← Quay lại trang sách

35:31:11

Edward Johnston mặc một cái áo chẽn màu xanh da trời đậm và quần tất màu đen; trang phục khá giản dị, ít đường thêu và hình vẽ, làm ông mang dáng dấp một vị học giả bảo thủ. Ông thực sự có thể đóng giả làm một ký lục đi hành hương từ London, Marek nghĩ. Có lẽ đây là cách ăn mặc của Geoffrey Chaucer, một ký lục khác cùng thời đại này, khi ông ta thực hiện cuộc hành hương của chính mình.

Giáo sư thờ ơ bước ra ngoài nắng, rồi có hơi loạng choạng một chút. Họ chạy vội tới bên cạnh và thấy ông đang thở hổn hển. Những từ đầu tiên của ông là, “Mọi người có chip định vị chứ?”

“Có ạ,” Marek nói.

“Chỉ có hai người các em thôi à?”

“Không ạ. Có cả Chris nữa. Nhưng cậu ấy không có ở đây.”

Johnston lắc đầu bực tức. “Được rồi. Nhanh nào, mọi chuyện là thế này. Oliver đang ở Castelgard” – ông hất hàm ra dấu về hướng thị trấn bên sông – “nhưng ông ta muốn chuyển tới La Roque, trước khi Arnaut tới. Nỗi sợ lớn nhất của ông ta là đường hầm bí mật đâm vào La Roque kia. Oliver muốn biết nó ở đâu. Tất cả mọi người quanh đây đều điên lên vì nó, vì cả Oliver lẫn Arnaut đều cực kỳ muốn có nó. Nó là chìa khóa mở tất cả mọi thứ. Mọi người ở đây nghĩ thầy là một nhà thông thái. Vị tu viện trưởng nhờ thầy nghiên cứu các tài liệu cũ và thầy đã thấy…”

Cánh cửa sau lưng họ bật mở và đám lính mặc áo choàng đỏ nâu pha xám xông tới chỗ họ. Những người lính xô Marek và Kate, đẩy họ ra một cách thô bạo, suýt nữa làm tuột mất bộ tóc giả của Kate. Nhưng họ rất cẩn thận với Giáo sư, không hề chạm vào ông, chỉ đi hai bên sườn ông thôi. Những người lính dường như khá tôn trọng ông, như thể một đội cận vệ vậy. Đứng dậy và phủi hết bụi, Marek có cảm giác rằng họ đã được dặn là không được làm ông bị thương.

Marek yên lặng đứng nhìn khi Johnston và những người lính lên ngựa và đi ra đường lớn.

“Chúng ta phải làm gì?” Kate thì thầm.

Giáo sư gõ nhẹ vào bên đầu. Họ nghe tiếng ông ngân nga, như thể đang cầu nguyện, “Đi theo thầy. Thầy sẽ cố giúp chúng ta được tụ về một mối. Mọi người đi kiếm Chris đi.”

* 35:25:18

Bám theo cậu bé, Chris đi tới cổng vào Castelgard: hai cánh cửa gỗ lớn, được gia cố cẩn thận với những thanh sắt nặng nề. Những cánh cửa giờ mở tung, đứng gác là một người lính mặc áo choàng đỏ đậm pha xám. Người lính gác chào đón họ bằng câu: “Dựng lều à? Trải khăn ra đất à? Năm sol29 mới được bán ở chợ vào ngày có giải đấu nhé.”

“Non sumus mercatores,” cậu bé nói. “Chúng tôi không phải là thương nhân.”

Chris nghe thấy người lính gác đáp lại thế này, “Anthoubeest, ye schule payen. Quinquesols maintenant, aut decem postea.” Nhưng lời dịch không phát lên ngay trong tai anh; anh nhận ra rằng người lính gác đã nói một thứ ngôn ngữ pha tạp kỳ lạ giữa tiếng Anh, Pháp, và Latin.

Rồi anh nghe thấy, “Nếu cậu là thương nhân muốn vào thì cậu phải trả tiền. Năm sol bây giờ, hoặc mười sol tí nữa.”

Cậu bé lắc đầu. “Anh có thấy có đồ gì liên quan đến buôn bán ở đây không?”

“Herkle, non.” Qua cái tai nghe, “Có Hercules chứng giám, tôi không thấy.”

“Thế là anh đã có câu trả lời rồi đấy.”

Dù còn nhỏ nhưng cậu bé vẫn trả lời một cách rất dứt khoát, như thể đã quá quen với việc ra lệnh rồi. Người tính canh chỉ nhún vai rồi đứng tránh ra. Cậu bé và Chris đi qua hai cánh cổng, và bước vào làng.

Ngay bên trong những vòng tường đầu tiên là vài khu nhà nông trại là những lô đất được rào chắn. Vùng này đầy mùi lợn. Họ đi qua những ngôi nhà mái rạ và những chuồng lợn kêu khụt khịt, rồi trèo lên những bậc thang dẫn tới một con phố trải sỏi ngoằn ngoèo với những tòa nhà bằng đá chạy dọc hai bên đường. Giờ họ đã ở trong thị trấn rồi.

Đường phố chật hẹp và rất nhộn nhịp, những tòa nhà hai tầng, tầng thứ hai nhô ra, làm ánh mặt trời không thể chiếu xuống đến mặt đất. Tất cả các tòa nhà đều dành tầng dưới mở ra làm cửa hàng: một người thợ rèn, một người thợ mộc đồng thời cũng đóng cả thùng rượu nữa, một người thợ may và một người hàng thịt. Người hàng thịt, đeo một cái tạp dề bằng vải dầu bị bắn đầy dầu mỡ, đang mổ một con lợn kêu eng éc trên nền đất trước cửa tiệm; họ bước tránh qua chỗ máu lênh láng và bộ lòng xám ngoét.

Phố xá náo nhiệt và thật đông đúc, mùi hôi gần như đánh gục Chris trong khi cậu bé đi trước dẫn đường cho anh. Họ đi tới một quảng trường trải sỏi với một khu chợ có mái che ở trung tâm. Khi ở khu khảo cổ, nơi đây chỉ là một cánh đồng. Anh dừng lại, nhìn quanh, cố so sánh thứ mình đã biết với thứ giờ anh đang nhìn thấy.

Bên kia quảng trường, một cô gái trẻ ăn vận trang nhã, mang một giỏ rau quả, chạy vội đến chỗ cậu bé và nói với vẻ lo lắng, “Quý ngài thân yêu của tôi, sự vắng mặt quá lâu của ngài đã làm ngài Daniel phiền lòng lắm đấy.”

Cậu bé trông có vẻ rất khó chịu khi thấy cô. Cậu gắt gỏng trả lời, “Thế thì nói với chú tôi là tôi sẽ gặp ông ấy khi đến lúc.”

“Ngài ấy sẽ hài lòng lắm,” cô bé nói, và chạy vội xuống một hành lang hẹp.

Cậu bé dẫn Chris đi theo một hướng khác. Cậu chẳng đả động gì đến cuộc nói chuyện vừa rồi của mình hết, cứ thế tiến về trước, lẩm bẩm gì đó một mình.

Giờ họ đi đến một vùng đất trống, ngay phía trước tòa lâu đài. Đó là một nơi rực rỡ và đầy màu sắc, các hiệp sĩ diễu hành trên ngựa, mang những biểu ngữ phấp phới trong gió. “Hôm nay có nhiều khách đến xem giải đấu quá,” cậu bé nói.

Ngay trước mặt là cây cầu kéo dẫn vào lâu đài. Chris ngước mắt nhìn những bức tường đồ sộ, những tháp canh cao ngất. Những người lính đi lại trên thành và nhìn xuống đám đông. Cậu bé dẫn anh tiến lên trước không chút do dự. Chris nghe thấy tiếng chân mình rậm rịch trên cây cầu gỗ. Có hai người lính canh trước cổng. Anh thấy người mình căng lên khi tiến lại gần.

Nhưng những người lính canh chẳng mảy may chú ý gì hết. Một người lơ đãng gật đầu về phía họ; người kia đang xoay lưng lại và cạo bùn khỏi giày mình.

Chris ngạc nhiên trước sự thờ ơ của họ. “Họ không canh cổng vào à?”

“Sao họ phải canh chứ?” cậu bé nói. “Giờ là ban ngày. Và chúng ta chẳng bị ai tấn công hết.”

Ba người phụ nữ, đầu quấn khăn trắng, để lộ mỗi khuôn mặt, đang đeo những chiếc giỏ nhỏ và đi ra khỏi thành. Những người lính canh lần nữa lại chẳng mấy chú ý. Vừa cười vừa nói, những người phụ nữ cứ thế đi qua – chẳng hề bị hoạnh họe gì.

Chris nhận ra rằng anh đang phải đối mặt với một trong những sai lệch lịch sử đã ăn sâu vào tâm trí đến nỗi chẳng ai buồn xem xét lại nó hết. Lâu đài là những pháo đài cố thủ, và chúng luôn có đường ra lối lại cẩn thận – hào, cầu kéo, vân vân. Và tất cả mọi người đều nghĩ rằng cái lối ra vào ấy luôn được canh phòng cẩn mật tất cả mọi lúc.

Nhưng, như cậu bé đã nói, sao phải thế chứ? Vào thời bình, lâu đài là một trung tâm xã hội nhộn nhịp, mọi người đến và đi để gặp lãnh chúa, để giao hàng hóa. Chẳng có lý do gì để phải canh gác nó hết. Đặc biệt là, như cậu bé đã nói, vào ban ngày.

Chris thấy mình nghĩ về những tòa nhà công sở hiện đại, chỉ có bảo vệ vào buổi đêm ; vào ban ngày, bảo vệ cũng có mặt, nhưng chỉ để hướng dẫn thông tin. Và có lẽ đó cũng là việc những người lính canh ở đây đang làm.

Mặt khác…

Khi đi qua cánh cổng, anh liếc nhìn về phía những hàng giáo phòng vệ – khung sắt to nặng giờ được kéo lên phía trên đầu anh. Cái khung sắt ấy sẽ được hạ xuống bất cứ lúc nào, anh biết thế. Và khi nó đã hạ xuống, sẽ chẳng có lối vào và cũng chẳng có đường nào để thoát khỏi lâu đài hết.

Anh đã tiến vào lâu đài một cách khá dễ dàng. Nhưng anh không chắc là ra khỏi đó có dễ thế không.

*

Họ tiến vào một cái sân rộng, tường đá ở khắp mọi phía. Có rất nhiều ngựa ở đây; những người lính mặc áo chẽn màu đỏ pha xám ngồi thành từng nhóm nhỏ, ăn bữa trưa. Anh nhìn thấy những hành lang gỗ cao phía trên đầu, chạy theo chiều dài những bức tường. Ngay phía trên, anh thấy một tòa nhà khác, với những bức tường đá cao bằng cả một tòa nhà ba tầng với những tháp canh phía trên. Là một lâu đài trong tòa thành này. Cậu bé dẫn anh tới đó.

.

Ở một phía; một cánh cửa để mở. Một người lính canh đang rồn rột gặm thịt gà. Cậu bé nói, “Chúng tôi tới gặp phu nhân Claire. Cô ấy muốn được anh người Ai Len này phục vụ.”

“Cứ thế đi,” người lính càu nhàu, chẳng thèm quan tâm; họ tiến vào trong. Chris nhìn thấy một cổng vào có mái vòm thẳng ngay trước mặt, dẫn tới phòng lớn, nơi một đám đông đàn ông và phụ nữ đang đứng nói chuyện. Tất cả mọi người dường như đều ăn mặc rất sang trọng; giọng họ dội lại vang vọng từ các bức tường đá.

Nhưng cậu bé chẳng để anh có nhiều cơ hội quan sát. Cậu dẫn Chris đi lên một cầu thang hẹp, ngoằn ngoèo dẫn tới tầng thứ hai, rồi đi theo một hành lang bằng đá, và cuối cùng tới một dãy phòng.

Ba cô hầu, đều mặc đồ trắng, chạy vội tới chỗ cậu bé và ôm lấy cậu ta. Họ trông nhẹ cả người. “Ơn Chúa, phu nhân, cô đã về rồi.”

Chris nói, “Phu nhân?”

Ngay khi anh nói thế, cái mũ đen đã bị ném đi, và sóng tóc vàng óng đổ xuống vai cô. Cô hơi nhún người chào. “Tôi thực sự rất xin lỗi, và mong anh tha thứ cho sự dối gạt này.”

“Cô là ai?” Chris nói, cứng cả người.

“Tôi được gọi là Claire.”

Cô đứng dậy và nhìn thẳng vào mắt anh. Anh nhận thấy cô lớn hơn mình đã nghĩ, có lẽ hai hai hoặc hai ba tuổi. Và rất đẹp.

Anh há hốc miệng và chẳng nói được gì. Anh chẳng biết phải nói gì, hay làm gì hết. Anh thấy mình thật ngốc nghếch và lố bịch.

Giữa sự im lặng, một trong các cô hầu tiến lên, nhún gối chào và nói, “Xin phép ngài, cô ấy là phu nhân Claire xứ Eltham, mới trở thành góa phụ của ngài Geoffrey xứ Eltham, người có những điền trang lớn ở Guyenne và Middlesex. Ngài Geoffrey tử thương ở trận Pointiers, và giờ ngài Oliver – chủ nhân lâu đài này – làm người giám hộ cho phu nhân tôi. Ngài Oliver nghĩ là cô ấy phải tái giá, và ngài ấy đã chọn ngài Guy de Malegant, một quý tộc khá nổi tiếng ở vùng này. Nhưng cuộc hôn phối này, phu nhân tôi đã từ chối.”

Claire quay người lại và bắn cho cô hầu gái một cái liếc cảnh tỉnh. Nhưng cô gái, cứ lờ đi, tiếp tục tán. “Phu nhân tôi nói cho cả thế giới nghe là ngài Guy không đủ khả năng bảo vệ điền trang của cô ấy ở Pháp và Anh. Nhưng ngài Oliver sẽ kiếm được một khoản từ cuộc hôn phối này, và Guy đã…”

“Elaine.”

“Phú nhân,” cô gái nói, lùi lại phía sau. Cô ta nhập hội cùng với mấy cô hầu kia, đang thì thầm trong góc, và rõ ràng là đang khiển trách cô ta.

“Nói đủ rồi,” Claire nói. “Đây là ân nhân cứu mạng của ta hôm nay, thiếu hiệp Christopher xứ Hewes. Anh ấy đã cứu ta khỏi tên Guy bạo ngược, kẻ đã cố dùng bạo lực để cướp thứ hắn không thể tự do lấy được.”

Chris nói, “Không, không, chuyện xảy ra không phải thế đâu…”

Anh ngắc ngứ, nhận ra rằng tất cả mọi người giờ đang nhìn chằm chằm vào mình, miệng há hốc, mắt mở trân trân.

“Đúng thế, cách nói năng của anh ấy có hơi lạ,” Claire nói, “vì anh ấy đến từ một nơi hẻo lánh ở xứ Ai Len. Và anh ấy rất khiêm tốn, đúng mực một cách rất quý tộc. Anh ấy thực sự đã cứu ta, nên hôm nay ta sẽ giới thiệu Christopher với người giám hộ của mình, khi anh ấy đã được ăn vận chỉnh tề.” Cô quay về phía một trong những cô gái kia. “Có phải người huấn luyện ngựa của chúng ta, thiếu hiệp Brandon, cũng có khổ người giống anh ấy không? Đi lấy cho ta cái áo chẽn màu chàm, thắt lưng bạc, và chiếc quần tất màu trắng đẹp nhất của anh ta đi.” Cô đưa cho cô gái một chiếc ví. “Trả bất cứ giá nào anh ta đòi, và phải nhanh lên nhé.”

Cô gái chạy vội đi. Cô ta đi qua một người đàn ông đứng tuổi mặt mày ảm đạm, đang đứng nhìn trong bóng tối. Ông ta mặc một chiếc áo choàng nhung màu nâu đỏ thêu hình hoa ly bạc, cổ áo làm bằng lông chồn, “Giờ thì thế nào đây, phu nhân?” ông ta vừa nói vừa tiến lại gần.

Cô nhún người chào, “Ổn cả rồi, chú Daniel.”

“Cuối cùng con cũng trở về an toàn,”

“Phải cảm tạ Chúa.”

Người đàn ông mặt mày ảm đạm khịt mũi. “Con nên thế. Con làm cả Người cũng mất kiên nhẫn. Và liệu chuyến đi của con có thu được thành công xứng với sự nguy hiểm của nó không vậy?”

Claire cắn môi, “Con sợ là không.”

“Con có gặp được tu viện trưởng không?”

Một chút ngần ngại. “Không.”

“Nói sự thật cho ta nghe đi, Claire.”

Cô gái lắc đầu, “Thưa chú, con thực sự không gặp được ông ấy. Ông ấy ra ngoài đi săn rồi.”

“Thật đáng tiếc,” ngài Daniel nói. “Sao con không đợi ông ấy về?”

“Con không dám làm thế, thưa chú, vì người của ngài Oliver đã xâm nhập thánh địa, cố bắt ngài Học giả ấy đi bằng vũ lực. Con sợ bị bại lộ, thế nên đã trốn đi trước.”

“Phải, phải, ngài Học giả rắc rối này,” ngài Daniel trầm ngâm một cách đầy u ám: “Ai ai cũng nói về ông ta. Con có biết người ta nói gì không? Là ông ta có thể tự hiện ra trong một luồng sáng.” Ngài Daniel lắc đầu. Khó có thể nói được là ông ta có tin hay không. “Ông ta hẳn phải là một học giả lão luyện về thuốc súng.” Ông ta phát âm nó là Thuốc chúng, và nói cái từ đó một cách thật chậm, như thể nó rất kỳ lạ. “Con đặ gặp vị Học giả này chưa?”

“Đã ạ. Con thậm chí còn nói chuyện với ông ấy nữa.”

“Khi thấy vị tu viện trưởng đã đi khỏi, con đã đi tìm ông ấy. Vì người ta nói là gần đây vị Học giả đã kết bạn với tu viện trưởng.”

Chris Hughes đang cố bắt kịp cuộc nói chuyện của họ thì anh nhận ra một cách muộn mằn là họ đang nói về Giáo sư. Anh nói, “Học giả?”

Claire nói, “Anh biết ngài Học giả à? Edward de Johnes?”

Anh ngay lập tức đổi giọng. “Ừm… không… không, tôi không biết, và…”

Nghe thấy những lời này, ngài Daniel nhìn chằm chằm vào Chris với vẻ bất ngờ. Ông ta quay về phía Claire, “Anh ta vừa nói gì vậy?”

“Anh ấy nói là anh ấy không biết ngài Học giả.”

Ông lão vẫn chưa hết bàng hoàng. “Bằng tiếng nước nào vậy?”

“Một kiểu tiếng Anh, chú Daniel, với một ít tiếng Celtic, con nghĩ thế.”

“Không phải thứ tiếng Celtic ta từng được nghe,” ngài Daniel nói. Ông ta quay về phía Chris. “Anh nói la langue – doc? Không ư? Loquerisquide Latine?”

Ông ta đang hỏi là có phải anh nói tiếng Latin không. Chris cũng có học qua trường lớp về tiếng Latin trình độ đọc hiểu. Anh chưa thử nói thứ tiếng đó bao giờ. Anh vừa nói vừa nghĩ “Non. Senior Danielis, solum perpaululum. Perdoleo.” (Không đâu, thưa ngài Daniel, chỉ một chút thôi, thứ lỗi cho tôi.)

“Per, per… dicendo ille Ciceroni persimilis est.” Anh ta nói cứ như Cicero30 vậy.

“Perdoleo.” Tôi xin lỗi.

“Thế thì anh nên yên lặng là hơn.” Ông lão quay lại phía Claire. “Ngài Học giả đã nói gì với con vậy?”

“Ông ấy không thể giúp con được.”

“Ông ta có biết gì về bí mật chúng ta đang tìm kiếm không?”

“Ông ấy nói là ông ấy không biết.”

“Nhưng ngài tu viện trưởng có biết,” ngài Daniel nói. “Ngài tu viện trưởng chắc chắn phải biết. Người tiền nhiệm của ngài ấy, giám mục xứ Laon, đã phụ trách phần kiến trúc trong những lần tu sửa cuối cùng của La Roque.”

Claire nói, “Ngài Học giả nói Laon không phải kiến trúc sư phụ trách phần đó.”

“Không phải sao? Ngài Daniel cau mày. Và làm sao mà ngài Học giả lại biết được điều đó?”

“Con tin là tu viện trưởng đã nói điều đó cho ông ấy nghe. Hoặc có lẽ ông ấy đã tra ra điều đó trong chỗ tài liệu. Ngài Học giả đã nhận trách nhiệm phân loại và sắp xếp các bản giấy da của Sainte-Mère, cho những vị thầy tu.”

“Có thật không nhỉ,” ngài Daniel trầm ngâm nói. “Ta băn khoăn không biết tại sao.”

“Con không có đủ thời gian để hỏi vì khi đó người của ngài Oliver đã xông vào điện thờ rồi.”

“Ừm, ngài Học giả sẽ tới đây chóng thôi,” ngài Daniel nói. “Và đích thân ngài Ollver sẽ tự hỏi những câu này…” Ông ta chau mày, rõ ràng là rất không vui trước cái ý nghĩ ấy.

Ông lão thình lình quay về phía một cậu bé độ chín hay mười tuổi đang đứng phía sau. “Đưa thiếu hiệp Christopher tới phòng ta, để ngài ấy có thể tắm rửa thay đồ.”

Nghe thế, Claire bắn cho ông lão một cái nhìn sắc lẻm. “Chú, đừng làm hỏng kế hoạch của con thế.”

“Ta đã làm thế bao giờ chưa?”

“Chú biết là chú đã cố làm thế rồi mà.”

“Con yêu,” ông ta nói, “mối quan tâm duy nhất của ta luôn là sự an toàn – và danh dự của con.”

“Và phẩm hạnh của con, thưa chú, vẫn chưa được định đoạt đâu ạ.” Nói thế, Claire xăm xăm đi về phía Chris, vòng tay quanh cổ, và nhìn thẳng vào mắt anh. “Em sẽ đếm từng giây phút khi anh đi khỏi, và nhớ anh với cả trái tim,” cô dịu dàng nói, mắt ngấn lệ. “Mau trở lại với em nhé.”

Cô nhẹ quệt môi lên miệng anh rồi lùi lại, ngần ngại buông anh ra, những ngón tay lướt trên cổ anh. Anh thấy choáng váng, nhìn chằm chằm vào mắt cô, thấy cô thật đẹp…

Ngài Daniel húng hắng ho, quay về phía cậu bé. “Chăm sóc thiếu hiệp Christopher đây, giúp ngài ấy tắm rửa.”

Cậu bé cúi đầu chào Chris. Tất cả mọi người trong phòng đều yên lặng. Rõ ràng đây là dấu hiệu bảo anh nên đi đi. Anh gật đầu và nói, “Tôi cảm ơn mọi người.” Anh đợi những nét mặt bất ngờ, nhưng lạ là chẳng có, họ dường như có vẻ đã hiểu những gì anh vừa nói. Ngài Daniel cho anh một cái gật đầu lạnh giá, rồi Chris rời phòng.