29:10:24
“Tôi có thể mời anh uống Coca, Coca không đường, Fanta hoặc Sprite,” Gordon nói. Họ đang đứng cạnh một chiếc máy bán hàng tự động ở hành lang phòng thí nghiệm của ITC.
“Tôi uống Coca,” Stern nói.
Chiếc lon rơi ra phía dưới cái máy. Stern cầm nó lên, bật nắp. Gordon lấy một chai Sprite. “Có đủ nước giữa sa mạc là quan trọng lắm đấy,” anh nói. “Chúng tôi cũng có máy làm ẩm trong nhà, nhưng chúng hoạt động không tốt lắm.”
Họ tiếp tục đi dọc hành lang để tới cánh cửa tiếp theo.
“Tôi nghĩ là anh sẽ muốn xem cái này,” Gordon nói, đưa Stern vào một phòng thí nghiệm khác. “Dù chỉ là hứng thú lịch sử đơn thuần. Đây là phòng thí nghiệm nơi lần đầu tiên chúng tôi cho thử công nghệ này.” Anh bật đèn lên.
Phòng thí nghiệm rộng và khá bừa bộn. Sàn được lát gạch chống nhiễu từ màu xám; trần nhà phía trên hở, để lộ đèn chắn và ngăn kim loại giữ những sợi cáp dày cộp đang chạy dọc xuống dưới như những sợi dây rốn tới những cỗ máy tính trên bàn. Trên một chiếc bàn, có hai thiết bị trông như hai chiếc lồng nhỏ, mỗi cái cao khoảng ba mươi xăng ti mét. Chúng được đặt cách nhau hơn một mét, và được nối với nhau bằng dây cáp.
“Đây là Alice,” Gordon nói một cách đầy tự hào, chỉ vào cái lồng thứ nhất. “Và đây là Bob.”
Stern nhận ra quy ước đã tồn tại từ trước đó, các hệ thống truyền dẫn lượng tử được dán nhãn “Alice” và “Bob”, hoặc “A” và “B”. Anh ta nhìn vào những chiếc lồng nhỏ. Một chiếc nhốt một con búp bê trẻ con bằng nhựa, một cô bé mặc váy bông kẻ kiểu dân khai hoang.
“Lần chuyển dịch đầu tiên được diễn ra ngay ở đây,” Gordon nói. “Chúng tôi đã thành công với việc dịch chuyển con búp bê đó qua mấy cái lồng. Cách đây bốn năm rồi.”
Stern nhấc con búp bê đó lên. Nó chỉ là một hình nộm rẻ tiền; anh ta thấy những sợi nhựa chạy dọc một bên mặt và người. Mắt nó hấp háy nhắm mở khi anh ta đặt nó vào lòng bàn tay.
“Anh thấy chứ,” Gordon nói, “mục tiêu ban đầu của chúng tôi là làm hoàn hảo việc chuyển dịch những vật thể ba chiều. Fax những vật thể ba chiều. Anh chắc cũng biết là đã có rất nhiều người quan tâm đến chuyện đó rồi.”
Stern gật đầu; anh ta đã nghe về các công trình nghiên cứu này rồi.
“Stanford có công trình nghiên cứu sớm nhất,” Gordon nói. “Và ở thung lũng Silicon cũng có nhiều lắm. Ý tưởng là trong vòng hai mươi năm vừa qua, tất cả các công đoạn truyền dẫn tài liệu đều được điện tử hóa hết – fax hay thư điện tử cũng vậy. Anh chẳng cần phải gửi thư giấy gì nữa; anh chỉ cần gửi những tín hiệu điện tử. Rất nhiều người nghĩ rằng không sớm thì muộn, tất cả các vật thể rồi sẽ được chuyển dịch theo cách ấy. Ví dụ, anh sẽ không phải chuyển đồ đạc, anh chỉ cần truyền nó qua các trạm. Kiểu kiểu như thế.”
“Nếu các anh có thể làm được thế,” Stern nói.
“Có. Và miễn là làm việc với những vật thể đơn giản, thì chúng tôi có thể. Điều đó làm chúng tôi phấn chấn. Nhưng dĩ nhiên, chuyển giữa hai trạm nối với nhau bằng cáp là chưa đủ. Chúng ta cần phải chuyển phát được ở một khoảng cách thật xa, qua sóng không khí, cứ gọi tạm nó là thế nhé. Và chúng tôi đã thử. Đây này.”
Anh đi sâu vào phòng, tới chỗ hai chiếc lồng khác, có vẻ lớn và công phu hơn. Chúng đã bắt đầu giống những chiếc lồng Stern thấy trong hang. Giữa những chiếc lồng này không hề có dây cáp nối.
“Alice và Bob, phần hai,” Gordon nói. “Hay như chúng tôi vẫn gọi, Allie và Bobbie. Đây là trạm thử nghiệm cho chuyển dịch khoảng cách của chúng tôi.”
“Và?”
“Nó không hoạt động,” Gordon nói. “Chúng tôi truyền Allie nhưng nó chẳng đến được chỗ Bob. Chẳng bao giờ đến được.”
Stern chậm rãi gật đầu. “Vì vật thể từ chỗ Allie đã đến một vũ trụ khác.”
“Đúng thế. Dĩ nhiên là thế, khi ấy chúng tôi đã không biết chuyện đó,” Gordon nói. “Tôi muốn nói là, giải thích theo lý thuyết thì là thế, nhưng ai ngờ được là nó thực sự diễn ra như thế chứ? Mất hàng đống thời gian chúng tôi mới nhận ra được điều đó đấy. Cuối cùng thì, chúng tôi đã cho dựng một cỗ máy khứ hồi – một cỗ máy có thể dời đi và tự động trở lại. Nhóm đã gọi nó là ‘Allie-Allie-vào-ra-tự do-đi’. Nó ở đằng kia kìa.”
Một chiếc lồng nữa, còn lớn hơn, có lẽ cao gần một mét, và có những điểm tương đồng đáng kể với những chiếc lồng đang được sử dụng hiện tại. Ba thanh chắn giống hệt, sắp xếp laser giống hệt.
“Và?” Stern nói.
“Chúng tôi đã xác thực được rằng vật thể đã dời đi và quay trở lại được,” Gordon nói. “Thế là chúng tôi chuyển đi những vật thể phức tạp hơn. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã thành công với việc gửi camera, và lấy lại được một bức ảnh.”
“Thế à?”
“Đó là bức ảnh sa mạc. Thật ra chính là nơi này. Nhưng khi chưa có bất cứ tòa nhà nào được dựng ở đây cơ.”
Stern gật đầu. “Thế các anh xác định được niên đại của nó chứ?”
“Không phải ngay lập tức,” Gordon nói. “Chúng tôi cứ tiếp tục gửi camera đi, lặp đi lặp lại, nhưng tất cả những gì chúng tôi thu được chỉ là sa mạc. Thỉnh thoảng có mưa, thỉnh thoảng có tuyết, nhưng luôn là sa mạc. Rõ ràng là chúng tôi đã có được ảnh ở các thời điểm khác nhau – nhưng thời điểm nào chứ? Xác định niên đại của ảnh khá là hóc đấy. Tôi muốn nói là, làm sao anh có thể dùng camera mà xác định được niên đại của một bức ảnh như thế chứ?”
Stern chau mày. Anh ta đã nhìn ra vấn đề. Hầu hết các bức ảnh đều được xác định niên đại từ các di vật của con người trên ảnh – một tòa nhà, một chiếc xe, hay quần áo, hay phế tích. Nhưng một hoang mạc ở New Mexico hầu như chẳng hề thay đổi diện mạo trong suốt hàng nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn năm.
Gordon mỉm cười. “Chúng tôi đã đặt dọc chiếc camera, dùng thấu kính mắt cá lồi và có góc rộng, và chụp ảnh bầu trời vào buổi tối.”
“À.”
“Dĩ nhiên là không phải lúc nào nó cũng hoạt động – phải là đêm, và trời phải quang không một bóng mây – nhưng nếu có đủ các hành tinh trong bức ảnh của mình, anh có thể xác định bầu trời khá chính xác. Tới cả năm, ngày, và giờ. Và đó là cách chúng tôi bắt đầu với việc phát triển công nghệ định vị hiện tại của chúng tôi đây.”
“Thế là cả dự án đã thay đổi…”
“Phải. Chúng tôi dĩ nhiên là biết mình có được cái gì. Chúng tôi không còn làm việc chuyển dịch đồ vật nữa – chẳng có việc gì phải cố làm thế nữa. Chúng tôi bắt đầu chuyển dịch giữa các vũ trụ với nhau.”
“Và các anh bắt đầu dịch chuyển con người từ khi nào?”
“Không quá nhanh như thế.”
Gordon dẫn anh ta đi quanh một bức tường toàn những thiết bị điện, rồi vào một khu khác của phòng thí nghiệm. Và ở đó, Stern thấy những tấm nhựa khổng lồ chứa đầy nước đang được treo lên, như những chiếc giường nước cứ dựng đứng. Và ở chính giữa, một chiếc lồng máy với kích cỡ lớn, chưa được tinh chỉnh như những chiếc anh ta đã thấy ở phòng dịch chuyển, nhưng rõ ràng là có cùng một công nghệ.
“Đây là cỗ máy thực sự đầu tiên của chúng tôi,” giọng Gordon đầy tự hào.
“Đợi chút,” Stern nói. “Cái này có hoạt động được không?”
“Dĩ nhiên là có rồi.”
“Thế giờ nó có hoạt động không?”
“Nó đã không hoạt động một thời gian rồi,” Gordon nói. “Nhưng tôi nghĩ là nó có thể hoạt động được bây giờ đấy. Sao?”
“Thế nếu tôi muốn quay lại và giúp họ,” Stern nói, “thì tôi có thể – vào trong cỗ máy này. Đúng chứ?”
“Đúng,” Gordon nói, chậm rãi gật đầu. “Anh có thể dùng cỗ máy này để quay lại, nhưng mà…”
“Này, tôi nghĩ là họ đang gặp rắc rối ở đó đấy – hoặc thậm chí còn tệ hơn.”
“Có lẽ. Đúng thế.”
“Và anh nói với tôi là chúng ta có một cỗ máy có thể hoạt động được,” Stern nói, “ngay bây giờ.”
Gordon thở dài. “Tôi nghĩ là mọi chuyện có phức tạp hơn một chút đấy, David.”
* 29:10:00Kate chầm chậm rơi khi trần đá sụp xuống. Những ngón tay của cô cố bám lấy gờ tường nứt nẻ, nhờ quá trình luyện tập bền bỉ suốt bao năm, cô bấu chặt lấy nó, và nó chịu được. Cô treo lủng lẳng bằng một bàn tay, nhìn xuống những tảng đá rơi nát ra trong một đám mây bụi trên sàn nhà nguyện. Cô không nhìn thấy chuyện gì đã xảy ra với đám lính hết.
Cô giơ bàn tay kia lên, bám lấy gờ đá. Những phiến đá khác cũng sẽ vỡ ra bất cứ lúc nào, Cô biết thế. Cả trần nhà đang rung chuyển. Theo kết cấu, nơi vững nhất là những đường gia cố cho mái vòm, nơi các vòm cung gặp nhau, ở đó, hoặc ở bức tường bên của nhà nguyện, toàn là đá dựng đứng.
Cô quyết định thử và tới chỗ bức tường bên.
Đá vỡ ra; cô lơ lửng trụ lại bằng tay trái. Cô bắt một tay chéo qua tay kia, rướn ra xa hết mức, và lại cố dàn đều trọng lượng cơ thể ra.
Đá trong lòng bàn tay trái của cô chuội ra, rơi xuống đất. Cô lại đu người lên trong không trung, và tìm thấy một chỗ bám khác. Cô giờ chỉ còn cách bức tường bên có một mét thôi, và đá dày một cách đáng kể vì nó có phần lồi ra để tiếp vào với bức tường. Chỗ gờ cô đang bám vào có vẻ chắc chắn hơn.
Cô nghe thấy tiếng đám lính bên dưới đang hò la và chạy vào trong nhà nguyện. Chẳng mấy chốc rồi chúng sẽ bắn cung về phía cô.
Cô cố tung chân trái lên. Càng dàn đều trọng lượng ra bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Cô đặt được chân trái lên; trần nhà khá vững. Uốn người, cô đẩy cả phần thân trên lên chỗ vòm, rồi đưa nốt cái chân còn lại lên. Loạt tên đầu tiên sượt qua người; những mũi khác cắm vào đá, làm bụi trắng tung lên. Cô đang nằm bẹp trên mái nhà.
Nhưng cô không thể ở đây mãi. Cô lăn khỏi cái gờ ấy, về phía đường vòm. Khi cô làm thế, đá lại vỡ ra và rơi xuống.
Những tên lính ngừng quát tháo. Có lẽ đá đã rơi xuống một trong số chúng, cô nghĩ thế. Nhưng không; cô nghe thấy tiếng chúng chạy vội ra khỏi nhà thờ. Cô nghe thấy tiếng người hò hét bên ngoài và tiếng ngựa hí vang.
Chuyện gì đang xảy ra vậy?
*Bên trong căn phòng tháp, Chris nghe thấy tiếng khóa cọ vào ổ. Rồi những tên lính phía ngoài dừng lại và quát qua khe cửa – gọi cho tên lính canh ở trong.
Trong khi đó, Marek đang lục tung mọi thứ lên như một người điên. Anh ta quỳ gối xuống, tìm dưới gầm giường. “Có rồi!” Anh ta thét lên. Lồm cồm bò dậy, anh ta giơ một thanh kiếm và một con dao găm dài lên. Anh ta ném con dao găm về phía Chris.
Bên ngoài, mấy tên lính lại gọi tên gác trong lần nữa. Marek tiến về phía cửa và ra hiệu cho Chris đi sang phía bên kia.
Chris ép sát người vào bức tường cạnh cửa ra vào. Anh nghe thấy tiếng những tên đứng ngoài kia – rất nhiều tiếng nói khác nhau. Tim anh bắt đầu đập thình thịch. Anh đã bị sốc trước cái cách Marek giết tên lính gác.
Chúng sẽ tới giết mọi người đấy.
Anh nghe thấy những từ đó lặp đi lặp lại trong đầu mình, cảm giác như không thật. Chẳng có vẻ gì là những người đàn ông vũ trang tận răng đó lại đến giết anh hết.
Trong thư viện ấm cúng, anh đã đọc những bài viết về những hành động bạo lực thời xưa, chém giết và tàn sát. Anh đã đọc những bản tường thuật về những con phố trơn nhẫy máu, lính đẫm màu đỏ từ đầu đến chân, phụ nữ và trẻ em bị moi nội tạng dù họ có van lơn thế nào đi nữa. Nhưng thế nào đó, Chris đã luôn cho những câu chuyện đó là phóng đại, là nói quá lên thôi. Trong trường đại học có một cái mốt là hiểu tài liệu theo những cách mỉa mai, nói về sự ngây ngô của những bản tường thuật, bối cảnh của văn bản, đặc quyền của quyền lực… Những giả định lý thuyết đó đã biến lịch sử thành một trò choi trí tuệ sáng tạo. Chris giỏi trò đó, nhưng khi chơi, bằng cách nào đó anh đã quên đi một thực tế rõ ràng – rằng hầu hết những câu chuyện khủng khiếp và tàn bạo mà các văn bản cổ xưa đó thuật lại đều là sự thật. Anh đã quên mất là mình đang đọc sách về lịch sử.
Cho tới tận bây giờ, khi anh bị buộc phải chú ý đến nó.
Chiếc chìa khóa xoáy trong ổ.
Phía bên kia cánh cửa, mặt Marek nhăn lại, hai bờ môi kéo lên để lộ hàm răng cắn chặt, Anh ta trông cứ như một con dã thú vậy, Chris nghĩ. Người Marek căng lên khi anh ta giữ chặt lấy thanh kiếm, sẵn sàng vung lên. Sẵn sàng chém giết.
Cánh cửa bật mở, trong giây lát che khuất tầm nhìn của Chris. Nhưng anh cũng thấy Marek vung kiếm lên cao, và anh nghe thấy một tiếng thét, và máu ào ạt chảy ra nền nhà, và một cái xác đổ gục ngay sau đó.
Cánh cửa đóng sầm vào người Chris, đứng yên và giam anh phía sau. Ở phía bên kia một người đàn ông đã ngã xô vào nó, rồi thở hắt ra khi lưỡi kiếm đâm xuyên vào gỗ. Chris cố thoát ra khỏi chỗ cánh cửa nhưng một cái xác nữa lại đổ xuống, ngáng lối anh.
Anh bước qua cái xác, và cánh cửa đập thẳng vào tường khi Marek vung gươm chém tên khác đang lao vào tấn công, và tên lính thứ ba lảo đảo vì cú đánh rồi ngã ra ngay dưới chân Chris. Người hắn đầm đìa máu; máu trào ra từ ngực hắn như suối chảy. Chris cúi người xuống để gỡ lấy thanh kiếm trong tay hắn. Khi anh giật lấy thanh kiếm, hắn giữ chặt lấy nó, hằm hằm nhìn Chris. Đột ngột, tên lính lả đi và buông thanh kiếm ra, khiến Chris loạng choạng lùi về phía bức tường.
Hắn tiếp tục nhìn anh chằm chằm từ dưới nền nhà. Mặt hắn nhăn lại đầy giận dữ – và rồi cứng đờ.
Chúa ơi, anh nghĩ, hắn ta chết rồi.
Bất thình lình, về bên phải anh, một tên lính khác bước vào phòng, lưng quay về phía Chris, hắn ta đang mải đánh nhau với Marek. Hai thanh kiếm chạm nhau chan chát; họ đánh nhau rất dữ dội; nhưng hắn đã không để ý thấy Chris, anh bèn giơ kiếm lên, rất nặng và chẳng dễ cầm chút nào. Anh băn khoăn không biết mình có vung được nó lên không, không biết liệu anh có thực sự giết được kẻ đang xoay lưng lại phía mình không. Anh nhấc thanh kiếm lên, nghiêng cánh tay như thể đang chuẩn bị vung chày đánh bóng – vung chày! – và chuẩn bị vung lên, thì Marek cắt ngọt cánh tay của tên đó lìa khỏi vai.
Cánh tay bị cắt rời bắn qua mặt sàn và đập vào bức tường, bên dưới ô cửa sổ. Tên đó sững ra trong giây lát trước khi Marek cắt gọn đầu hắn bằng một đường kiếm duy nhất, cái đầu rơi trong không trung, đập vào cánh cửa bên cạnh Chris, và rơi xuống chân anh, mặt úp xuống.
Anh vội giật chân ra. Cái đầu lăn đi, thế là khuôn mặt lại hướng lên, Chris nhìn thấy cặp mắt hấp háy và cái miệng mấp máy, như thể cố nói gì đó. Anh giật lùi lại.
Chris nhìn về phía phần cơ thể đang nằm trên sàn, máu vẫn phun ra từ phần cổ đã bị cắt cụt. Máu chảy tràn trên nền đá – dường như phải đến hàng lít. Anh nhìn Marek, giờ đang ngồi trên giường, thở hổn hển, khuôn mặt và áo chẽn của anh ta bị bắn đầy máu.
Marek ngước lên nhìn Chris. “Cậu ổn chứ?” Anh ta nói.
Chris không thể trả lời được gì.
Anh chẳng nói được gì hết.
Và rồi tiếng chuông nhà thờ trong làng bắt đầu vang lên.
*Qua ô cửa sổ, Chris nhìn thấy lửa liếm lên từ phía hai nông trại ở đằng xa của thị trấn, gần vòng tường ngoài. Trên phố mọi người đang chạy vội về phía đó.
“Có đám cháy kìa,” Chris nói.
“Tôi không chắc là thế đâu,” Marek nói, vẫn ngồi trên giường.
“Không, có thật mà,” Chris nói. “Nhìn đi.”
Trong thị trấn, những kỵ sĩ đang phi nước đại trên phố; họ mặc như thương nhân hoặc người bán dạo, nhưng phi ngựa hệt như những chiến binh.
“Đây là một trò đánh lạc hướng điển hình thôi mà,” Marek nói, “để khơi mào trận đánh.”
“Trận đánh nào?”
“Đại Tư tế đang tấn công Castelgard.”
“Sớm thế sao?”
“Đây chỉ là một đội tiền trạm thôi, có lẽ khoảng một trăm lính hoặc đại loại thế. Họ sẽ cố tạo hỗn loạn, chia rẽ. Cánh quân chính giờ này có lẽ vẫn còn đang ở phía bên kia sông. Nhưng cuộc tấn công đã bắt đầu rồi.”
Rõ ràng là những người khác cũng nghĩ như thế. Ở dưới sân, triều thần ào ào túa ra khỏi đại sảnh và chạy về phía cây cầu kéo, vội rời lâu đài, bữa tiệc bị dừng đột ngột. Một nhóm hiệp sĩ mặc giáp trụ phi nước đại ra ngoài, làm đám triều thần phải tản ra, họ phóng rầm rập về phía cây cầu kéo, rồi phi xuống những con phố dưới thị trấn.
Kate thò đầu qua cửa, thở hổn hển. “Mọi người, đi thôi. Chúng ta phải tìm ra Giáo sư trước khi quá muộn.”