← Quay lại trang sách

33:12:51

Việc nghiên cứu thời Trung Cổ ở thế kỷ hai mươi có một điểm kỳ dị là hiện tại chẳng có bất cứ một bức tranh nào vẽ nội thất của một tòa lâu đài thế kỷ mười bốn hết. Chẳng một bức vẽ, chẳng một bản thảo có hình minh họa, hay một bản vẽ phác – chẳng có bất cứ cái gì từ thời đó hết. Những hình ảnh sớm nhất của đời sống thế kỷ mười bốn thực ra lại được thực hiện vào thế kỷ mười lăm, và phần nội thất – và đồ ăn, cùng trang phục nữa – họ phác họa sao cho giống với thế kỷ mười lăm, chứ không phải thế kỷ mười bốn nữa.

Kết quả là, chẳng một học giả hiện đại nào biết loại đồ đạc nào được sử dụng, tường được trang trí thế nào, hay người ta ăn mặc và cư xử thế nào. Sự thiếu thông tin này toàn diện đến mức khi các phòng của Vua Edward đệ nhất được khai quật ở tháp London, những bức tượng được dựng lại đã phải để mặc trơ vữa ra, vì chẳng ai có thể nói được là trên đó đã từng được trang trí những cái gì.

Đây cũng là lý do tại sao việc phục chế các công trình thế kỷ mười bốn của các họa sĩ lại thường có xu hướng để phần nội thất trống trải, những căn phòng trơ trọi và ít vật dụng – có thể là một cái ghế, hay một chiếc rương – nhưng chẳng nhiều nhặn gì thêm nữa. Sự thiếu hụt hình ảnh này bị đem ra làm bằng chứng cho sự giản tiện trong sinh hoạt của thời kỳ đó.

Tất cả những điều này lóe lên trong đầu Kate khi cô bước vào đại sảnh của Castelgard. Thứ cô sắp sửa nhìn thấy, chưa một nhà sử học nào được nhìn thấy hết. Cô tiến vào, theo Marek lách qua đám đông. Và cô nhìn trân trối, cứng cả người lại trước sự lộng lẫy và hỗn độn hiện ra trước mắt mình.

Đại sảnh lấp lánh như một món trang sức khổng lồ. Ánh nắng lọt qua những ô cửa sổ cao ngất đậu trên những bức tường với những tấm thảm thêu óng ánh sắc vàng, những hình ảnh phản chiếu cứ nhảy múa trên trần nhà được vẽ màu vàng xen đỏ. Một góc của căn phòng có treo một tấm vải khổng lồ trang trí họa tiết: hoa ly bạc trên xanh da trời đậm. Ở trên bức tường phía đối diện, một tấm thảm treo tường vẽ một trận chiến: những hiệp sĩ mặc chiến phục chỉnh tề, giáp trụ bạc sáng lóa, áo ngoài xanh da trời lẫn trắng, đỏ và vàng; cờ chiến phấp phới diềm vàng.

Ở cuối phòng là một lò sưởi lớn được chạm khắc tinh xảo, đủ lớn để một người có thể đi vào mà không cần khom cúi, mặt lò sưởi được mạ sáng lên lấp lánh. Phía trước lò sưởi là một màn liễu gai, cũng được mạ. Và trên mặt lò sưởi là một tấm thảm thêu hình thiên nga đang bay qua một cánh đồng hoa đăng ten vàng xen đỏ.

Căn phòng mang nét trang nhã, sống động và đẹp đẽ một cách rất tự nhiên – và có vẻ khá nữ tính trước con mắt hiện đại. Vẻ đẹp và sự tao nhã của nó trái ngược rõ rệt vối cách cư xử của những người trong phòng – thô lỗ, ầm ĩ, ồn ào.

Trước mặt lò sưởi đặt một chiếc bàn cao, được phủ vải lanh, với những chiếc đĩa vàng, tất cả đều được chất đầy thức ăn. Những con chó nhỏ chạy tung tăng quanh bàn, thỏa thích ăn, cho tới khi một người đàn ông ở giữa bàn quát chúng đi.

Lãnh chúa Oliver de Vannes khoảng ba mươi tuổi, cặp mắt nhỏ trên khuôn mặt ụ thịt, đầy vẻ phóng đãng. Miệng hắn luôn được kéo trề xuống thành một cái cười mỉa; hắn có vẻ thích mím chặt môi, vì bị thiếu mất vài cái răng. Quần áo hắn cũng diêm dúa chẳng kém gì căn phòng: áo choàng xanh da trời và vàng, với cổ áo vàng cao ngất, và một cái mũ lông. Vòng đeo cổ của hắn gồm có những viên đá màu xanh da trời mà mỗi viên phải to bằng cả một quả trứng chim cổ đỏ. Hắn đeo nhẫn trên vài ngón tay, những viên đá quý hình ô van to tướng nạm vàng nặng trịch. Hắn chọc con dao vào chỗ thức ăn và nhồm nhoàm vừa ăn vừa càu nhàu với những người kia.

Nhưng dù ăn mặc lịch thiệp, hắn vẫn cho người ta cảm giác về một kẻ nóng nảy đầy nguy hiểm – đôi mắt đỏ hoe cứ đảo khắp phòng cả khi đang ăn, cảnh giác với mọi lời phỉ báng và tìm cớ để chửi bới. Hắn ra tay nhanh và sắc bén; khi một trong những con chó nhỏ chạy lại ăn lần nữa, Oliver chẳng ngại ngần gì liền lấy đầu mũi đao đâm thẳng vào mông nó; con vật nhảy chồm lên, máu me be bét, vừa sủa vừa chạy khỏi phòng.

Lãnh chúa Oliver cười, lau sạch máu con chó khỏi đầu lưỡi dao, và lại tiếp tục ăn.

Những người đàn ông ngồi cùng bàn cũng hùa vào trò đùa này. Nhìn qua, họ đều là lính, khoảng cùng độ tuổi với Oliver, và tất cả đều ăn mặc rất lịch thiệp – dù chẳng ai bì được với người lãnh đạo của họ. Và ba hay bốn phụ nữ, trẻ, đẹp và tục tĩu, váy chật ních và tóc xõa lẳng lơ, vừa cười khúc khích vừa đưa tay dò dẫm dưới gầm bàn, hoàn chỉnh cái hoạt cảnh ấy.

Kate trân trối nhìn, và một từ cứ thế xuất hiện trong tâm trí cô: chiến chủ. Đây là một chiến chủ thời Trung Cổ, ngồi với đám lính và các ả điếm trong tòa lâu đài hắn ta đã chiếm được.

Một cây gậy gỗ đập xuống nền nhà, và một người đưa tin thét lên, “Thưa ngài! Học giả Edward de Johnes!” Quay người lại, cô thấy Johnston đang lách qua đám đông, hướng về cái bàn phía trước.

Lãnh chúa Oliver ngước nhìn lên, lau nước thịt dính trên cằm bằng mu bàn tay. “Hân hạnh được gặp ngài, Học giả Edwardus. Dù tôi không biết ngài là một học giả hay một nhà làm phép.”

“Lãnh chúa Oliver,” Giáo sư nói, bằng tiếng Occitan. Ông khẽ gật đầu.

“Ngài Học giả, sao phải cứng nhắc vậy,” Oliver nói, trề môi vờ như trách móc. “Ngài đã thực sự làm tôi bị tổn thương rồi đấy. Tôi đã làm gì để phải chịu sự lạnh nhạt này chứ? Ngài bất mãn vì tôi đã bắt ngài đi khỏi tu viện à? Ngài sẽ ăn ngon không kém ở đây, tôi đảm bảo với ngài. Ngon hơn đấy. Gì thì gì, ngài tu viện trưởng cũng chẳng cần tới ngài đâu – còn tôi thì cần đấy.”

Johnston đứng thẳng người, không nói gì hết.

“Ngài không có gì để nói sao?” Oliver nói, liếc nhìn Johnston. Mặt hắn tối lại. “Rồi sẽ khác đấy,” hắn gầm gừ.

Johnston vẫn không hề cử động, cứ đứng yên lặng.

Thời khắc cứ trôi. Oliver dường như đã bình tĩnh lại. Hắn ta cười nhạt. “Nhưng thôi nào, thôi nào, đừng để chúng ta phải tranh cãi không đâu thế. Với tất cả thành ý và sự tôn trọng của mình, tôi thực sự muốn cậy nhờ cao kiến của ngài,” Oliver nói. “Ngài rất thông thái, và tôi rất cần sự thông tuệ ấy – như những con người thông minh này hay nói với tôi vậy.” Những giọng cười hềch hệch phát ra từ phía cái bàn. “Và tôi được nghe nói là ngài có thể nhìn thấy trước tương lai.”

“Chẳng người nào có thể làm dược thế hết,” Johnston nói.

“Ô thế à? Tôi nghĩ là ngài có thể làm được thế đấy, thưa ngài Học giả. Và tôi mong ngài có thể nhìn được tương lai của chính mình. Tôi không muốn một người nổi trội như ngài lại phải chịu đau đớn đâu. Ngài biết người có cùng tên với ngài, vị vua mới đây của chúng tôi, Edward Kẻ Ngu Dại đã có kết cục thế nào rồi chứ hả? Nhìn mặt ngài là tôi biết ngài biết mà. Nhưng ngài lại không phải một trong số những người có mặt ở cung điện lúc đó. Và tôi lại là người có mặt.” Hắn ta mỉm cười dữ tợn và ngồi lại lên ghế. “Chẳng có vết tích nào trên người ông ta hết.”

Johnston chậm rãi gật đầu. “Người ta có thể nghe thấy tiếng thét của ông ấy từ cách hàng dặm đấy.”

Kate nhìn Marek đầy băn khoăn, anh ta thì thầm, “Họ đang nói về Edward đệ nhị của nước Anh. Ông ta bị bỏ tù và bị đem ra giết. Những kẻ bắt giữ ông ta chẳng muốn để lại dấu hiệu gian trá nào hết, thế là họ đã chọc một cái ống thẳng lên trực tràng của ông ta và cho một thanh cời nóng rẫy vào ruột cho tới khi ông ta chết.”

Kate rùng mình.

“Ông ta cũng đồng tính nữa,” Marek thì thầm, “thế nên người ta nói là kiểu hành quyết đó cũng hóm lắm.”

“Sự thật đúng là tiếng hét của ông ta, cách xa cả dặm cũng nghe thấy,” Oliver nói. “Thế nên hãy nghĩ kỹ đi. Ngài biết rất nhiều chuyện; và tôi cũng muốn biết những chuyện đó nữa. Ngài sẽ là cố vấn của tôi; hoặc sẽ không ở cái thế giới này lâu nữa đâu.”

Lãnh chúa Oliver đang nói thì một hiệp sĩ đứng khỏi bàn và tới thì thầm bên tai hắn ta cắt ngang. Hiệp sĩ này mặc trang phục màu nâu đỏ và xám rất đẹp đẽ, nhưng gã có cái dáng vẻ dạn dày, cứng cỏi của một người lính lão luyện. Một vết sẹo sâu, gần như là một đường khắc hằn, chạy dọc khuôn mặt gã từ trán xuống cằm và mất hút vào dưới cổ áo cao. Oliver lắng nghe, rồi nói với gã, “Ồ! Ngươi nghĩ vậy à, Robert?”

Nghe thế, tay hiệp sĩ có sẹo lại thì thầm lần nữa, không một lần rời mắt khỏi Giáo sư. Lãnh chúa Oliver cũng vừa nhìn Giáo sư vừa nghe. “Được, chứng ta sẽ xem xem,” lãnh chúa Oliver nói.

Tay hiệp sĩ đô con thì thầm thêm vào và Oliver gật đầu.

*

Đứng trong đám đông, Marek quay sang người hầu bên cạnh anh ta và nói bằng tiếng Occitan, “Xin cho biết, người nào đang được ngài Oliver lắng nghe chăm chú thế kia?”

“Sự thật là, bạn tôi ơi, đó là ngài Robert de Kere.”

“De Kere?” Marek nói. “Tôi không biết ngài ấy.”

“Ngài ấy là thành viên mới trong đoàn tùy tùng, vẫn chưa phục vụ được đến một năm, nhưng đã rất được ngài Oliver trọng dụng.”

“Thế sao? Sao lại thế?”

Người đàn ông nhún vai vẻ mệt mỏi, như thể muốn nói, Ai biết được chuyện gì xảy ra nơi bàn cao kia? Nhưng anh ta vẫn trả lời, “Ngài Robert có tài chiến thuật, và ngài ấy là một cố vấn tin cậy của lãnh chúa Oliver về các vấn đề chiến lược.” Người đàn ông hạ giọng. “Nhưng tôi nghĩ chắc chắn là ngài ấy không thích thú gì với việc có thêm một cố vấn nữa đâu; nhất là khi một người quá xuất chúng đến thế xuất hiện trước mặt mình.”

“À,” Marek nói, gật đầu. “Tôi hiểu.”

Hiệp sĩ Robert rõ là đang cố ép chuyện này, gã thì thầm giục giã, cho tới khi cuối cùng Oliver cũng phẩy tay một cái, như thể đuổi muỗi. Ngay lập tức, gã hiệp sĩ vội cúi đầu và lùi lại, đứng về phía sau lãnh chúa Oliver.

Oliver nói, “Ngài Học giả.”

“Thưa ngài.”

“Tôi được thông báo là ngài biết phương thức sử dụng Lửa Hy Lạp.”

Đứng trong đám đông, Marek khịt khịt mũi. Anh ta thì thầm với Kate, “Chẳng ai biết cái đó hết.” Và chẳng ai biết thật. Lửa Hy Lạp là một câu đố lịch sử nổi tiếng, một vũ khí lửa có sức công phá khủng khiếp có từ thế kỷ thứ sáu, bản chất thực sự của nó đến giờ này vẫn là một đề tài nóng hổi của các nhà sử học. Chẳng ai biết đích xác Lửa Hy Lạp là thứ gì, hay nó được chế tạo thế nào.

“Phải.” Johnston nói. “Tôi biết phương thức chế tạo nó.”

Marek trân trối nhìn. Gì thế này? Rõ ràng là Giáo sư đã nhận ra mình có địch thủ, nhưng đây là một trò chơi rất nguy hiểm. Ông ấy chắc chắn sẽ bị yêu cầu chứng minh điều đó.

“Tự ngài có thể chế tạo được Lửa Hy Lạp sao?” Oliver nói.

“Thưa ngài, tôi có thể.”

“À.” Oliver quay người lại và bắn một cái liếc về phía Robert. Dường như tay cố vấn tin cậy đã đưa một chỉ dẫn sai lầm. Oliver quay lại phía Giáo sư.

“Sẽ không khó lắm,” Giáo sư nói, “nếu tôi có trợ lý.”

Ra là thế, Marek nghĩ. Giáo sư hứa hẹn như vậy là để giúp tất cả mọi người có thể được ở gần nhau.

“Hả? Trợ lý? Ngài có trợ lý à?”

“Tôi có, thưa ngài, và…”

“Ồ, dĩ nhiên là họ có thể trợ giúp cho ngài rồi, Học giả. Và nếu họ không làm được, chúng tôi sẽ cung ứng cho ngài tất cả những gì ngài cần. Không cần bận tâm gì đến chuyện đó. Nhưng thế còn Lửa Sương – lửa của Nathos thì sao? Ngài cũng biết về nó chứ?”

“Tôi có biết, thưa ngài.”

“Và liệu ngài có thể minh chứng điều đó cho tôi thấy chứ?”

“Bất cứ khi nào ngài muốn, thưa ngài.”‘

“Rất tốt, ngài Học giả. Rất tốt.” Lãnh chúa Oliver ngừng lại, chăm chú nhìn vào Giáo sư. “Và ngài cũng biết bí mật tôi muốn biết hơn tất cả những điều khác chứ?”

“Thưa ngài Oliver, bí mật đó thì tôi không hề biết đâu.”

“Ngươi biết! Và ngươi sẽ phải trả lời ta!” Hắn ta thét lên, đập mạnh cái cốc xuống. Mặt hắn đỏ bừng, những đường gân nổi hằn trên trán; giọng nói vang vọng khắp cả căn phòng đã đột ngột lặng như tờ từ nãy tới giờ. “Ta phải có câu trả lời của ngươi ngay ngày hôm nay!” Một trong số những con chó ở chỗ cái bàn rúm người lại; lấy mu bàn tay, hắn ta đập vào nó, quăng nó kêu ăng ẳng văng xuống nền nhà. Khi cô gái bên cạnh hắn bắt đầu cự nự, hắn chửi ầm lên và tát mạnh vào mặt cô ta, cú đánh làm cô ta ngã ra sau, đổ cả cái ghế. Cô gái chẳng ho he gì, cũng chẳng động đậy. Cô ta cứ nằm yên bất động, chân giơ lên trời.

“Ôi! Tức quá đi! Tức chết thôi!” Lãnh chúa Oliver đứng lên gầm gừ. Hắn ta nhìn quanh đầy giận dữ, tay đặt lên thanh kiếm, mắt đảo quanh phòng lớn, như thể đang cố tìm kẻ phạm tội nào đó.

Tất cả những người trong sảnh đều im lặng, không dám cử động, cứ nhìn chằm chằm xuống chân. Như thể căn phòng đã đột ngột trở thành một bức tranh tĩnh vật, chỉ có Oliver là cử động. Hắn ta thở hổn hển đầy giận dữ, cuối cùng cũng lôi thanh gươm ra, chém xuống mặt bàn. Đĩa cùng chén bật tung lên và va lách cách vào nhau, lưỡi kiếm ngập trong gỗ.

Oliver trừng trừng nhìn Giáo sư, nhưng hắn dần tự kiểm soát được bản thân, cơn giận đã dần tắt. “Học giả, ông sẽ làm theo những gì ta nói!” hắn ta gào lên. Rồi hắn hất hàm với đám lính gác. “Đưa ông ta đi, và cho ông ta thứ để nghiền ngẫm.”

Đám lính canh lôi Giáo sư xềnh xệch đi qua đám đông. Kate với Marek bước lùi ra khi ông đi qua, nhưng Giáo sư không nhìn thấy họ.

Lãnh chúa Oliver liếc nhìn căn phòng giờ vẫn lặng phắc. “Ngồi xuống và vui vẻ đi,” hắn ta gầm gừ, “trước khi ta nổi điên!”

Ngay lập tức, các nhạc công vội vã chơi đàn, và những tiếng ồn ã của đám đông lại tràn ngập căn phòng.

*

Chẳng mấy chốc, Robert de Kere đã chạy vội ra ngoài, đi theo sau Giáo sư. Marek nghĩ việc đó chẳng tốt đẹp gì. Anh ta huých nhẹ Kate, ra hiệu rằng họ nên bám theo Kere. Họ đang tiến dần ra cửa thì cây gậy của người đưa tin đập xuống nền nhà.

“Thưa ngài! Phu nhân Claire xứ Eltham và ngài Christopher xứ Hewes.”

Họ dừng lại, “Chết tiệt,” Marek nói.

Một phụ nữ trẻ đẹp tiến vào phòng, Chris Hughes đi bên cạnh. Chris giờ đang mặc một bộ trang phục đẹp đẽ và nhã nhặn. Anh trông rất nổi bật – và rất lúng túng.

Đứng cạnh Kate, Marek chạm nhẹ lên tai và thì thầm, “Chris. Còn ở trong cái phòng này thì cậu đừng nói gì hết, và đừng làm gì hết. Cậu có hiểu không?”

Chris khẽ gật đầu.

“Cứ làm như cậu chẳng hiểu gì hết ấy. Chẳng khó lắm đâu.”

Chris và người phụ nữ đi qua đám đông rồi tiến thẳng về phía cái bàn cao, lãnh chúa Oliver nhìn cô tiến tới vẻ khó chịu lộ rõ. Người phụ nữ thấy thế bèn cúi đầu xuống, và cứ đứng đó, chỗ gần nền nhà, đầu cúi xuống với vẻ phục tùng.

“Lại đây, lại đây,” Oliver cau có nói, vẫy vẫy một cái dùi trống. “Cái vẻ khúm núm này chẳng hợp với cô chút nào.”

“Vâng thưa ngài.” Cô đứng dậy.

Oliver khịt mũi. “Và hôm nay cô lôi thứ gì đến đây vậy? Một người tình mới à?”

“Nếu ngài cho phép, tôi muốn để Christopher xứ Hewes, thiếu hiệp xứ Ai Len được diện kiến, anh ấy đã giúp tôi thoát khỏi tay kẻ xấu xa hôm nay đã muốn bắt cóc tôi, hay thậm chí còn tệ hơn nữa kia.”

“Hử? Kẻ xấu xa? Bắt cóc?” Với vẻ thích thú, lãnh chúa Oliver nhìn về phía những hiệp sĩ của hắn. “Ngài Guy? Ngài nói sao?”

Một người đàn ông da ngăm đen đứng dậy với vẻ tức giận. Ngài Guy de Malegant mặc đồ đen từ đầu đến chận – giáp lưới màu đen và áo choàng màu đen, với hình đại bàng đen thêu trên ngực, “Thưa ngài, tôi sợ rằng phu nhân đây đang muốn lấy chúng ta ra làm trò cười. Cô ấy biết rõ là tôi đã cử người ra để cứu cô ấy, thấy cô ấy một mình và đang gặp chuyện.” Guy đi về phía Chris và nhìn chằm chằm vào anh. “Người này, thưa ngài, mới là kẻ đặt cô ấy vào tình cảnh hiểm nguy đến tính mạng. Tôi không thể nghĩ nổi là cô ấy giờ lại bảo vệ cho hắn ta, trừ khi việc đó là một cách để cô ấy thể hiện trí tuệ bất thường của mình.”

“Hử?” Oliver nói. “Trí tuệ? Phu nhân Claire của tôi, trí tuệ gì ở đây vậy?”

Người phụ nữ nhún vai. “Chỉ có kẻ không có trí tuệ, thưa ngài, mới thấy trí tuệ ở nơi chẳng có gì là trí tuệ.”

Tên hiệp sĩ đen khịt mũi. “Vụng chèo khéo chống.” Malegant đi đến chỗ Chris, cho tới khi hai người mặt chạm mặt, chỉ cách nhau có vài phân. Hắn ta cứ vừa nhìn chằm chằm vừa cố ý cởi đôi găng tay giáp lưới ra một cách thật chậm chạp. “Thiếu hiệp Christopher, có phải đó là tên của anh không?”

Chris chẳng nói gì, chỉ gật đầu.

*

Chris đang cực kỳ hoảng sợ. Bị mắc kẹt trong một tình cảnh anh chẳng hiểu gì hết, đứng giữa một căn phòng đầy những chiến binh khát máu, chẳng hơn gì một đám du côn đầu đường xó chợ, và đối mặt với người đàn ông đen kịt đầy giận dữ với hơi thở hôi hám những tỏi và rượu này – tất cả những gì anh có thể làm là giữ chân mình không run lên bần bật.

Qua cái tai nghe, anh nghe thấy tiếng Marek nói, “Đừng nói gì – dù chuyện gì xảy ra đi nữa.”

Hiệp sĩ Guy liếc xéo anh. “Tôi muốn hỏi anh một câu, thiếu hiệp. Anh bằng lòng trả lời chứ?” Hắn ta vẫn đang cởi găng tay, và Chris chắc chắn rằng hắn sẽ lấy cái tay trần kia đấm anh.

Marek nói, “Đừng nói gì hết.”

Chris quá hạnh phúc được làm theo lời khuyên ấy chứ. Anh hít một hơi thật sâu, cố kiểm soát bản thân. Chân anh run đến oặt cả ra. Anh nghĩ rằng mình sẽ đổ sụp trước mặt gã đàn ông này mất. Anh cố hết sức để bình tĩnh lại. Lại một lần hít thở sâu nữa.

Hiệp sĩ Guy quay về phía người phụ nữ. “Thưa cô, thiếu hiệp cứu mạng cô có biết nói không? Hay anh ta chỉ có thở dài thôi?”

“Nếu ngài muốn nghe, thưa ngài, anh ta có gốc ngoại quốc, và thường thì không hiểu những gì chúng ta nói đâu.”

“Dic mihi nomen tuum, scutari.” Nói tôi biết tên của anh đi, thiếu hiệp.

“Tiếng Latin cũng không đâu, ngài Guy.”

Malegant trông vẻ khó chịu. “Commodisssime. Tiện thật đấy, tên thiếu hiệp câm này, vì chúng ta không thể hỏi hắn ta đến đây bằng cách nào, và với mục đích gì. Tên thiếu hiệp người Ai Len này đang tha hương. Nhưng hắn ta cũng chẳng phải một người hành hương. Hắn ta cũng chẳng trong quân ngũ. Hắn là cái quái gì vậy? Sao hắn lại ở đây? Nhìn hắn run rẩy kia. Hắn sợ cái gì chứ? Chúng ta, lãnh chúa của ta, chẳng làm gì – trừ khi hắn là tôi tớ của Arnaut, đến để do thám địa thế của chúng ta. Việc này có thể là lý do làm hắn câm như hến thế. Một tên nhát cáy chẳng dám nói năng.”

Marek thì thầm, “Đừng phản ứng gì hết…”

Malegant chọc mạnh vào ngực Chris. “Thế, thiếu hiệp nhát cáy này. Ta coi ngươi là một tên gián điệp và một thằng khốn, không đủ đàn ông để thừa nhận mục đích thật sự của mình. Ta có lẽ đã khinh bỉ ngươi, nhưng ngươi cũng chẳng đến mức được khinh bỉ nữa.”

Tên hiệp sĩ cuối cùng cũng tháo xong găng tay, và lắc đầu một cái đầy khinh khi, hắn thả nó xuống sàn nhà. Chiếc găng tay giáp lưới rơi đánh cạch một cái xuống chân Chris. Hiệp sĩ Guy ngạo mạn quay người đi và tiến lại về phía bàn.

Mọi người trong phòng đều nhìn chằm chằm về phía Chris.

Bên cạnh anh, Claire thì thầm, “Cái găng tay…”

Anh liếc nhìn lại cô.

“Cái găng tay!”

Cái găng tay thì sao chứ? Anh băn khoăn, cúi người xuống và nhặt nó lên. Nó rất nặng. Anh đưa cái găng tay cho Claire, nhưng cô đã quay người đi và nói, “Hiệp sĩ, thiếu hiệp đã chấp nhận lời thách đấu của anh rồi.”

Chris nghĩ, thách đấu gì?

Hiệp sĩ Guy nói ngay lập tức, “Ba mũi thương không bọc đầu, đánh đến cùng.”

Marek nói, “Cậu ngốc tội nghiệp. Cậu có biết mình vừa làm cái gì không?”

*

Hiệp sĩ Guy quay về phía lãnh chúa Oliver đang ngồi chỗ bàn cao. “Thưa ngài, tôi mong ngài sẽ để ngày thì đấu được mở màn bằng cuộc thách đấu giữa hai chúng tôi.”

“Cứ thế đi,” Oliver nói.

Ngài Daniel len qua đám đông và cúi đầu. “Thưa ngài Oliver, cháu gái tôi đã để trò đùa này đi quá xa rồi; kết quả chẳng ra gì hết. Con bé có thể thấy thích thú khi nhìn ngài Guy, một hiệp sĩ cổ tên tuổi, tức giận đến mức gây hấn với một thiếu hiệp tầm thường, và bị mất danh dự vì việc đó. Và chẳng hay gì nếu ngài Guy đây lại bị trò đùa của nó làm hư hại thanh danh.”

“Thật thế không?” Lãnh chúa Oliver nói, nhìn về phía tên hiệp sĩ đen.

Hiệp sĩ Guy Malegant nhổ xuống nền nhà. “Một thiếu hiệp? Tin tôi đi, tên này chẳng phải thiếu hiệp gì đâu. Đây là một hiệp sĩ đang lẩn trốn, một tên khốn, và một tên gián điệp. Trò lừa lọc của hắn sẽ được lĩnh hậu quả xứng đáng. Tôi sẽ thì đấu với hắn ngay hôm nay.”

Ngài Daniel nói, “Xin được mạn phép ngài, tôi nghĩ thế không đúng. Thực sự đây chỉ là một thiếu hiệp đơn thuần mà thôi, anh chỉ được huấn luyện chút ít về chiến đấu, và chẳng là gì trước một hiệp sĩ đáng ngưỡng mộ như ngài.”

Chris vẫn đang cố hiểu xem chuyện gì đang diễn ra thì Marek tiến về phía trước, nói một cách trôi chảy bằng một thứ tiếng xa lạ mà vừa nghe có vẻ giống tiếng Pháp vừa không hẳn thế. Anh đoán đó là tiếng Occitan. Chris nghe thấy lời dịch qua cái tai nghe là thế này.

“Thưa ngài,” Marek nói, cúi người một cách rất chỉn chu, “vị quý tộc đáng kính này đã nói sự thật. Thiếu hiệp Christopher là bạn đồng hành của tôi, nhưng anh ấy không phải là một chiến binh. Để công bằng, tôi mong ngài cho phép Christopher được gọi một người hỗ trợ thay thế, để đối mặt với lời thách đấu này.”

“Hả? Người hỗ trợ? Người hỗ trợ nào? Ta không biết ngươi.”

Chris thấy rằng Claire đang nhìn Marek với sự thích thú không chút giấu giếm. Anh ta liếc vội lại trước khi nói tiếp với Oliver.

“Thưa ngài, tôi là hiệp sĩ André de Marek, xuất thân từ Hainaut. Tôi xin tự tiến cử mình làm người hỗ trợ của anh ta, và như ý Chúa tôi sẽ rất hân hạnh được làm đối thủ cân sức của hiệp sĩ đáng ngưỡng mộ đây.”

Lãnh chúa Oliver gãi cằm nghĩ ngợi.

Thấy hắn ta còn lưỡng lự, ngài Daniel tiến về trước. “Thưa ngài, khởi đầu giải đấu với một trận chiến không cân sức chẳng giúp tạo khí thế cho ngày vui đâu, và cũng chẳng làm nó đáng nhớ trong tâm trí mọi người được. Tôi nghĩ ngài Marek đây sẽ cho chúng ta một trận đấu hay hơn.”

Lãnh chúa Oliver quay lại phía Marek để xem anh ta sẽ nói gì trước chuyện đó.

“Thưa ngài,” Marek nói, “nếu bạn tôi Christopher là một tên gián điệp, thì tôi cũng sẽ là thế. Bằng việc xúc phạm danh dự của anh ấy, ngài Guy đây cũng xúc phạm danh dự của chính tôi nữa, và tôi rất mong có cơ hội được bảo vệ danh dự của chính mình.”

Lãnh chúa Oliver dường như rất thích thú trước tình huống mới này. “Ngài nói gì đây, Guy?”

“Sự thật là,” tên hiệp sĩ đen nói, “tôi tin rằng hiệp sĩ Marek đây xứng đáng làm người thế thân, nếu võ nghệ của anh ta cũng mượt như miệng lưỡi của anh ta. Nhưng là người thế thân, thích hợp nhất là anh ta đấu với người thế thân của tôi, hiệp sĩ Charles de Gaune.”

Một người đàn ông cao lớn đứng lên ở phía cuối bàn. Hắn ta có khuôn mặt trắng bệch, cái mũi tẹt và mắt đỏ rực; trông giống như một con bò mộng. Giọng hắn đầy khinh khi, “Tôi rất hân hạnh được làm người thế thân.”

Marek cố lần cuối cùng. “Vậy,” anh ta nói, “có vẻ ngài Guy đây sợ không dám đối mặt với tôi ngay từ đầu.”

Nghe thế, phu nhân Claire lộ liễu mỉm cười với Marek. Cô rõ ràng là rất thích anh ta. Và việc này có vẻ đã làm hiệp sĩ Guy tức tối.

“Ta chẳng sợ ai hết,” Guy nói, “nói gì đến một tên xứ Hainaut. Nếu anh có thể qua được người thế thân của ta – điều ta rất lấy làm ngờ vực – ta sẽ rất sẵn lòng đánh với anh sau đấy, và cho sự ngạo mạn của anh được biết điểm dừng.”

“Thế đi,” lãnh chúa Oliver nói, quay người đi. Giọng hắn ta ngụ ý rằng cuộc trò chuyện đến đây là kết thúc.