cổng cực kỳ xinh xắn dẫn vào trong thị trấn ấy, mọi người biết đấy, với hai cái tháp tròn hai bên.”

Kate gật đầu. “Khá là mỉa mai,” cô nói, “khi rất nhiều trong số những ngôi làng mà giờ chúng ta thấy thật là thơ mộng đây thực ra là trung tâm mua sắm ở thế kỷ mười bốn.”

“Trung tâm mua sắm? Nói thế là có ý gì?” người phụ nữ hỏi.

Lúc đó, cái điện đàm của Marek, đang được giắt vào thắt lưng, chợt kêu lên.

“André? Anh có ở đó không?”

Là Elsie. Cô chẳng bao giờ đi ăn với mọi người, mà chỉ tập trung vào công việc sắp xếp tài liệu của mình cho tới tận khuya. Marek trả lời điện đàm. “Ừ, gì đấy Elsie?”

“Tôi mới phát hiện một điều rất kỳ cục, ở đây này.”

“Ừm…”

“Anh bảo David qua đây được không? Tôi cần anh ấy giúp kiểm tra lại. Nhưng tôi muốn nói với các anh – nếu đây chỉ là một trò đùa thì tôi không thích đâu đấy.”

Với một tiếng cạch, chiếc điện đàm tắt ngúm.

“Elsie?”

Không có tiếng trả lời nào nữa.

Marek nhìn quanh bàn. “Có ai ở đây trêu cô ấy không?”

Tất cả đều lắc đầu.

Chris Hughes nói, “Có lẽ cô ấy đang hơi hâm. Chẳng lạ gì đâu, hàng tiếng ngồi chằm chằm vào đống giấy da ấy.”

“Tôi sẽ đi xem cô ấy cần gì,” David Stern nói rồi đứng dậy. Anh ta đi thẳng vào màn đêm tối.

Chris nghĩ đến việc đi cùng, nhưng Kate lại nhìn anh một cái và mỉm cười. Thế là anh ngồi lại vào ghế và với tay ra lấy ly rượu của mình.

*

“Cô đang nói là – những thị trấn này từng giống như những trung tâm mua sắm?”

“Rất nhiều trong số chúng là thế,” Kate Erickson nói. “Những thị trấn này là nơi đầu cơ tích trữ để kiếm tiền cho những nhà đầu tư đất. Cũng giống như những trung tâm mua sắm ngày nay thôi. Và giống như những trung tâm mua sắm, chúng cũng đều được xây dựng dựa trên một kiểu mẫu chung.”

Cô xoay ghế và chỉ tay vào quảng trường của thị trấn Domme ở phía sau lưng họ. “Nhìn thấy khu chợ rào gỗ ở trung tâm của quảng trường thị trấn chứ? Mọi người sẽ thấy rất nhiều khu chợ rào gỗ tương tự ở trong rất nhiều thị trấn quanh đây. Điều đó cho thấy thị trấn này là một ngôi làng mới đã được gia cố. Gần một nghìn thị trấn đã qua gia cố được lập ra ở Pháp trong suốt thế kỷ mười bốn. Một số trong đó được xây để củng cố lãnh địa. Nhưng rất nhiều trong đó chỉ đơn giản là để kiếm tiền.”

Điều đó đụng trúng mối quan tâm của các nhà kinh doanh chứng khoán.

Một trong hai ngườỉ đàn ông ngước nhìn lên đột ngột và nói, “Đợi chút nào. Làm sao xây dựng một ngôi làng lại kiếm ra tiền được chứ?”

Kate mỉm cười. “Nền kinh tế của thế kỷ mười bốn,” cô nói.

“Nó có cơ chế như thế này này. Cứ cho anh là một nhà quý tộc sở hữu rất nhiều đất đai nhé. Nước Pháp vào thế kỷ mười bốn hầu hết được bao phủ trong rừng rậm, có nghĩa là đất đai của anh hầu hết đều là rừng, là nơi chó sói trú ngụ. Có thể sẽ có vài người nông dân sống rải rác trong vùng của anh chịu trả một chút tiền thuê đất rẻ mạt. Nhưng đó không phải cách làm giàu. Và vì anh là một nhà quý tộc, anh luôn luôn cần tiền, để chinh chiến và để thưởng thức những xa hoa mà người ở giai cấp như anh phải có.

Thế nên anh sẽ phải làm gì để tăng thu nhập từ đất của mình? Anh sẽ dựng một thị trấn mới. Anh thu hút người dân đến sống ở thị trấn mới của mình bằng cách mời chào họ những gói giảm thuế hấp dẫn, quyền tự do buôn bán ở khu đặc quyền của thị trấn, về cơ bản, giải phóng người dân khỏi những áp đặt của thể chế phong kiến.”

“Tại sao lại phải cho bọn người đó các gói giảm thuế?” Một người đàn ông nói.

“Vì chẳng mấy chốc anh sẽ có các thương nhân và chợ trong thị trấn, và thuế cùng các chi phí khác sẽ sản sinh cho anh nhiều tiền hơn. Anh thu phí mọi thứ. Từ quyền sử dụng con đường dẫn tới thị trấn của mình. Quyền được đi qua những bức tường bao quanh thị trấn của mình. Cho đến quyền được dựng một gian hàng trong chợ. Rồi thì chi phí để binh lính giữ trật tự. Chi phí cho dịch vụ cho vay tiền ở chợ.”

“Không tệ lắm nhỉ?” một người đàn ông nói.

“Không tệ chút nào luôn. Và thêm vào đó, anh cũng có một phần trong số tiền lãi mà các khu chợ thu được.”

“Thật à? Tỷ lệ thế nào?”

“Tùy từng chỗ, và những hình thức kinh doanh riêng biệt. Nói chung là một tới năm phần trăm. Thế nên khu chợ thực sự là lý do sống còn của thành phố. Mọi người có thể thấy rõ điều đó, trong cách bố trí mọi thứ trong thị trấn. Nhìn ra phía nhà thờ đằng kia kia,” cô nói và chỉ tay về phía bên cạnh. “Vào những thế kỷ đầu, nhà thờ là trung tâm của thị trấn. Hầu như ngày nào người ta cũng đi lễ. Cuộc sống dưới mọi hình thức đều xoay quanh nhà thờ. Nhưng ở Domme này, nhà thờ bị đẩy sang một bên. Khu chợ giờ là trung tâm của cả thị trấn.”

“Thế là tất cả các nguồn tiền đều đến từ khu chợ à?”

“Không hoàn toàn là thế, vì thị trấn được gia cố đã giúp bảo vệ cả vùng, có nghĩa là nông dân có thể phát quang vùng đất quanh đó và lập những trang trại mới. Thế là anh cũng có thể tăng giá thuê đất lập trang trại nữa. Gì thì gì, một thị trấn mới là cả một sự đầu tư đáng tin cậy. Đó chính là lý do tại sao lại có nhiều thị trấn kiểu này được xây dựng đến thế.”

“Đó có phải là lý do duy nhất để những thị trấn này được dựng lên hay không?”

“Không, rất nhiều thị trấn được dựng lên vì lý do quân sự như là…”

Điện đàm của Marek bỗng kêu lên. Lại là Elsie. “André?”

“Ừ,” Marek nói.

“Anh nên lại đây ngay đi. Vì tôi không biết phải xử lý vụ này thế nào.”

“Tại sao? Chuyện gì thế?”

“Cứ về đây đi. Ngay bây giờ.”

*

Cái máy phát điện phát ra những tiếng bình bịch ầm ĩ, và ngôi nhà trong trang trại dường như được thắp sáng rực rỡ giữa cánh đồng tối mịt, dưới một bầu trời đầy sao.

Tất cả bọn họ đều chen chúc trong ngôi nhà đó. Elsie đang ngồi bên chiếc bàn của mình đặt ngay giữa nhà, nhìn chằm chằm về phía mọi người nhưng ánh mắt thì lại xa xăm.

“Elsie?”

“Chuyện đó không thể xảy ra,” cô nói.

“Chuyện gì mà không thể? Ở đây đã xảy ra chuyện gì?”

Marek nhìn qua chỗ David Stern, nhưng anh ta vẫn đang cặm cụi phân tích gì đó ở trong góc phòng.

Elsie thở dài. “Tôi không biết, tôi không biết…”

“Nào,” Marek nói, “nói từ đầu đi nào.”

“Được rồi,” cô nói. “Từ đầu.” Cô đứng dậy và đi sang đầu kia phòng, chỉ vào một chồng giấy da đang được đặt trên một tấm bạt nhựa trên nền nhà. “Đây là điểm bắt đầu. Chỗ tài liệu tôi ký hiệu là M-031, được đào lên từ dưới tu viện lúc nãy. David đã nhờ tôi kiểm tra nó càng sớm càng tốt.”

Không ai nói gì hết. Họ chỉ nhìn cô.

“Được rồi,” cô nói. “Tôi đã xem xét cái đống này. Đây là cách tôi vẫn làm. Tôi lấy khoảng mười tờ giấy da một lúc và mang chúng lại chỗ bàn của tôi.” Cô mang mười tờ ra. “Giờ, tôi ngồi xuống cái bàn này, tôi xem xét đống tài liệu, từng tờ một. Rồi, sau khi tóm tắt nội dung của một tờ giấy, và đã nhập bản tóm tắt đó vào máy tính, tôi mang tờ giấy đi chụp, ở đằng kia kìa.” Cô đi về phía cái bàn tiếp theo, luồn một tờ giấy da xuống dưới cái camera.

Marek nói, “Chúng tôi đã quá quen với…”

“Không, mọi người không quen đâu,” cô gắt gỏng. “Mọi người chẳng quen một chút nào hết.” Elsie quay lại chỗ bàn làm việc của mình, lấy tờ giấy da tiếp theo khỏi chồng. “Được rồi. Thế là tôi cứ lần lượt kiểm tra từng tờ một. Chồng giấy cụ thể này gồm có đủ loại giấy tờ: đơn từ, các bản chép thư, trả lời những yêu cầu của giáo chủ, bản ghi chép mùa vụ, danh sách tài sản của tu viện. Tất cả đều được định niên đại là từ khoảng năm 1357.”

Cô lấy từng tờ trên chồng giấy đó, lần lượt từng tờ một. “Và rồi” – cô lấy tờ cuối cùng ra – “tôi thấy cái này.”

Tất cả đều chăm chú nhìn.

Chẳng ai nói gì hết.

Tờ giấy da cùng cỡ y hệt với những tờ khác trong chồng giấy đó, nhưng thay vì được viết chi chít tiếng Latin hay tiếng Pháp cổ, nó chỉ có đúng hai từ, nguệch ngoạc bằng tiếng Anh phổ thông:

CỨU TÔI20

7/4/1357

“Trong trường hợp mọi người còn băn khoăn” cô ấy nói, “đây là nét chữ của giáo sư.”

*

Cả căn phòng lặng đi. Chẳng ai nhúc nhích gì hết. Họ cứ chết lặng mà nhìn.

Marek đang điên đảo nghĩ ngợi, gợi ra tất cả những khả năng có thể. Nhờ vào kiến thức chi tiết như một cuốn bách khoa toàn thư về thời Trung cổ, trong nhiều năm anh ta đã làm cố vấn về cổ vật thời Trung cổ cho Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm ở New York. Kết quả là Marek đã nắm được kha khá kinh nghiệm trong việc phân định đồ giả các loại. Đúng là anh ta hiếm khi được cho xem những tài liệu giả thời Trung cổ – những thứ đồ giả thường là mặt đá của một chiếc vòng tay có niên đại mười năm tuổi, hay một bộ giáp cổ hóa ra lại được làm ở Brooklyn – nhưng kinh nghiệm dày dạn luôn giúp anh ta tỉnh táo để suy nghĩ một cách kỹ lưỡng.

Marek nói, “Được rồi. Bắt đầu từ đầu nào. Cô có chắc đó là chữ viết của thầy không?”

“Có,” Elsie nói. “Không phải hỏi.”

“Sao cô biết chắc thế?”

Cô khịt mũi. “Tôi là một nhà nghiên cứu văn tự mà, André. Nhưng này. Tự nhìn mà xem.”

Cô mang ra một mảnh giấy mà Johnston đã viết vội mấy ngày trước, một mảnh giấy viết những chữ hoa, được đính vào một tờ hóa đơn: “KIỂM TRA KHOẢN TIỀN NÀY GIÙM.”21 Cô đặt tờ giấy bên cạnh tấm giấy da. “Chữ in hoa dễ phân tích hơn rất nhiều. Chữ H của thầy, ví dụ nhé, có nét hơi chéo ở bên dưới. Thầy vạch một đường thẳng, nhấc bút lên, viết đường thẳng thứ hai, rồi kéo bút lại để kẻ đường ngang, làm nên nét chéo ở dưới. Hay nhìn vào chữ P. Thầy đã làm một đường kẻ dọc xuống dưới, rồi vút lên và quay lại để tạo thành đường bán nguyệt. Hay chữ E, thầy đã viết như chữ L rồi viết nốt hai nét cuối bằng một đường dích dắc. Chẳng có gì phải bàn cãi. Đây là nét chữ của thầy.”

“Nhỡ ai đó giả mạo thì sao?”

“Không. Giả mạo thì sẽ có nét nhấc bút và các dấu hiệu khác. Đây là nét chữ của thầy.”

Kate nói, “Liệu thầy có đùa chúng ta không?”

“Nếu thầy làm thế thật thì chẳng hay ho gì đâu.”

“Thế còn tờ giấy da có dòng chữ đó thì sao?” Marek nói. “Nó có cổ như những tờ giấy khác trong chồng kia không?”

“Có,” David Stern nói, tiến lại gần. “Không cần giám định niên đại bằng các bon tôi cũng nói được là có – nó cùng tuổi với những tờ giấy kia.”

Marek nghĩ: Sao có thể thế được chứ? Anh ta nói, “Anh có chắc không? Mảnh giấy này trông khác lắm. Bề mặt có vẻ ráp hơn đấy.”

“Nó ráp hơn,” Stern nói. “Vì nó được cạo không kỹ. Giấy da là vật phẩm rất có giá trị trong thời Trung cổ. Thường thì nó sẽ được đem ra dùng, cạo đi, rồi lại dùng tiếp. Nhưng nếu chúng ta soi tấm giấy này dưới tia tử ngoại… Ai đó tắt đèn hộ với nhỉ?” Kate tắt chúng đi, và trong bóng tối Stern quét một chiếc đèn phát ánh sáng tím lên mặt bàn.

Marek ngay lập tức thấy nhiều dòng chữ hơn hiện lên, mờ nhạt nhưng rõ ràng vẫn có tồn tại trên miếng giấy.

“Cái này lúc đầu là một mảnh giấy tính tiền trọ,” Elsie nói. “Nó đã được cạo sạch, nhanh và rất mạnh tay, như thể bởi ai đó đang rất vội vậy.”

Chris nói, “Cô định nói là Giáo sư đã cạo nó à?”

“Tôi chẳng biết ai cạo nó hết. Nhưng nó không hề được làm một cách bài bản và chuyên nghiệp.”

“Được rồi,” Marek nói. “Có một cách chuẩn xác để xác định chuyện này, một lần là xong.” Anh ta quay về chỗ Stern. “Mực thì sao, David? Nó có phải đồ thật không?”

Stern lưỡng lự. “Tôi không chắc lắm.”

“Không chắc? Sao lại không chắc?”

*

“Về mặt hóa học thì,” Stern nói, “nó chính xác là những gì mọi người đã nghĩ: sắt ở dạng ô xít sắt, trộn với mật đắng làm chất kết dính hữu cơ. Vài người còn thêm các bon để tạo độ đen, cùng với năm phần trăm đường mía saccarôzơ. Hồi ấy họ dùng đường để làm mực có thêm độ bóng sáng. Nên nó là loại mực sắt-mật thông thường, hay gặp trong thời đó. Nhưng bản thân cái việc đó thì cũng không có ý nghĩa gì nhiều lắm trong chuyện này.”

“Phải,” ý Stern là nó có thể là đồ giả.

“Thế là tôi trộn mật với thuốc thử độ sắt,” Stern nói, “cách tôi thường làm trong những trường hợp có vấn đề. Chúng cho ta biết lượng chất chính xác tồn tại trong mực. Chất chuẩn độ cho thấy là loại mực cụ thể này tương tự nhưng lại không đồng nhất với loại mực được dùng cho các tài liệu kia.”

“Tương tự nhưng không đồng nhất,” Marek nói. “Tương tự đến đâu?”

“Như mọi người đều biết, mực thời Trung cổ thường được trộn bằng tay trước khi đem ra sử dụng, vì chúng không có khả năng bảo quản lâu. Mật đắng là chất hữu cơ – nó là hạt sồi được tán nhuyễn – có nghĩa là mực ấy kiểu gì thì cũng sẽ hỏng. Thỉnh thoảng họ thêm rượu vào mực để làm chất bảo quản. Gì thì gì, thường luôn có chênh lệch khá lớn trong lượng mật và sắt ở tài liệu này khác với tài liệu khác. Mọi người sẽ thấy là giữa các tài liệu khác nhau thì lượng chất này sẽ chênh tới hai mươi đến ba mươi phần trăm đấy. Dùng tỷ lệ này để đoán định xem hai tài liệu có được viết vào cùng một ngày, cùng một nguồn mực hay không, thì khá chính xác. Loại mực này khác loại mực trên những tài liệu khác khoảng hai mươi chín phần trăm.”

“Chẳng có nghĩa gì hết,” Marek nói. “Những con số đó chẳng chứng minh được thật giả gì. Anh có phân tích bằng máy chụp quang phổ không?”

“Có, vừa xong rồi đấy. Đây là quang phổ của ba tài liệu, tài liệu của Giáo sư ở giữa.” Ba đường với một dãy các đường gai lên xuống liên tục và đường biến thiên mạnh. “Lại nữa, tương tự nhưng không đồng nhất.”

“Không tương tự đến thế,” Marek nói, nhìn vào dãy những đường lên xuống. “Vì cùng với tỷ lệ phần trăm khác nhau về lượng sắt, anh còn có rất nhiều nhân tố giúp xác định dấu tích mực của Giáo sư, bao gồm – mà ví dụ nhé, cái đường gai này là gì vậy?”

“Crôm.”

Marek thở dài. “Có nghĩa là hiện đại rồi.”

“Không nhất thiết là thế đâu.”

“Những tài liệu trước và sau đều chẳng có chút crôm nào trong mực hết.”

“Đúng là thế. Nhưng crôm vẫn được tìm thấy ở trong mực để viết bản thảo. Khá là phổ biến đấy.”

“Có crôm trong thung lũng này không?”

“Không.” Stern nói “nhưng crôm được nhập trên khắp châu Âu, vì nó được dùng để nhuộm vải cũng như làm mực nữa.”

“Nhưng còn những thứ tạp chất khác này thì sao?” Marek nói, chỉ vào những đường gai lên xuống khác. Anh ta lắc đầu, “Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi không bị mấy thứ này thuyết phục thôi.”

Stern nói: “Tôi đồng ý. Đây chắc chắn chỉ là một trò đùa thôi.”

“Nhưng chúng ta sẽ không thể biết chắc nếu không giám định các bon.” Marek nói. Các bon-14 có thể giúp họ xác định tuổi của cả mực lẫn giấy da trong vòng năm mươi năm. Thế là đủ để giải quyết vấn đề có giả mạo hay không.

“Tôi cũng muốn giám định nhiệt quang, và có lẽ nên kích hoạt cả laser khi chúng ta làm nữa,” Stern nói.

“Anh không làm thế ở đây được đâu.”

“Không, tôi sẽ mang nó lại chỗ Les Eyzies.” Les Eyzies, thị trấn ở thung lũng kế bên là trung tâm nghiên cứu thời tiền sử ở miền Nam nước Pháp, có một phòng thí nghiệm đầy đủ trang thiết bị để thực hiện các giám định các bon-14 và phóng xạ ka li-ác gông, cũng như kích hoạt phản ứng nơ trơn và các kiểm tra phức tạp khác. Kết quả thực tế không chính xác được như ở các phòng thí nghiệm tại Paris hay Toulouse, nhưng các nhà khoa học có thể có câu trả lời trong vài giờ.

“Có khả năng xong được trong tối nay không?” Marek nói.

“Tôi sẽ cố.”

Chris quay lại nhập hội với cả nhóm; anh đã gọi di động cho Giáo sư. “Chẳng có gì hết,” anh nói. “vẫn chỉ là hộp thoại trả lời tự động của thầy thôi.”

“Được rồi,” Marek nói. “Ngay lúc này thì chúng ta chẳng thể làm gì hơn được đâu. Tôi nghĩ tin nhắn chỉ là một trò đùa vớ vẩn nào đó thôi. Tôi không thể hình dung ra được ai đã chơi trò này với chúng ta – nhưng rõ ràng là có ai đó đã làm. Ngày mai chúng ta sẽ giám định các bon và xác định tuổi của thông điệp đó. Tôi không nghi ngờ gì là nó chỉ mới gần đây thôi. Và với tất cả sự tôn trọng chân thành nhất có thể dành cho Elsie, nó có lẽ chỉ là đồ giả mạo thôi.”

Elsie bắt đầu húng hắng.

“Nhưng nói gì thì nói,” Marek tiếp tục, “theo đúng lịch thì ngày mai Giáo sư sẽ gọi điện; và chúng ta sẽ hỏi thầy. Còn bây giờ, tôi nghĩ chúng ta nên đi về phòng mình và ngủ một giấc thật thoải mái đi.”

*

Ở căn nhà chính của nông trại, Marek nhẹ nhàng đóng cánh cửa ra vào lại trước khi bật đèn lên. Rồi anh ta nhìn quanh.

Căn phòng cực kỳ ngăn nắp, như anh ta đã nghĩ. Nó có cái nét gọn gàng đơn sơ của phòng một thầy tu. Cạnh chiếc giường là một chồng khoảng năm hay sáu tập tài liệu nghiên cứu, được xếp gọn gàng. Trên cái bàn ở bên phải, thêm nhiều chồng tài liệu nghiên cứu nữa được đặt cạnh chiếc máy tính xách tay đã gập gọn ghẽ. Chiếc bàn có một cái ngăn kéo, anh ta mở ra và lục qua.

Nhưng anh ta không tìm thấy thứ mình muốn.

Anh ta đi tới bên chiếc tủ tiếp theo. Quần áo của Giáo sư được xếp gọn bên trong, giữa các bộ được treo lại có một khoảng trống nho nhỏ. Marek đi hết cái này đến cái kia, kiểm tra túi, nhưng anh ta vẫn không thấy nó. Có lẽ nó không có ở đây, anh ta nghĩ thế. Có lẽ thầy đã mang nó tới New Mexico.

Có một chiếc bàn làm việc nằm đối diện cửa ra vào. Anh ta mở ngăn kéo trên cùng ra: những đồng xu đặt trong những chiếc đĩa nhỏ, những tập đô la Mỹ buộc bằng dây thun, và vài thứ đồ cá nhân khác, gồm một con dao, một chiếc bút và một chiếc đồng hồ dự trữ – chẳng có gì bất thường cả.

Rồi anh ta nhìn thấy một cái hộp nhựa, được đút vào một góc. Anh ta lấy cái hộp và mở nó ra. Trong đó đựng kính. Anh ta đặt cặp kính lên mặt tủ.

Mắt kính là loại hai tròng, hình ô van.

Anh ta thọc tay vào túi áo và lấy một cái túi nhựa ra. Nghe thấy một tiếng cạch phía sau lưng, anh quay đầu lại và thấy Kate Erickson đang vào.

“Xem đồ lót của thầy à?” cô nói, nhướng mày. “Tôi thấy đèn hắt lên từ dưới khe cửa. Thế là tôi qua ngó thử.”

“Mà không hề gõ cửa?” Marek nói.

“Còn anh thì đang làm gì ở đây thế?” cô nói. Rồi cô nhìn thấy chiếc túi nhựa. “Đây có phải là thứ ấy không?”

“Đúng rồi đấy.”

Marek lấy miếng kính hai tròng duy nhất ra khỏi chiếc túi nhựa, dùng nhíp kẹp lấy nó, và đặt lên mặt bàn, bên cạnh cặp kính của Giáo sư.

“Không giống hệt,” cô nói. “Nhưng tôi có thể nói chắc rằng mắt kính ấy là của thầy.”

“Tôi cũng vậy.”

“Nhưng đấy không phải điều anh vẫn nghĩ sao? Tôi muốn nói, thầy là người duy nhất trong đoàn đeo kính hai tròng. Vật rơi ra chắc chắn phải là từ cặp kính của thầy.”

“Nhưng chẳng hề có vật rơi ra nào hết,” Marek nói. “Mắt kính này cổ lắm rồi.”

“Gì cơ?”

“David nói rằng phần rìa màu trắng là do vi khuẩn gây ra. Mắt kính này không phải đồ hiện đại đâu, Kate. Nó là đồ cổ đấy.”

Cô nhìn lại gần hơn. “Không thể nào,” cô nói. “Nhìn cái cách nó được cắt mà xem. Kính của Giáo sư và cái mắt kính này y như nhau. Nó chắc chắn phải là đồ hiện đại.”

“Tôi biết, nhưng David cứ khẳng định rằng nó là đồ cổ.”

“Cổ thế nào?”

“Anh ta không nói được.”

“Anh ta không xác định được tuổi của nó à?”

Marek lắc đầu. “Không đủ vật liệu hữu cơ.”

“Thế trong trường hợp đó,” cô hỏi, “anh vào phòng thầy là vì…”

Cô ngừng lại, nhìn chằm chằm vào cặp kính rồi lại nhìn anh ta. Cô cau mày. “Tôi nhớ anh đã nói dòng chữ ấy là đồ giả, André.”

“Đúng, tôi có nói thế.”

“Nhưng anh cũng đã hỏi liệu David có thể thực hiện xét nghiệm các bon ngay tối nay được không, có phải không?”

“Đúng…”

“Và rồi anh đến đây, với miếng kính, vì anh lo lắng…” Cô lắc lắc đầu như thể muốn xua ý nghĩ đó đi, “Về điều gì? Anh nghĩ chuyện gì đang xảy ra vậy?”

Marek nhìn cô. “Tôi hoàn toàn không biết gì hết. Chẳng hiểu được cái gì cả.”

“Nhưng anh đang lo.”

“Phải,” Marek nói. “Tôi lo.”

*

Rạng sáng ngày hôm sau trời nắng và nóng kinh khủng, mặt trời chói chang, không một gợn mây. Sáng nay Giáo sư không hề gọi điện. Marek đã gọi cho ông hai lần, nhưng vẫn chỉ là hộp thoại trả lời tự động: “Xin để lại lời nhắn, tôi sẽ gọi lại cho bạn.”

Cũng chẳng có thêm tin gì từ phía Stern. Khi gọi cho phòng thí nghiệm ở Les Eyzies họ được thông báo là anh ta đang bận. Một kỹ thuật viên đã nói đầy bực tức, “Anh ta lại lặp lại các xét nghiệm lần nữa! Ba lần rồi đấy!”

Tại sao? Marek băn khoăn. Anh ta đã nghĩ đến chuyện tự đi tới Les Eyzies để xem xem thế nào – chỉ là một quãng đường ngắn – nhưng quyết định ở lại nhà kho đề phòng Giáo sư gọi lại.

Ông chẳng hề gọi.

Gần trưa, Elsie nói: “Này.”

“Gì thế?”

Cô ấy đang nhìn vào một tờ giấy da khác. “Tờ này được đặt ngay trên tờ giấy của Giáo sư trong cái chồng ấy.”

Marek tiến lại gần. “Nó là cái gì vậy?”

“Nó trông như là dính vết mực từ bút của Giáo sư ấy. Nhìn này, đây và đây thấy chưa?”

Marek nhún vai. “Thầy có lẽ đã nhìn vào cái này ngay trước khi viết lời nhắn kia.”

“Nhưng chúng ở bên lề,” cô ấy nói, “gần như một lời ghi chú ấy.”

“Ghi chú cái gì chứ?” anh ta nói: “Tài liệu này là về cái gì vậy?”

“Nó là một bản viết về lịch sử tự nhiên,” cô nói. “Một bài viết của thầy tu nào đó về một dòng sông ngầm. Nói là anh phải thận trọng ở rất nhiều điểm, chú ý bước chân, cứ thế cứ thế.”

“Một dòng sông ngầm…” Marek chẳng quan tâm. Các thầy tu là học giả của vùng, và họ thường viết những bài ngắn về địa lý địa phương, hay nghề mộc, thời điểm thích hợp để chiết cây ăn quả, làm thế nào để trữ hạt giống tốt vào mùa đông, vân vân và vân vân. Chúng toàn những trò gây tò mò, và thường chẳng đúng gì hết.

“ ‘Marcellus giữ chìa khóa’,” cô nói trong khi đọc bản viết ấy. “Không biết nó có ý nghĩa gì nhỉ. Nó ở ngay chỗ Giáo sư đặt dấu ghi chú. Rồi… gì đó về… chân khổng lồ… không… chân của người khổng lồ?… Cái chân của người khổng lồ? Và nó viết là vivix, là tiếng Latin của… để xem nào… Đó là một từ mới…”

Cô tra từ điển.

Đầy vẻ bồn chồn, Marek bỏ ra ngoài, cứ hết đi lên rồi lại đi xuống. Anh ta thực sự rất băn khoăn, lo lắng.

“Thật kỳ,” cô nói, “chẳng hề có từ vivix. Ít nhất là cũng không trong cuốn từ điển này.” Cô ghi chép lại một cách rất cẩn thận.

Marek thở dài.

Thời gian cứ chậm chạp trôi qua.

Giáo sư không hề gọi lại.

Rốt cuộc cũng tới ba giờ: các sinh viên đang đi về phía lều lớn để nghỉ giữa buổi. Marek đứng bên cánh cửa và nhìn họ. Họ đầy vẻ vô tư lự, cười cười nói nói, huých lẫn nhau, trêu chọc nhau.

Chuông điện thoại reo. Anh ta lập tức quay vào trong. Elsie đang cầm máy. Anh ta nghe thấy cô nói “Phải, anh ấy hiện đang ở chỗ tôi…”

Anh ta chạy vội vào phòng. “Giáo sư à?”

Cô lắc đầu. “Không. Ai đó từ ITC ấy.”

Và cô đưa điện thoại cho anh.

“André Marek xin nghe,” anh ta nói.

“Ồ vâng. Xin hãy giữ máy, anh Marek. Tôi được biết là ngài Doniger rất muốn được nói chuyện với anh.”

“Ông ấy muốn thế à?”

“Vâng. Chúng tôi đã cố gọi cho anh vài giờ rồi. Xin giữ máy đợi tôi tìm ông ấy.”

Một hồi dài chờ đợi. Một bản nhạc cổ điển nào đó được phát. Marek đặt tay lên che ống nghe rồi nói với Elsie, “Doniger đấy.”

“Này,” cô nói. “Anh lọt mắt xanh rồi đấy. Đích thân ông ta gọi đấy nhé.”

“Sao Doniger lại phải gọi cho tôi nhỉ?”

Năm phút sau, anh ta vẫn đang giữ máy thì Stern phóng vào phòng, lắc đầu quầy quậy. “Mọi người không tin nổi chuyện này đâu.”

“Hả? Cái gì cơ?” Marek nói, giữ lấy ống nghe.

Stern chỉ dúi vào tay anh ta một mảnh giấy. Nó ghi:

638 ± 47 BP22

“Cái này là cái gì?” Marek nói

“Tuổi của mực.”

“Anh đang nói cái gì vậy?”

“Mực trên tấm giấy da ấy.” Stern nói. “Nó sáu trăm ba mươi tám năm tuổi đấy, sai số khoảng bốn mươi bảy năm.”

“Cái gì?” Marek nói.

“Đúng mà. Mực này là từ năm 1361 Công Nguyên.”

“Gì cơ?”

“Tôi biết, tôi biết,” Stern nói. “Nhưng bọn tôi đã làm xét nghiệm ba lần rồi đấy. Chẳng có lăn tăn gì hết. Nếu Giáo sư đã thực sự viết cái đó thì thầy đã viết nó sáu trăm năm trước đấy.” Marek lật tờ giấy lên. Ở mặt bên kia, nó viết:

AD 1361 ± 47 năm

Trên điện thoại, bản nhạc tắt phụt với một tiếng cạch, và một giọng nói khá căng thẳng cất lên: “Tôi là Bob Doniger. Anh Marek đấy phải không?”

“Vâng,” Marek nói.

“Anh có thể không nhớ, nhưng chúng ta đã gặp nhau vài năm trước khi tôi tới thăm khu khai quật.”

“Tôi nhớ rất rõ,” Marek nói.

“Tôi gọi về chuyện Giáo sư Johnston. Chúng tôi đang rất lo lắng cho sự an toàn của ông ấy.”

“Thầy bị mất tích sao?”

“Không, ông ấy không bị mất tích. Chúng tôi biết đích xác ông ấy đang ở đâu.”

Có gì đó trong giọng nói của gã làm Marek lạnh cả sống lưng. Marek nói, “Thế tôi có thể nói chuyện với thầy được không?”

“Lúc này thì không được, tôi e là thế.”

“Giáo sư đang gặp nguy hiểm sao?”

“Khó nói lắm. Tôi hy vọng là không. Nhưng chúng tôi sẽ cần tới sự giúp đỡ của anh và đoàn khảo cổ. Tôi đã cho máy bay đến đón mọi người rồi.”

*

Marek nói, “Ông Doniger, chúng tôi nhận được một tin nhắn của Giáo sư Johnston mà có vẻ được viết từ sáu trăm năm trước…”

“Không nên nói chuyện qua di động,” Doniger ngắt lời anh ta. Nhưng Marek nhận thấy rằng gã chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên hết. “Giờ ở Pháp là ba giờ chiều, đúng không?”

“Mới vừa quá một chút, đúng.”

“Được rồi,” Doniger nói. “Chọn ba người nắm rõ vùng Dordogne nhất trong đội của anh. Lái xe tới sân bay ở Bergerac. Không phải chuẩn bị gì hết. Chúng tôi sẽ cung cấp tất cả những gì cần thiết khi mọi người đến đây. Máy hay hạ cánh lúc sáu giờ chiều, theo giờ chỗ các anh, và sẽ đưa mọi người về lại New Mexico. Thế là rõ rồi chứ nhỉ?”

“Phải, nhưng….”

“Tôi sẽ gặp anh sau.”

Và Doniger cúp máy.

*

David Stern nhìn Marek. “Tất cả chuyện này là gì vậy?”

Marek nói, “Đi lấy hộ chiếu đi.”

“Gì cơ?”

“Đi lấy hộ chiếu đi. Rồi quay lại mang theo xe nhé.”

“Chúng ta định đi đâu à?”,

“Ừ, phải,” Marek nói.

Và anh ta đi ra lấy điện đàm.

*

Từ thành lũy của lâu đài La Roque, Kate Erickson nhìn xuống khu sân trong, khu vực trung tâm rộng rãi cỏ dại mọc đầy của tòa lâu đài, sáu mét phía dưới. Bãi cỏ ngập đầy du khách với đủ các quốc tịch, tất cả đều mặc đồ chóe và quần soóc. Máy ảnh tanh tách từ mọi hướng.

Phía bên dưới, cô nghe thấy tiếng một cô bé nói, “Lại một tòa lâu đài khác. Sao chúng ta cứ phải đi xem hết mấy tòa lâu đài ngu ngốc này vậy, mẹ?”

Người mẹ nói, “Vì cha thích.”

“Nhưng chúng y hệt nhau mà mẹ.”

“Mẹ biết, con yêu…”

Người cha, ở cách đó một quãng ngắn, đang đứng bên trong những bức tường thấp bao lấy nơi đã từng là một căn phòng. “Và đây,” ông ta nói với gia đình mình, “từng là đại sảnh đấy.”

Nhìn xuống, Kate thấy ngay lập tức là không phải thế. Người đàn ông đó đang đứng trong phế tích của một căn phòng bếp. Rõ ngay từ ba cái bếp lò vẫn còn đang lồ lộ đứng cạnh tường bên trái. Và cái ống cống bằng đá đưa nước vào vẫn có thể được thấy rõ phía sau nơi người đàn ông đó đang đứng.

“Xưa người ta thường làm gì ở đại sảnh vậy ạ?” cô bé hỏi.

“Đây là nơi họ tổ chức các bữa tiệc, và nơi những hiệp sĩ đến chúc mừng và tỏ lòng thành kính với đức vua.”

Kate thở dài ngao ngán. Chẳng có bằng cớ nào chứng tỏ là có một vị vua nào đó đã từng đến thăm La Roque. Ngược lại, các tài liệu chứng tỏ rằng nó đã luôn là một lâu đài tư nhân, được xây vào thế kỷ mười một bởi một người nào đó tên là Armand de Cléry, và sau đó được xây lại gần hết vào đầu thế kỷ mười bốn, với một vòng tường ngoài nữa, và thêm vài cây cầu kéo. Phần làm thêm đó là tác phẩm của một hiệp sĩ tên là François le Gros, hoặc Francis Béo, khoảng năm 1302.

Tên như vậy nhưng François lại là một hiệp sĩ người Anh, và ông ta đã xây lâu đài La Roque theo lối cách tân kiểu Anh của Vua Edward đệ nhất. Những tòa lâu đài được xây dựng theo kiểu thời Vua Edward đều rất rộng, với những khu sân trong bao la và những khu thư giãn tuyệt diệu cho chủ nhân của nó. Điều này làm hài lòng François, một người rõ ràng là rất yêu cái đẹp, đồng thời lại khá lười biếng, và đầy khả năng gặp rắc rối về vấn đề tiền bạc. François đã bị buộc phải thế chấp tòa lâu đài của mình, và sau đó phải bán tháo nó đi. Trong Cuộc chiến một trăm năm, La Roque bị một loạt các hiệp sĩ kiểm soát. Nhưng sự vững chãi của nó thì không hề bị suy suyển: tòa lâu đài không bao giờ bị chiếm đóng mà chỉ bị đem ra đổi chác.

Về phần đại sảnh, cô thấy nó ở xa xa bên phía tay trái, đổ nát thảm hại, nhưng vẫn còn có những dấu hiệu rất rõ ràng của một căn phòng lớn hơn nhiều, phải dài tới ba mươi mét. Lò sưởi khổng lồ – cao gần ba mét và rộng hơn ba mét rưỡi – vẫn còn rất rõ ràng. Kate biết rằng bất cứ đại sảnh nào với kích cỡ lớn thế này đều có tường đá và mái vòm gỗ. Và đúng thế, khi nhìn quanh, cô thấy những vết cắt vào đá ở tít trên cao, để giữ những thanh cột gỗ khổng lồ nằm ngang. Rồi sẽ phải có những thanh ngang đặt phía trên nữa, để đỡ cho phần mái.

Một nhóm du khách người Anh chen qua cô trên bờ thành chật hẹp. Cô nghe tiếng người hướng dẫn viên du lịch nói, “Thành lũy này được Hiệp sĩ Francis Xấu Xa cho xây vào năm 1363. Francis là một kẻ cực kỳ xấu xa tệ hại. Hắn thích tra tấn đàn ông và phụ nữ, thậm chí cả trẻ con, trong những căn hầm tối tăm rộng lớn. Giờ nhìn sang trái, mọi người sẽ thấy nơi phu nhân de Renaud đã rơi xuống mà chết vào năm 1292, nhục nhã vì đã mang thai đứa con của người trông coi chuồng ngựa. Nhưng bà ấy tự ngã hay là bị ông chồng cuồng nộ đẩy xuống thì vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi…”

Kate thở dài. Họ lấy những thứ như thế này từ đâu vậy? Cô quay lại với cuốn sổ phác thảo, cô đã vẽ vào đó những nét bao quát của khu tường thành. Tòa lâu đài này cũng có những lối đi bí mật Nhưng Francis Béo là một kiến trúc sư đại tài. Những đường hầm của ông ta hầu hết là để phòng thu. Một đường hầm chạy từ thành xuống sau bức tường xa của đại sảnh, qua mặt sau của lò sưởi. Một đường hầm khác chạy theo các lỗ chân mai ở thành lũy phía Nam.

Nhưng đường hầm quan trọng nhất vẫn còn đang lẩn khuất đâu đó. Theo Froissart, một học giả thế kỷ mười bốn, lâu đài La Roque chưa bao giờ bị đánh chiếm vì những kẻ tấn công không thể tìm được đường hầm bí mật dẫn thức ăn và nước uống vào thành. Người ta đồn rằng đường hầm bí mật này dẫn tới mạng lưới hang động ở khu đá vôi bên dưới tòa lâu đài; nó cũng dẫn đến một nơi nào đó và kết thúc ở một lối ra bị che khuất đâu đó trên vách đá.

Nơi nào đó.

Cách dễ nhất để tìm ra nó bây giờ là xác định xem nó kết thúc ở đâu trong tòa lâu đài và từ đó lần ngược lại. Nhưng để tìm được cái lối đó, cô cần có trợ giúp về mặt kỹ thuật. Có lẽ phương pháp tốt nhất là dùng ra đa ngầm. Nhưng để làm được điều đó, cô cần tòa lâu đài phải hoàn toàn trống rỗng. Nó đóng cửa vào các thứ Hai; họ có thể làm thế vào thứ Hai tới, nếu…

Điện đàm của cô bỗng kêu lên,”Kate?”

Là Marek.

Cô đưa chiếc điện đàm lên gần mặt, ấn nút trả lời. “Ừ, Kate đây.”

“Quay về nhà chính ngay. Khẩn cấp.”

Và anh ta tắt máy.

*

Ba mét dưới mặt nước, Chris Hughes nghe thấy tiếng máy điều áp ầm ầm trong khi anh đang chỉnh dây giữ mình cố định trên dòng chảy của sông Dordogne. Nước hôm nay khá trong, sâu khoảng bốn mét, và anh có thể thấy toàn bộ cột tháp dừng lại trước một chuỗi những tảng đá mặt cắt lớn chạy thẳng cắt ngang lòng sông. Những tảng đá này là phần sót lại của nhịp cầu.

Chris luồn theo dải đá này, chậm rãi xem xét các phiến đá. Anh đang tìm những rãnh cắt hoặc khía có thể giúp mình xác định xem gỗ đã được dùng ở đâu. Thỉnh thoảng, anh lại thử lật một tảng đá lên, nhưng rất khó làm thế dưới nước vì anh không có điểm tựa.

Trên mặt nước, anh có một cái bè nổi bằng nhựa với một cái đuôi nheo sọc đỏ của thợ lặn. Nó ở đó để giúp anh tránh mấy người đi dạo bằng xuồng. Ít nhất thì, ý tưởng cũng là thế.

Anh đột nhiên thấy mình bị giật lại, kéo lên từ đáy sông. Anh trồi lên trên mặt nước và đập đầu vào mạn một chiếc xuồng. Người chèo xuồng đang để chiếc xuồng trôi xuôi dòng, quát vào mặt anh tiếng gì đó như tiếng Đức.

Chris giật cái ống thở ra và nói, “Để cái đó yên có được không?”

Anh được trả lời bằng một tràng tiếng Đức liến thoắng. Người chèo xuồng chỉ tay một cách tức giận về phía bờ.

“Nghe này, ông bạn, tôi không biết là ông định…”

Người đàn ông cứ tiếp tục la thét và chỉ tay về phía bờ, ngón tay chọc thẳng vào không khí.

Chris quay lại nhìn.

Một trong những sinh viên đang đứng trên bờ, cầm một cái điện đàm. Cậu ta đang gào lên. Mất một lúc Chris mới hiểu được. “Marek gọi anh lại vào trại. Ngay bây giờ.”

“Chúa ạ, nửa tiếng nữa được không, chờ tôi xong…”

“Anh ấy nói là ngay bây giờ.”

*

Những đám mây xám xịt lơ lửng trên dãy núi mặt bàn, và trời trông có vẻ như sắp mưa vậy. Trong văn phòng của mình, Doniger dập máy và nói, “Họ đã đồng ý đến rồi.”

“Tốt quá,” Diane Kramer nói. Cô đang đứng đối diện với gã, quay lưng về phía những ngọn núi. “Chúng ta cần họ giúp.”

“Không may là,” Doniger nói, “đúng vậy.” Gã đứng dậy khỏi bàn làm việc và bắt đầu đi đi lại lại. Gã luôn đứng ngồi không yên khi phải nghĩ ngợi.

“Tôi chỉ không hiểu tại sao khi ấy chúng ta lại để lạc Giáo sư thế,” Kramer nói. “Ông ta chắc là đã bước vào thế giới đó. Anh đã nói ông ta không được làm thế. Anh đã bảo ông ta ngay từ đầu là không được đi. Thế mà rồi ông ta lại lọt vào cái thế giới đó.”

“Chúng ta đều không biết chuyện gì đã xảy ra,” Doniger nói. “Chúng ta chẳng biết cái quái gì hết.”

“Trừ việc là ông đã viết lời nhắn đó,” Kramer nói.

“Phải. Theo lời Kastner. Cô nói chuyện với cô ấy khi nào vậy.”

“Tối hôm qua,” Kramer nói. “Cô ấy gọi cho tôi ngay khi biết tin. Cô ấy đã luôn là một mối tin cậy của chúng ta, và cô ấy…”

“Đừng bận tâm,” Doniger nói, xua tay với vẻ khó chịu. “Đấy không phải việc chính.”

Đó là cụm từ gã luôn sử dụng khi có việc gì đó làm mình thấy không thỏa đáng. Kramer nói, “Thế việc chính là gì?”

“Đưa ông ta trở lại,” Doniger nói. “Chúng ta nhất thiết phải đưa người đàn ông đó quay trở lại. Việc chính đấy.”

“Không phải bàn rồi,” Kramer nói. “Nhất thiết.”

“Nói thật nhé, tôi nghĩ lão khắm già ấy là một thằng bựa,” Doniger nói. “Nhưng nếu chúng ta không đưa lão về lại được, thì đó sẽ là một cơn ác mộng PR đấy.”

“Phải. Một cơn ác mộng.”

“Nhưng tôi có thể giải quyết được,” Doniger nói.

“Anh có thể giải quyết được, tôi chắc chắn mà.”

Suốt những năm qua, Kramer đã hình thành một thói quen là lặp lại tất cả những gì Doniger nói khi gã đang trong “tâm trạng đi đi lại lại”. Với người ngoài cuộc, đây có vẻ như là nịnh nọt vậy, nhưng Doniger thấy nó rất có ích. Thường thì, khi Doniger thấy cô nói lại, gã sẽ phản đối ngay. Kramer hiểu rằng trong quá trình này, cô chỉ là một người ngoài cuộc. Nó có vẻ như là một cuộc nói chuyện của hai người, nhưng thực ra không phải vậy. Doniger chỉ đang độc thoại thôi.

“Vấn đề,” Doniger nói, “là chúng ta đang gia tăng số lượng người ngoài biết về công nghệ này, nhưng chẳng thu lại được gì tương xứng cả. Cứ theo tất cả những điều chúng ta biết, những nghiên cứu sinh đó cũng chẳng đưa ông ta về được đâu.”

“Cơ hội của họ lớn hơn đấy.”

“Chỉ là giả thuyết thôi.” Gã lại đi tiếp. “Thấp lắm.”

“Tôi đồng ý, Bob. Thấp lắm.”

“Còn đội tìm kiếm cô gửi đi thì sao? Cô gửi những ai?”

“Gomez và Baretto. Họ chẳng thấy Giáo sư đâu hết.”

“Họ đi được bao lâu rồi?”

“Tôi nghĩ là một tiếng.”

“Họ không tiến vào thế giới đó à?”

Kramer lắc đầu. “Sao phải mạo hiểm thế? Chẳng để làm gì. Họ là một đôi cựu lính thủy đánh bộ, Bob. Họ cũng chẳng biết phải tìm ở đâu nếu có vào đó đi chăng nữa. Họ thậm chí còn chẳng biết phải sợ cái gì. Đó là một thế giới hoàn toàn khác.”

“Nhưng những nghiên cứu sinh đó có thể biết phải tìm ở đâu.”

“Đấy là mình nghĩ thế,” Kramer nói.

Sấm ầm vang phía xa. Giọt mưa nặng hạt đầu tiên trượt lên những tấm kính cửa sổ. Doniger nhìn chằm chằm vào cơn mưa. “Nếu như chúng ta cũng mất cả những nghiên cứu sinh kia thì sao?”

“Một cơn ác mộng PR.”

“Có lẽ,” Doniger nói. “Nhưng chúng ta phải chuẩn bị cho mọi tình huống.”