← Quay lại trang sách

36:28:04

Trong phòng điều khiển, chuông báo động reo liên hồi. Cả hai kỹ thuật viên đều đứng khỏi bàn máy tính và bắt đầu đi ra khỏi phòng. Stern thấy Gordon bấu chặt lấy cánh tay anh.

“Chúng ta phải đi thôi,” Gordon nói. “Không khí đã bị nhiễm flohydric rồi. Phòng dịch chuyển đã bị nhiễm độc. Và khói cũng sẽ lên đây ngay thôi, chẳng lâu nữa đâu.” Anh bắt đầu dẫn Stern đi khỏi phòng điều khiển.

Stern ngoái nhìn lại màn hình, vào đống hỗn độn những cây cột mờ mịt trong khói ở phòng dịch chuyển. “Nhưng nếu họ quay lại khi tất cả mọi người đã đi hết thì sao?”

“Đừng lo,” Gordon nói. “Chuyện đó không thể xảy ra đâu. Đống đổ nát này sẽ khởi động các lưới hồng ngoại. Các máy cảm ứng cần tới hai mét ở các phía, nhớ chứ? Hai mét đấy. Họ không có đủ đâu. Nên các máy cảm ứng sẽ không để cho những cỗ máy đó quay lại. Không được, cho tới khi chúng ta dọn xong chỗ đó.”

“Dọn sạch chỗ đó thì hết bao lâu?

“Đầu tiên, chúng ta phải cho thông khí trong cái hang đó đã.”

Gordon dẫn Stern quay lại hành lang dài ngoằng dẫn tới cái thang máy chính. Có rất nhiều người ngoài hành lang, tất cả đều đang rời đi. Giọng nói của họ vang vọng trong đường hầm.

“Thông khí trong cái hang ấy?” Stern nói. “Nó lớn lắm. Phải mất bao lâu chứ?”

Gordon nói, “Về lý thuyết, sẽ mất chín tiếng.”

“Về lý thuyết?”

“Chúng tôi chưa bao giờ làm việc đó,” Gordon nói. “Nhưng dĩ nhiên là chúng tôi có thể làm được. Những cái quạt lớn sẽ được đưa vào ngay thôi.”

Chỉ vài giây sau, một tiếng gầm vang khắp đường hầm. Stern thấy cả một luồng gió mạnh quật vào người anh, ép vào quần áo.

“Và thông khí xong rồi thì làm gì nữa?”

“Chúng tôi sẽ xây lại phòng dịch chuyển và đợi họ quay lại,” Gordon nói. “Đúng theo lộ trình đã định thôi.”

“Và nếu họ quay lại trước khi các anh sẵn sàng thì sao?”

“Không thành vấn đề, David. Cỗ máy sẽ không cho đâu. Nó sẽ thả họ ngay tại nơi họ đang ở thôi. Hiện tại là thế.”

“Thế là họ đã bị mắc kẹt à,” Stern nói.

“Hiện tại thì,” Gordon nói, “đúng thế. Họ đã bị mắc kẹt. Và chúng ta chẳng thể làm gì được hết.”

* 36:13:17

Chris Hughes chạy tới mép vực và quăng mình vào khoảng không, gào lên, chân tay đập loạn xạ dưới ánh nắng. Anh nhìn thấy dòng Dordogne, hơn sáu mươi mét phía dưới, uốn lượn quanh vùng quê. Rơi từ chỗ này là quá cao. Anh biết sông rất nông. Chẳng nghi ngờ gì, anh sẽ chết.

Nhưng rồi anh nhìn thấy mặt vực phía dưới mình không hề dựng đứng – có một mỏm đá nhô ra, cách khoảng sáu mét, chia ra từ mép trên của bờ vực. Nó là một khối đá trơ trọi, lác đác cây bụi và bụi gai.

Anh đập người xuống mỏm đá, cú va làm phổi trút sạch hơi. Ngay lập tức anh lăn lông lốc về phía mép đá. Anh cố dừng cú lăn lại, tuyệt vọng bám lấy mấy bụi cây, nhưng chúng quá yếu, và gãy nát trong tay anh. Khi tiếp tục lăn về phía bờ vực, anh nhận ra cậu bé đang cố với về phía mình, nhưng anh trượt mất hai bàn tay đang vươn ra của cậu bé. Anh tiếp tục lăn, hoàn toàn mất kiểm soát. Giờ cậu bé ở ngay phía sau, cái vẻ mặt đầy hoảng loạn. Chris biết mình sẽ lăn khỏi vách đá; anh sẽ rơi…

Anh rên lên, đập người vào một thân cây. Bụng đau nhói, rồi cơn đau chạy dọc khắp người. Trong giây lát, anh không biết mình đang ở đâu; anh chỉ cảm thấy đau. Thế giới là một màu trắng xanh. Anh từ từ định thần lại.

Cái cây đã hãm cú rơi của anh lại, nhưng trong một thoáng, anh chẳng thở nổi. Cơn đau quá khủng khiếp. Mắt nổ đom đóm, rồi chậm rãi nhòa đi, rồi cuối cùng anh thấy hai chân mình đang lơ lửng trên bờ vực.

Và đang trượt đi.

Đang trượt xuống dưới.

Đó là một cây thông khá mảnh, và sức nặng của anh đang từ từ, từ từ làm nó cong lại. Anh thấy mình đang dần trượt xuống dọc theo thân cây. Anh chẳng thể làm gì để dừng lại được. Anh bám chặt lấy thân cây và cứ giữ chặt lấy nó. Và cũng có hiệu quả: anh không trượt thêm chút nào nữa. Anh đẩy người lên phía trên thân cây, cố trèo trở lại mỏm đá.

Rồi, đầy kinh hoàng, anh nhìn thấy rễ cây bắt đầu bị giật tung khỏi kẽ đá, từng cái từng cái một, xám xịt giữa trời nắng. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi cả thân cây tuột ra.

Rồi anh thấy cổ áo mình bị giật lại, và thấy cậu bé giờ đang đứng phía trên, kéo anh đứng dậy. Cậu bé trông cực kỳ giận dữ. “Nào, đứng dậy ngay!”

“Chúa ơi,” Chris nói. Anh loạng choạng ngã lên một phiến đá dẹt, hổn hển thở. “Cho tôi một phút thôi…”

Một mũi tên rít qua tai anh như một viên đạn. Anh nghe được cả tiếng gió vút đi. Anh bị choáng trước mãnh lực của nó. Được nỗi sợ hãi tiếp sức, anh cố sức bò dọc mỏm đá, cúi đầu, bật người từ thân cây này đến thân cây khác. Một mũi tên khác lại phóng qua những thân cây.

Trên vách đá, những tay kỵ sĩ đang nhìn xuống bọn họ. Tên kỵ sĩ đen quát ầm lên, “Lũ ngu! Đần độn!” và giận dữ đánh tay cung thủ, làm cái cung rơi khỏi tay hắn ta. Chẳng còn mũi tên nào nữa.

Cậu bé kéo Chris về trước. Chris chẳng biết con đường dọc vách đá này sẽ dẫn đến đâu, nhưng cậu bé dường như đã có sẵn kế hoạch. Phía trên đầu anh, những tay kỵ sĩ đã xoay ngựa lại, phóng về phía khu rừng.

Giờ mỏm đá chạy tới một cái gờ hẹp, rộng chẳng tới nửa mét, chạy vòng qua một góc trên vách đá. Phía dưới rìa đá là dốc dựng đứng đâm thẳng xuống dòng sông. Chris nhìn chằm chằm vào dòng sông, nhưng cậu bé bấu lấy cằm anh, hất hàm anh lên. “Đừng nhìn xuống. Đi nào.” Cậu bé dựa sát vào vách đá, bám lấy những gờ đá, và cẩn thận đi men theo. Chris làm theo, vẫn cứ thở hổn hển. Anh biết chỉ cần do dự một chút thôi, sự sợ hãi sẽ xâm chiếm lấy anh ngay. Gió giật mạnh vào quần áo anh, kéo anh khỏi vách đá. Áp má vào mặt đá ấm áp, bấu chặt lấy những gờ đá nhô ra, anh cố chống lại nỗi sợ hãi.

Anh thấy cậu bé đã biến mất sau chỗ ngoặt. Chris tiếp tục đi. Góc ngoặt rất gắt, và con đường phía dưới đã bị sụt lún để lại một cái hố lớn. Thật cẩn thận bước rồi anh cũng vượt qua được góc ngoặt đó, và có thể thở phào nhẹ nhõm.

Anh nhìn thấy vách đá kết thúc ở một con dốc dài xanh mướt những cây, kéo xuống tận dòng sông. Cậu bé đang vẫy tay về phía anh. Chris tiến về phía trước, nhập hội với cậu bé.

“Từ đây sẽ dễ đi hơn đấy.” Cậu bé bắt đầu đi xuống, Chris theo sau. Gần như ngay lập tức, anh nhận ra rằng con dốc chẳng thoải như vẻ bề ngoài. Phía bên dưới những tán cây, mọi thứ rất tối, dốc, và đầy bùn đất. Cậu bé tuột xuống, trượt dốc theo con đường đất bùn, biến mất trong cánh rừng phía dưới. Chris tiếp tục vật lộn đi xuống, túm lấy các cành cây chìa ra để làm chỗ dựa. Nhưng rồi anh mất chỗ tựa và trượt vào vũng bùn ở phía sau, tuột xuống dốc. Vì một lý do nào đó không rõ anh đã nghĩ thế này, Mình là một nghiên cứu sinh Đại học Yale. Mình là một nhà sử học chuyên về lịch sử công nghệ. Như thể là cách để anh cố bấu víu lấy một thứ nhận dạng đang nhanh chóng mờ khỏi ý thức của mình, như một giấc mơ anh vừa trải qua, và giờ lại đang dần quên nó đi.

Trượt thẳng xuống đống bùn, Chris đâm vào mấy cái cây, cành lá cào hết vào mặt anh, nhưng cũng chẳng giúp giảm bớt cú lăn của anh được chút nào. Anh cứ lăn xuống đồi, lăn mãi xuống.

*

Thở dài ngao ngán, Marek đứng dậy. Chẳng có chip định vị nào trên người Gomez hết. Anh ta chắc chắn thế. Kate đứng bên cạnh anh ta, cắn môi. “Tôi biết chắc rằng cô ấy đã nói là có một cái dự phòng mà. Tôi biết chắc chắn thế.”

“Tôi chẳng biết nó ở đâu hết,” Marek nói.

Kate lơ đễnh lấy tay gãi đầu, rồi chạm vào bộ tóc giả, và cảm nhận cơn đau từ cục u trên đầu mình “Cái bộ tóc giả khốn kiếp này…”

Cô dừng lại. Cô nhìn chằm chằm vào Marek.

Và rồi cô đi thẳng vào con đường dẫn vào rừng. “Nó đi đâu rồi nhỉ?” cô nói.

“Cái gì?”

“Cái đầu của cô ấy.”

Một lúc sau cô đã thấy nó, ngạc nhiên vì kích thước nó nhỏ đến vậy. Một cái đầu không có thân mình chẳng lớn gì cho cam. Cô cố không nhìn vào phần cổ.

Cố chống lại cảm giác ghê sợ, cô cúi xuống và xoay cái đầu lại, sao cho mình có thể nhìn vào khuôn mặt xám xịt kia, vào đôi mắt vô hồn kia. Cái lưỡi hơi thò ra từ cái hàm tréo ngoẹo. Ruồi vo vo đập cánh trong miệng.

Cô nhấc bộ tóc giả lên và ngay lập tức nhìn thấy chip định vị bằng sứ. Nó được gắn vào mặt trong bộ tóc giả. Cô gỡ nó ra.

“Có rồi,” cô nói.

Kate lật nó trên tay. Cô nhìn thấy cái nút ở bên sườn chip định vị. Cái nút quá nhỏ và hẹp, chỉ có thể ấn được bằng đầu móng tay.

Là nó rồi. Cuối cùng họ cũng tìm được nó.

Marek tiến lại và nhìn vào miếng sứ.

“Trông có vẻ giống nó đấy nhỉ,” anh ta nói.

“Thế là chúng ta đã có thể trở về,” cô nói, “bất cứ khi nào chúng ta muốn.”

“Cô có muốn về không?” anh ta hỏi cô.

Cô nghĩ một chút. “Chúng ta đến đây để đưa Giáo sư về,” cô nói. “Và tôi nghĩ đó là điều chúng ta phải làm lúc này.”

Marek cười.

Rồi họ nghe thấy những tiếng vó ngựa ầm vang như sấm, và chỉ vừa kịp nhào vào bụi rậm thì sáu kỵ sĩ đen phi nước đại xuống con đường bùn lầy, hướng thẳng về phía dòng sông phía dưới.

*

Chris loạng choạng tiến về phía trước, đầu gối ngập trong vũng lầy ven sông. Bùn bám chặt lấy mặt, tóc và quần áo anh. Anh bị phủ nhiều bùn đến mức có thể cảm nhận được sức nặng của chúng. Anh nhìn thấy cậu bé ở phía trước đang vầy nước để rửa sạch bùn đất.

Lội qua quãng đường lầy lội cuối cùng nơi ven sông, Chris trườn xuống mặt nước. Nước lạnh như băng, nhưng anh chẳng quan tâm. Anh chúi đầu xuống, luồn những ngón tay lên tóc, xoa xoa mặt, cố gột sạch bùn.

Giờ cậu bé đã trèo lên bờ bên kia và đang ngồi trên một mỏm đá dưới ánh nắng. Cậu bé nói gì đó mà Chris không thể nghe được, nhưng cái tai nghe của anh đã dịch ra thế này: “Anh không cởi đồ ra để tắm à?”

“Sao phải thế? Cậu có cởi đâu?”

Nghe thế, cậu bé chỉ nhún vai, “Anh có thể, nếu anh muốn.”

Chris bơi ra phía xa rồi trồi lên. Quần áo của anh vẫn còn lấm đầy bùn, và giờ khi đã lên khỏi mặt nước, anh thấy lạnh toát cả người. Anh cởi áo và quần dài, vắt sạch nước trên chỗ quần áo ngoài xuống sông, rồi trải chúng lên phiến đá để hong. Người anh đầy những vết xước sát, sưng tấy và thâm tím. Nhưng chẳng mấy chốc da anh đã bớt ẩm và ánh nắng mặt trời thì thật ấm áp. Anh ngước mặt lên, nhắm mắt lại. Anh nghe thấy tiếng hát dịu dàng của những người phụ nữ trên cánh đồng. Anh nghe thấy những tiếng chim hót. Tiếng sóng vỗ dập dềnh bên bờ. Và trong giây lát, anh cảm thấy một cảm giác thanh thản đang dần bao lấy mình, càng lúc càng sâu lắng và trọn vẹn hơn bất cứ thứ gì.

“Howbite thou speakst foolsimple ohcopan, eek invich array thouart. Essay thousooth Earisher?”

Cậu bé đang nói gì đó. Một giây sau, anh nghe thấy giọng nói lí nhí trong tai mình dịch ra thế này: “Cách anh nói chuyện thoải mái với bạn mình, và cái cách anh ăn mặc. Nói thật đi. Anh là người Ai Len, có phải không?”

Chris chậm rãi gật đầu, nghĩ lại. Rõ ràng là cậu bé đã nghe thấy anh nói chuyện với Marek lúc ở trên đường và đã kết luận rằng họ là người Ai Len. Chẳng hại gì nếu để cậu ta nghĩ thế hết.

“Aye,” anh ta nói

“Aie?” cậu bé lặp lại. Cậu ta từ tốn phát âm cái âm tiết ấy, kéo môi ra sau, nhe răng ra. “Aie?” Cái từ đó dường như rất lạ với cậu ta.

Chris nghĩ, Cậu ta không hiểu được “aye” à? Anh sẽ thử cấi khác xem. Anh nói, “Oui?”

“Oui… oui…” Cậu bé dường như cũng lúng túng trước cái từ này nữa. Rồi mặt cậu ta sáng bừng lên. “Ouirie? Seyngthou ourie?” và lời dịch là thế này, “Rách rưới á? Anh đang nói là rách rưới à?”

Chris lắc đầu. “Tôi muốn nói là ‘phải’.” Chuyện này càng lúc càng rắc rối hơn rồi.

“Yezzz?” cậu bé nói, phát âm như một tiếng suỵt.

“Yes,” Chris nói, gật đầu.

“Ah. Earisher.” Lời dịch là: “Ah. Người Ai Len.”

“Phải.”

“Wee sayen yeaso. Oriwis, thousay trew.”

Chris nói, “Thousay trew.” Cái tai nghe dịch lại lời nói của chính anh: “Cậu nói đúng rồi đấy.”

Cậu bé gật đầu, có vẻ hài lòng với câu trả lời. Họ ngồi yên lặng trong giây lát. Cậu ta nhìn Chris từ đầu đến chân. “Thế anh cũng là người thuộc dòng dõi quý tộc26 nhỉ.”

Lịch thiệp? Chris nhún vai. Dĩ nhiên là anh lịch thiệp rồi. Anh rõ ràng không phải một chiến binh mà. “Thousay trew.”

Cậu bé gật đầu với vẻ hiểu biết. “Tôi cũng nghĩ thế. Cách cư xử của anh thể hiện điều đó, dù trang phục có không hợp với phẩm bậc của anh.”

Chris chẳng đáp lại. Anh không hiểu cậu bé đó muốn nói gì.

“Anh tên gì nhỉ?” cậu bé hỏi anh.

“Christopher Hughes.”

“À. Christopher xứ Hewes,” cậu bé nói, phát âm từng tiếng một. Cậu ta dường như đánh giá cái tên ấy theo một cách nào đó Chris không hiểu. “Hewes ở đâu vậy? Ở vùng Ai Len à?”

“Thousay trew.”

Trong ánh nắng, một khoảng lặng nữa ập xuống giữa họ.

“Anh là hiệp sĩ à?” cuối cùng cậu bé cũng hỏi.

“Không.”

“Thế thì anh là thiếu hiệp27 rồi,” cậu bé nói, gật gật đầu với chính mình. “Thế là được.” Cậu bé quay về phía Chris. “Và tuổi thì thế nào nhỉ? Hai mốt à?”

“Gần đúng đấy. Hai tư.”

Thông tin này làm cậu bé hấp háy mắt mắt đầy ngờ vực. Chris nghĩ, Hai tư tuổi thì có gì kỳ vậy?

“Vậy, thiếu hiệp tốt bụng, tôi rất hân hạnh được ngài trợ giúp, được ngài cứu khỏi ngài Guy và đồng bọn.” Cậu bé chỉ về phía bên kia sông, nơi sáu kỵ sĩ đen đang đứng bên bờ nhìn họ. Chúng đang cho ngựa uống nước, nhưng mắt vẫn dán vào Chris và cậu bé.

“Nhưng tôi có cứu cậu đâu,” Chris nói. “Cậu cứu tôi mà.”

“Có cứu?” Lại một ánh nhìn đầy phân vân nữa.

Chris thở dài. Rõ ràng là những người này không dùng thể ngắn. Để diễn đạt ngay cả một ý nghĩ đơn giản nhất cũng thật khó; anh thấy cái nỗ lực ấy thật mệt mỏi. Nhưng anh vẫn cố lần nữa: “Tôi không có cứu cậu đâu, cậu cứu tôi đấy chứ.”

“Thiếu hiệp tốt bụng, ngài thật quá khiêm nhường,” cậu bé đáp lại. “Tôi nợ ngài cái mạng nhỏ bé của mình, và tôi sẽ rất hân hạnh được phục vụ ngài, khi chúng ta tới lâu đài.”

Chris nói, “Lâu đài?”

*

Một cách thật thận trọng, Kate và Marek đi ra khỏi khu rừng, hướng về phía tu viện. Họ không thấy bóng dáng của những tên kỵ sĩ vừa phi nước đại xuống con đường đâu hết. Khung cảnh thật hiền hòa; thẳng trước mặt là những lô đất làm nông trại của tu viện, được phân ranh giới bởi những bức tường đá. Ở góc một khu đất là một bức tượng đài sáu cạnh, được trang trí cầu kỳ như một đỉnh chóp nhọn của ngôi nhà thờ kiểu Gothic.

“Đó có phải là một cái montjoie không?” cô hỏi.

“Rất giỏi,” Marek nói. “Đúng đấy, nó là một cái cột mốc, hay còn gọi là cái mốc chỉ đường. Cô sẽ thấy nó suốt thôi.”

Họ đi xen giữa những lô đất, hướng về phía bức tường cao hơn ba mét bao lấy toàn tu viện. Những nông dân làm việc trên cánh đồng chẳng chú ý gì đến họ hết. Trên sông, một chiếc xà lan đang trôi xuôi dòng, hàng hóa được bọc kín bằng vải. Người lái thuyền đứng phía đuôi tàu vui vẻ hát vang.

Gần khu tường tu viện là một cụm lều của những người nông dân đang làm việc trên đồng. Vượt qua những túp lều, anh ta nhìn thấy một cánh cửa nhỏ gắn trên tường. Tu viện bao quát cả một khu rộng lớn đến nỗi nó có cửa hướng ra cả bốn phía. Đây không phải cửa chính, nhưng Marek nghĩ thử lối này trước sẽ tốt hơn.

Họ đang đi qua những túp lều thì anh ta nghe tiếng ngựa khụt khịt và tiếng thì thầm khe khẽ của một người trông ngựa. Marek dang tay ra, chặn Kate lại.

“Gì thế?” cô thì thầm.

Anh ta chỉ. Cách gần mười mét, đứng đằng sau những túp lều khuất khỏi tầm nhìn là năm con ngựa đang được một người chăn ngựa trông. Những con ngựa được trang điểm lộng lẫy, với yên cương phủ nhưng đỏ điểm bạc. Những dải vải đỏ đổ xuống hai bên sườn.

“Chúng không phải là ngựa nông,” Marek nói. Nhưng anh ta không thấy kỵ sĩ đâu hết.

“Chúng ta phải làm gì?” Kate nói.

*

Chris Hughes đang đi theo cậu bé về làng Castelgard thì cái tai nghe của anh đột nhiên kêu cạch một tiếng. Anh nghe thấy Kate nói, “Chúng ta phải làm gì?” và Marek trả lời, “Tôi không chắc lắm.”

Chris nói, “Đã tìm thấy Giáo sư chưa?”

Cậu bé quay người lại và nhìn vào anh. “Ngài vừa gọi tôi đấy à, thưa thiếu hiệp?”

“Không đâu, cậu bé,” Chris nói. “Tôi chỉ nói một mình thôi.”

“Chỉ một mình thôi?” cậu bé lặp lại, lắc đầu. “Cách nói chuyện của ngài khó hiểu quá.”

Qua cái tai nghe, Marek nói, “Chris. Cậu đang ở chỗ quái nào vậy?”

“Đang đi tới lâu đài,” Chris nói to. “Hôm nay trời đẹp thế này mà.” Anh vừa nói vừa ngẩng mặt lên nhìn trời, cố làm ra vẻ mình đang nói chuyện một mình.

Anh nghe thấy tiếng Marek nói, “Cậu đến đấy làm gì? Cậu vẫn đang đi cùng với cậu bé đó đấy à?”

“Phải, rất là đẹp.”

Cậu bé lại quay lại, nét mặt ánh lên vẻ lo lắng. “Ngài có đang nói chuyện với không khí không vậy? Đầu óc ngài vẫn tỉnh táo đấy chứ?”

“Vẫn,” Chris nóỉ. “Đầu óc tôi vẫn rất tỉnh táo. Tôi chỉ ước là giá như các bạn mình có thể cùng tôi tới lâu đài.”

“Tại sao?” Marek nói qua cái tai nghe.

“Tôi chắc chắn là họ sẽ gặp lại ngài khi đến đúng thời điểm thôi,” cậu bé nói. “Kể tôi nghe về những người bạn của ngài đi. Họ có phải cũng là người Ai Len không? Họ có thuộc dòng dõi quý tộc như ngài không, hay là người hầu?”

Qua cái tai nghe, Marek nói, “Sao cậu lại nói với cậu ta rằng cậu thuộc dòng dõi quỹ tộc?”

“Vì cái từ đó miêu tả về tôi mà.”

“Chris. ‘Lịch thiệp’ ở đây nghĩa là cậu thuộc dòng dõi quý tộc đấy,” Marek nói. “Quý ông lịch thiệp, quý bà lịch thiệp28. Nó có nghĩa là cậu thuộc dòng dõi quý tộc đấy. Cậu sẽ thu hút sự chú ý và sẽ bị hỏi những câu hỏi khó về gia đình mình, những câu hỏi cậu không trả lời được đâu.”

“Ôi,” Chris nói.

“Tôi chắc chắn là từ đó miêu tả ngài rất chính xác đấy,” cậu bé nói. “Và những người bạn của ngài nữa? Họ cũng là quý tộc à?”

“Cậu nói đúng đấy,” Chris nói. “Các bạn tôi cũng là quý tộc nữa.”

“Chris, khốn kiếp,” Marek nói qua cái tai nghe. “Đừng đùa với những cái cậu không hiểu. Cậu đang mời gọi rắc rối đấy. Và nếu cứ thế này, cậu sẽ phải hứng hết đấy.”

*

Đứng ở rìa dãy dài những túp lều dành cho nông dân, Marek nghe thấy tiếng Chris nói,” Cứ đi tìm Giáo sư đi nhé!” và rồi cậu bé hỏi Chris một câu hỏi khác, nhưng nó bị nhiễu nên không nghe được.

Marek quay người lại và nhìn về phía dòng sông dẫn tới Castelgard. Anh ta có thể nhìn thấy cậu bé, đang đi trước Chris một đoạn.

“Chris,” Marek nói. “Tôi thấy cậu rồi. Quay người lại và trở về đi! Về chỗ chúng tôi. Chúng ta phải đi cùng nhau.”

“Khó lắm.”

“Tại sao?” Marek nói, giọng đầy bực tức.

Chris không trả lời thẳng. “Thế những người đang trên lưng ngựa ở bờ bên kia là ai vậy?” Hiển nhiên là anh đang nói với cậu bé.

Marek chuyển góc nhìn, thấy mấy kỵ sĩ ở bên sông, đang vừa cho ngựa uống nước, vừa nhìn bọn Chris.

“Đó là ngài Guy de Malegant, thường được gọi là ‘Guy Đầu Đen’. Hắn ta phục vụ cho lãnh chúa Oliver chủ nhân của tôi. Guy khét tiếng khát máu và tàn bạo.”

Vừa nghe, Kate vừa nói, “Anh ta không thể quay về chỗ chúng ta, vì những tay hiệp sĩ cưỡi ngựa kia.”

“Cô nói đúng rồi đấy,” Chris nói.

Marek lắc đầu. “Cậu ta lẽ ra không nên bỏ chúng ta lại thế này ngay từ đầu.”

Tiếng kẹt cửa phía sau làm Marek quay đầu lại. Anh ta nhìn thấy bóng dáng quen thuộc của Giáo sư Edward Johnston đang đi qua cánh cửa phụ trên bức tường tu viện và bước ra ngoài nắng. Ông chỉ có một mình.