← Quay lại trang sách

30:21:02

Cô nhanh chóng dẫn họ đi lên những bậc cầu thang xoắn ốc, có một cảm giác tự tin đầy mới mẻ. Trận đánh nhau với tên lính bằng cách nào đó đã giải phóng cô; điều tệ nhất đã xảy ra, nhưng cô đã sống sót. Giờ, dù đầu còn đau, cô vẫn cảm thấy bình tĩnh và thông suốt hơn cả trước kia nữa. Và những buổi nghiên cứu đã quay lại với cô; cô đã có thể nhớ được vị trí của những lối đi ấy.

Họ lên tới tầng trệt và nhìn ra ngoài sân. Còn đông hơn cả cô dự đoán. Có rất nhiều lính, cũng như hiệp sĩ mặc giáp trụ và triều thần mặc trang phục đẹp đẽ, tất cả đều vừa quay lại từ đấu trường. Cô đoán có lẽ giờ là khoảng ba giờ chiều; sân lớn tắm trong nắng chiều, nhưng bóng bắt đầu đổ dài thêm.

“Chúng ta không thể ra đó được,” Marek vừa lắc đầu vừa nói.

“Đừng lo.” Cô dẫn họ đi lên cầu thang tới tầng hai, rồi nhanh chóng xuống một hành lang bằng đá với những cánh cửa mở vào trong, cửa sổ hướng ra ngoài. Cô biết rằng phía sau những cánh cửa đó là một dãy những phòng nhỏ cho gia đình hoặc khách.

Sau lưng cô, Chris nói, “Tôi đã đến đây rồi.” Anh chỉ về phía một trong những cánh cửa ở đó. “Claire ở trong căn phòng đằng kia.”

Marek khụt khịt mũi. Kate tiếp tục đi. Ở phía cuối hành lang, có một tấm thảm thêu che hết bức tường bên trái. Cô nhấc tấm thảm lên – nó nặng đến bất ngờ – và bắt đầu đi dọc bức tường, ấn ấn những phiến đá. “Tôi khá chắc là nó chỉ ở đây thôi,” cô nói.

“Khá chắc?” Chris nói.

“Lối đi sẽ dẫn chúng ta ra sân sau.”

Cô tới chỗ cuối tường. Cô chẳng tìm ra cái cửa nào. Và nhìn lại dọc khắp bức tường, cô phải thừa nhận rằng dường như chẳng có lối đi nào ở trên tường hết. Những viên đá rất mịn và được trát vữa phẳng căng. Bức tường phẳng, chẳng có chỗ lồi hay lõm gì. Chẳng có dấu hiệu gì là có thêm thắt hay làm mới gì ở đây hết. Khi cô áp má lên tường và liếc nhìn toàn thể, nó dường như chỉ là một khối hoàn chỉnh.

Có phải cô đã nhầm không?

Có phải đây không phải là nơi đó không?

Cô không thể nhầm được. Cánh cửa phải ở đâu đó quanh đây. Cô quay lại, ấn lần nữa. Chẳng có gì hết. Việc cô cuối cùng cũng phát hiện ra nó chỉ hoàn toàn là ngẫu nhiên. Họ nghe thấy có tiếng nói từ phía kia hành lang – những tiếng nói đang vọng lên cầu thang. Khi cô quay ra nhìn, chân cô quệt vào viên đá ở dưới chân bức tường.

Cô thấy viên đá dịch chuyển.

Với một tiếng cách nhẹ, cánh cửa hiện ngay ra trước mặt cô. Nó chỉ rộng có vài xăng ti mét. Nhưng cô vẫn có thể nhìn ra rằng những người thợ nề đã che giấu chỗ hở một cách hết sức lành nghề.

Cô mở cửa ra. Tất cả bọn họ đều đi qua. Marek đi cuối, hạ tấm thảm xuống khi đã đóng cánh cửa lại.

*

Họ đang ở trong một đường hầm hẹp, tối tăm. Những lỗ nhỏ cách vài mét trên tường giúp những tia sáng nhạt nhòa lọt vào, nên không cần đến đuốc.

Lần đầu tiên lập bản đồ cho chỗ này, giữa đống đổ nát của Castelgard, cô đã băn khoăn là tại sao nó lại tồn tại. Nó dường như chẳng có ý nghĩa gì hết. Nhưng giờ khi đã ở đây, cô ngay lập tức hiểu được lý do tồn tại của nó.

Đây không phải một đường hầm để đi từ nơi này đến nơi kia. Đây là một hành lang bí mật để do thám những căn phòng ở trên lầu hai.

Họ nhẹ nhàng tiến về phía trước. Từ căn phòng gần đó, Kate nghe thấy có tiếng nói: một người phụ nữ và một người đàn ông. Khi họ đi tới gần mấy cái lỗ, tất cả đều dừng lại, nghía mắt nhìn qua.

Cô nghe thấy Chris thở dài đánh thượt.

*

Lúc đầu, Chris chỉ thấy bóng một người đàn ông và một người đàn bà bên ô cửa sổ sáng rực. Mất một lát mắt anh mới quen được với khung cảnh đó. Rồi anh nhận ra đó là phu nhân Claire và hiệp sĩ Guy. Họ đang nắm tay nhau, đụng chạm rất thân mật. Guy nồng nàn hôn cô, và cô đáp trả với sự cuồng nhiệt tương xứng, hai tay vòng quanh cổ hắn ta.

Chris cứ đứng đực ra nhìn.

Giờ đôi tình nhân tách nhau ra, và Guy nói trong khi mắt cô nhìn đắm đuối vào mắt hắn ta. “Phu nhân của ta,” hắn nói, “cách ứng xử nơi công cộng và sự khiếm nhã chua cay của nàng đã làm rất nhiều kẻ cười sau lưng ta đấy, và nói về chuyện ta thiếu nam tính, cứ phải chịu nhịn những thứ sỉ nhục ấy.”

“Phải thế thôi,” cô nói. “Vì cả hai chúng ta. Điều này chàng biết quá rõ mà.”

“Nhưng ta vẫn muốn nàng đừng có làm ra vẻ cứng rắn quá đà như thế.”

“Ồ thế ư? Nếu không như thế thì nên thế nào? Chàng có muốn đánh đổi vận hội cả hai chúng ta đều mong đợi không? Có cả chuyện khác nữa, hiệp sĩ của em ạ, như chàng cũng đã biết quá rõ rồi. Chừng nào em còn phản đối đám cưới của chúng ta, em vẫn còn chia sẻ mối nghi ngờ mà nhiều người đang ấp ủ: là chàng đã nhúng tay vào cái chết của chồng em. Nhưng nếu lãnh chúa Oliver ép duyên em, dù em có cố thế nào đi nữa, thì sẽ chẳng ai có thể phàn nàn gì về sự liên can của em nữa. Đúng chứ?”

“Đúng,” hắn nói, gật đầu chẳng chút vui vẻ.

“Nhưng, mọi chuyện sẽ rất khác nếu giờ em tỏ ra ngưỡng mộ chàng,” cô nói. “Những miệng lưỡi nhiều đường lắt léo giờ sẽ xì xào rằng em có dính líu đến cái chết bất ngờ của chồng mình và cái tin đó chẳng mấy chốc sẽ đến tai gia đình chồng em ở Anh. Họ lại đã sẵn cái ý muốn lấy lại đất đai của chồng em rồi. Họ chỉ thiếu cớ nữa thôi. Thế nên chú Daniel luôn quan sát cẩn thận tất cả những gì em làm. Hiệp sĩ của em, phẩm giá người phụ nữ của em dễ bị hoen ố lắm, và chẳng lấy lại được đâu. Nơi ẩn náu duy nhất của chúng ta là sự thù hằn không thay thế nổi của em dành cho chàng, thế nên em mong chàng cố chịu những lời hằn học có thể làm chàng bực tức, và thay vào đó nên nghĩ về phần thưởng sắp tới của mình ấy.”

Miệng Chris cứ thế mà há hốc ra. Cô đang có những cử chỉ thân mật – ánh nhìn ấm áp, giọng nói thầm thì, cái vuốt ve nhẹ nhàng nơi cổ – đúng y như lúc ở với anh. Chris đã nghĩ rằng anh đã quyến rũ cô. Giờ rõ ràng là cô đã quyến rũ anh.

Guy vẫn cứ dỗi, mặc cho cô vuốt ve. “Thế còn chuyến viếng thăm của nàng tới tu viện thì sao? Ta không muốn nàng tới đó nữa.”

“Thế sao? Chàng ghen với tu viện trưởng à, hiệp sĩ của em?” Cô giễu cợt hắn.

“Ta chỉ nói là, ta không muốn nàng tới đó nữa,” hắn nói.

“Nhưng em vẫn cần phải đến đó, vì bất cứ ai biết được bí mật của La Roque đều có thể đặt điều kiện với lãnh chúa Oliver. Ông ta sẽ phải làm mọi thứ để có được bí mật đó.”

“Có Chúa chứng giám, phu nhân ơi, nàng đã biết được cái bí mật đó đâu,” Guy nói. “Tu viện trưởng có biết không?”

“Em không gặp được tu viện trưởng,” cô nói. “Khi đó ông ấy ra ngoài rồi.”

“Và ông Học giả thì nói là ông ta không biết.”

“Đấy là ông ta nói thế. Nhưng em sẽ hỏi tu viện trưởng lần nữa, có lẽ là ngày mai.”

Có tiếng gõ cửa, và một giọng đàn ông nghèn nghẹt. Cả hai người họ đều quay ra nhìn. “Chắc là ngài Daniel,” hắn nói.

“Nhanh lên, hiệp sĩ của em, tới nơi bí mật của chàng đi.”

Guy tiến vội về phía bức tường nơi họ đang trốn, kéo tấm thảm qua một bên, và rồi, trong khi họ đang kinh hoàng nhìn ra, hắn mở một cánh cửa – và bước vào hành lang cùng họ. Guy trợn mắt nhìn trong chốc lát, rồi bắt đầu gào lên, “Bọn tù nhân! Tất cả đều đã trốn rồi! Bọn tù!”

Tiếng thét của hắn được phu nhân Claire phụ họa, cô gọi với vào phòng.

Trong đường hầm, Giáo sư nói với họ. “Nếu chúng ta bị tách ra, các con hãy đi tới tu viện. Tìm đạo hữu Marcel. Anh ta có chìa khóa vào đường hầm. Được chứ?”

Chưa ai kịp trả lời, bọn lính đã chạy vào trong đường hầm. Chris thấy tay ai đó bấu chặt lấy vai mình, kéo giật mình ra sau.

Họ đã bị bắt.

* 30:10:55

Một tiếng đàn luýt đơn độc vút lên trong phòng lớn khi những người hầu đã dọn xong bàn. Lãnh chúa Oliver và hiệp sĩ Robert nắm tay các cô gái của mình, khiêu vũ trong khi vũ sư vỗ nhịp, và mỉm cười thoải mái. Sau vài bước nhảy, Oliver quay ra đối mặt với bạn nhảy, thấy lưng cô xoay vào mình, hắn liền chửi đổng lên.

“Một trò vặt ấy mà, thưa ngài,” vũ sư nói vội, nụ cười của ông ta vẫn không suy suyển. “Như ngài nhớ, nó là tiến-lùi, tiến-lùi, xoay, lùi, và xoay, lùi. Chúng ta lỡ mất một nhịp.”

“Ta chẳng lỡ nhịp nào hết,” Oliver nói.

“Thật sự thì, thưa ngài, ngài chẳng lỡ mất nhịp hào hết,” hiệp sĩ Robert nói ngay, “là do một đoạn nhạc làm rối nhịp ấy mà.” Hắn ta liếc xéo về phía cậu bé đang chơi đàn luýt.

“Được rồi.” Oliver trở lại vị trí, giơ tay ra về phía cô gái. “Giờ là gì đây?” hắn ta nói. “Tiến-lùi, tiến-lùi, xoay, lùi…”

“Rất tuyệt,” vũ sư nói, vừa cười vừa vỗ nhịp. “Đúng rồi, giờ ngài đã thạo rồi đấy ạ…”

Từ ngoài cửa, một giọng nói cất lên: “Thưa ngài.”

Tiếng nhạc ngừng lại. Lãnh chúa Oliver tức tối quay lại, thấy Guy đi cùng đám lính, bao lấy Giáo sư và vài người khác. “Giờ là gì nữa đây?”

“Thưa ngài, có vẻ như ngài Học giả đây có bạn.”

“Thế sao? Bạn gì đấy?”

Lãnh chúa Oliver tiến về trước. Hắn ta thấy tên người Hainaut, tên người Ai Len ngu ngốc không biết cưỡi ngựa, và một người phụ nữ trẻ, gầy gò và trông rất bướng bỉnh. “Bạn kiểu gì?”

“Thưa ngài, họ nói rằng mình là trợ lý của Học giả.”

“Trợ lý?” Oliver nhướng mày, nhìn vào nhóm đó. “Ngài Học giả của tôi, khi ngài nói ngài có trợ lý, ta đã không nhận ra rằng họ ở ngay trong tòa lâu đài này với ngài rồi.”

“Bản thân tôi khi ấy cũng không biết,” Giáo sư nói.

Lãnh chúa Oliver khịt mũi. “Các người không thể là trợ lý được.” Hắn ta nhìn từng người một. “Ngươi trông phải già hơn tới mười tuổi ấy. Và ngươi chẳng tỏ vẻ gì là biết ngài Học giả hết, lúc mới đầu ấy… Các người không hề nói thật. Không ai trong các người nói thật hết.” Hắn ta lắc đầu, quay sang phía Guy. “Ta không tin bọn chúng, và ta sẽ có sự thật bằng được. Nhưng không phải bây giờ. Tống chúng vào ngục đã.”

“Thưa ngài, trước khi thoát ra là chúng đã ở trong ngục rồi đấy ạ.”

“Chúng thoát ra được? Bằng cách nào?” Ngay lập tức, hắn ta giơ tay lên để ngăn câu trả lời. “Nơi bảo mật nhất của chúng ta là ở đâu vậy nhỉ?”

Robert de Kere lách lên trước và thì thầm.

“Phòng trên tháp của ta sao? Nơi ta giữ nàng Alice á?” Oliver cười phá lên. “Đúng là nó nghiêm mật thật đấy. Đúng đấy, nhốt chúng lại đó đi.”

Guy nói, “Tôi sẽ lo việc đó, thưa ngài.”

“Những tên ‘trợ lý’ này sẽ là thứ bảo đảm cho hành động của thầy mình đấy.” Hắn cười nhạt. “Thưa ngài Học giả, tôi tin là ngài sẽ học được cách nhảy với tôi.”

Ba người thanh niên bị lồi xềnh xệch đi. Lãnh chúa Oliver vẫy tay, và cậu chơi đàn luýt cùng vũ sư lặng lẽ cúi chào rồi bước đi. Những người phụ nữ cũng thế. Robert cố nán lại, nhưng sau một cái liếc sắc lẻm của Oliver, hắn ta cũng rời phòng luôn.

Giờ chỉ còn lại mấy người hầu đang dọn bàn. Còn thì căn phòng đã trở nên rất yên ắng.

“Vậy ngài Học giả, trò gì đây?”

“Có Chúa chứng giám, họ đúng là trợ lý của tôi, như tôi đã nói với ngài ngay từ đầu,” Giáo sư nói.

“Trợ lý? Có một người là hiệp sĩ đấy.”

“Anh ta có một món nợ, nên phải giúp tôi.”

“Ô! Nợ gì thế?”

“Tôi đã cứu mạng cha anh ta.”

“Thế á?” Oliver đi quanh Giáo sư. “Cứu thế nào?”

“Bằng thuốc.”

“Ông ta bị bệnh gì?”

Giáo sư chạm tay vào tai và nói, “Thưa ngài Oliver, nếu ngài muốn tự kiểm chứng, hãy cho gọi ngay hiệp sĩ Marek vào đây, và anh ta sẽ nói ngài nghe những điều tôi vừa nói với ngài, rằng tôi đã cứu mạng cha anh ta, người bị bệnh phù nề, bằng cây kim sa khô, và rằng chuyện này xảy ra ở Hampstead, một thái ấp gần London, vào mùa thu năm trước. Gọi anh ta lại và hỏi anh ta đi.”

Oliver ngừng lại.

Hắn ta nhìn chằm chằm vào Giáo sư.

Giây phút yên lặng bị phá vỡ khi một người đàn ông mặc một bộ áo dính đầy bột trắng, nói từ cánh cửa phía xa, “Thưa ngài.”

Oliver xoay người ra. “Giờ là gì nữa đây?”

“Thưa ngài, món khai vị ạ.”

“Món khai vị? Được rồi – nhưng nhanh lên.”

“Thưa ngài,” người đàn ông nói, cúi đầu và búng búng mấy ngón tay. Hai cậu bé đỡ một chiếc khay trên vai chạy vội ra.

“Thưa ngài, món khai vị đầu tiên – lòng ạ.”

Cái khay đựng một bộ lòng xám ngoét cùng với tinh hoàn và dương vật của một con vật. Oliver đi vòng quanh chiếc khay, gí mắt vào nhìn.

“Phần lòng của con lợn, được đưa về từ cuộc đi săn,” hắn ta nói, gật gật đầu. “Khá thuyết phục đấy.” Hắn ta quay về phía Giáo sư. “Ngài có hài lòng với những gì nhà bếp của ta làm không?”

“Có thưa ngài. Món khai vị vừa truyền thống lại vừa được chế biến rất khéo. Tinh hoàn rất tuyệt.”

“Cảm ơn ngài,” người đầu bếp nói, cúi đầu cảm tạ. “Chúng là mận và đường đun đấy ạ. Và bộ lòng là xâu hoa quả trộn với trứng, bia, và mật ong ạ.”

“Tốt, tốt,” Oliver nói. “Ngươi sẽ dọn món này ra trước món chính chứ?”

“Chắc chắn ạ, thưa ngài Oliver.”

“Thế còn món khai vị khác thì sao?”

“Bánh đường trộn bột hạnh đào ạ, thưa ngài, được nhuộm bồ công anh và nghệ.” Người đầu bếp cúi đầu và ra hiệu, thêm nhiều cậu bé chạy mang một cái khay nữa đến. Nó là một hình mẫu khổng lồ của pháo đài Castelgard, những bức tường gắn lỗ châu mai của nó cao tới một mét rưỡi, tất cả được sơn màu vàng nhạt, đúng với màu đá thật. Chiếc bánh giống thật tới từng chi tiết nhỏ, và có cả những lá cờ nhỏ xíu ở trên những bức tường thành bằng đường.

“Tuyệt diệu! Giỏi lắm!” Oliver thốt lên. Hắn ta vỗ hai tay với vẻ đầy thỏa mãn, trong chốc lát sung sướng như một đứa trẻ. “Ta cực kỳ hài lòng.”

Hắn ta quay về phía Giáo sư và ra hiệu về phía hình mẫu. “Ngài cũng biết tên khốn Arnaut chắc chắn sẽ tấn công pháo đài này, vậy ta phải chống lại hắn chứ?”

Johnston gật đầu. “Tôi có biết!”

“Ngài sẽ khuyên ta phải sắp xếp lực lượng trong Castelgard thế nào đây?”

“Thưa ngài,” Johnston nói, “tôi sẽ không phòng thủ Castelgard đâu.”

“Ô! Sao ngài lại nói thế?” Oliver đi lại chiếc bàn gần nhất, lấy một chiếc ly, và rót rượu vào.

“Ngài đã cần bao nhiêu lính để chiếm nó từ người Gascon?” Johnston nói.

“Năm mươi hay sáu mươi gì đó, không hơn.”

“Thế là ngài có câu trả lời rồi đấy.”

“Nhưng chúng ta đã không tấn công trực diện. Chúng ta đã dùng do thám. Thủ đoạn một chút.”

“Thế Đại Tư tế thì không sao?”

“Lão có thể thử, nhưng chúng ta sẽ đợi. Chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tấn công của hắn.”

“Có lẽ thế,” Johnston nói, quay người lại. “Và cũng có lẽ là không.”

“Ngài quả là một tay thuật sĩ…”

“Không, thưa ngài: tôi không nhìn trước được tương lai. Tôi chẳng hề có khả năng như thế. Tôi chỉ đơn giản là cho ngài một lời khuyên với tư cách là người bình thường thôi. Và tôi muốn nói là, Đại Tư tế cũng không kém phần thủ đoạn so với ngài đâu.”

Oliver cau mày, giận dỗi im lặng uống rượu một lúc. Rồi dường như chú ý đến người đầu bếp, những cậu bé đang khiêng chiếc khay, tất cả họ đang đứng yên, hắn bèn vẫy tay đuổi họ đi. Khi họ chuẩn bị đi, hắn nói, “Cẩn thận mấy món đó đấy! Ta không muốn có chuyện gì xảy ra với nó trước khi khách thấy nó đâu.” Vài phút sau, chỉ còn hai người họ. Hắn quay về phía Johnston, ngoắc tay về phía những tấm rèm. “Và ta cũng chẳng muốn có chuyện gì với tòa lâu đài này đâu.”

“Thưa ngài,” Johnston nói, “ngài chẳng việc gì phải phòng thủ lâu đài này trong khi ngài có một lâu đài khác tuyệt hơn nhiều.”

“Hử? Ngài nói tới La Roque sao? Nhưng La Roque có điểm yếu. Có một đường hầm ta không tìm ra được.”

“Thế sao ngài biết là nó tồn tại?”

“Nó chắc chắn phải có,” Oliver nói, “vì lão già Laon là kiến trúc sư cho La Roque. Ngài cũng biết Laon? Không à? Lão là tu viện trưởng tiền nhiệm. Lão thầy tu đó rất gian xảo, và bất cứ khi nào lão được gọi đến để giúp xây lại một thị trấn, một lâu đài, hay một nhà thờ, lão đều để lại một vài lối đi bí mật chỉ lão mới biết. Tất cả các lâu đài đều có lối đi bí mật, hay một điểm yếu không ai biết tới nào đó, thứ Laon có thể dùng để bán cho những kẻ tấn công, nếu cần. Lão tinh nhạy với những lợi ích cho Giáo hội lắm – nhưng còn tinh nhạy với những lợi ích của bản thân lão hơn.”

“Thế nhưng,” Johnston nói, “nếu không ai biết lối đi đó ở đâu, nó cũng chẳng khác gì không tồn tại hết. Có những mối lo khác đấy, thưa ngài. Quân số đầy đủ của ngài hiện nay cụ thể ra sao?”

“Hai trăm hai mươi lính chiến, hai trăm năm mươi cung thủ, cùng hai trăm thương thủ.”

“Arnaut có gấp đôi chỗ ấy,” Johnston nói. “Có lẽ còn nhiều hơn.”

“Ngài nghĩ thế sao?”

“Thực sự là hắn không hơn gì một tên trộm vặt, nhưng giờ hắn đã trở thành một tên trộm nổi tiếng, hành quân ở Avignon, bắt Giáo hoàng dùng bữa với người của hắn rồi phải trả mười nghin livre để thị trấn không bị đụng đến.”

“Thật thế à?” Lãnh chúa Oliver nói, đầy vẻ lúng túng. “Ta chưa từng nghe về chuyện đó. Dĩ nhiên là có những lời xì xào rằng Arnaut có ý định hành quân ở Avignon, có lẽ là ngay vào tháng tới. Và tất cả cũng đã nghĩ là hắn ta sẽ đe dọa Giáo hoàng. Nhưng hắn vẫn chưa làm thế.” Hắn ta chau mày. “Hắn đã làm thế chưa nhỉ?”

“Ngài nói đúng rồi, thưa ngài,” Giáo sư nói nhanh. “Tôi muốn nói là sự táo bạo trong những kế hoạch của hắn cứ càng ngày càng lôi kéo thêm nhiều lính mới đến với hắn. Cho tới giờ thì hắn đã có được một nghìn lính dưới quyền. Có lẽ là hai nghìn.”

Oliver khịt mũi “Ta không sợ.”

“Tôi chắc chắn là ngài không sợ” Johnston nói, “nhưng lâu đài này hào nông lắm; chỉ một cây cầu kéo; một cổng vòm duy nhất; chẳng có bẫy và chỉ có một cổng sắt. Tường phòng ngự phía Đông khá thấp. Ngài chỉ có đủ lương thực và nước dự trữ cho vài ngày. Trạm lính canh của ngài bị gò bó trong những sân nhỏ, và người của ngài chẳng dễ gì để điều động.”

“Ta nói ngài hay, kho báu của ta đều ở đây, và ta sẽ ở đây với chúng.”

“Và lời khuyên của tôi là,” Johnston nói, “thu vén tất cả những gì ngài có thể mang đi được và rời khỏi đây ngay. Hai mặt bên của La Roque đều là vách đá dựng đứng. Mặt thứ ba có một cái hào sâu, hai cổng vào; hai cổng khung sắt, hai cầu kéo. Dù bọn tấn công có vào được cổng ngoài đi chăng nữa…”

“Ta biết lợi thế của La Roque!”

Johnston ngừng lại.

“Và ta không muốn nghe những lời chỉ dẫn vớ vẩn của ông!”

“Như ngài muốn, lãnh chúa Oliver.” Rồi Johnston nói, “À.”

“À? À gì?”

“Thưa ngài,” Johnston nói. “Tôi không thể cố vấn nếu ngài cứ đặt ra những tình huống giả định.”

“Tình huống giả định? Ta chẳng đặt ra tình huống giả định nào hết, ngài Học giả. Ta nói rất thẳng, chẳng giấu giếm gì hết.”

“Ngài cho bao nhiêu lính đóng ở La Roque?”

Oliver nhăn mặt vẻ không thoải mái. “Ba trăm.”

“Thế thì kho báu của ngài hẳn đã ở La Roque cả rồi.”

Lãnh chúa Oliver nheo mắt nhìn về phía Johnston. Hắn chẳng nói gì hết. Hắn quay người lại, đi vòng quanh Johnston, lại liếc lần nữa. Cuối cùng: “Ngài đang ép ta tới đó bằng cách gợi ra những nỗi sợ của ta đấy.”

“Tôi đâu dám thế.”

“Ngài muốn ta dời tới La Roque vì ngài biết là lâu đài đó có điểm yếu. Ngài là người của Arnaut và ngài đang dọn đường cho hắn tấn công.”

“Thưa ngài,” Johnston nói, “nếu La Roque yếu thế hơn, như ngài vẫn nói, thế sao ngài lại để kho báu của mình ở đó?”

Oliver khịt mũi lại không vui. “Ngài nói giỏi lắm.”

“Thưa ngài, những hành động của chính ngài đã cho tôi biết là lâu đài nào có lợi thế hơn.”

“Được lắm. Nhưng ngài Học giả này, nếu ta tới La Roque, ngài sẽ phải đi cùng ta. Và nếu một người nào đó tìm ra cái lối đi bí mật đó trước khi ngài nói cho ta hay, tự ta sẽ lo cho ngài được chết theo cái cách khiến cho ‘đoạn kết’ của Edward” – hắn ta cười khùng khục trước cách chơi chữ của mình – “chẳng khác nào một ân huệ đấy.”

“Tôi hiểu ý ngài rồi,” Johnston nói.

“Thật chứ? Vậy ngài hãy khắc cốt ghi tâm điều đó.”

*

Chris Hughes nhìn không chớp mắt ra ngoài cửa sổ.

Gần hai mươi mét bên dưới, khoảng sân chìm trong bóng tối. Đàn ông cùng phụ nữ ăn vận đẹp đẽ lướt về phía những ô cửa sổ sáng đèn của đại sảnh. Anh nghe tiếng nhạc từ xa vọng lại. Khung cảnh lễ hội làm anh thấy càng thêm ảm đạm, thêm cô quạnh. Ba người bọn họ sắp bị giết – và họ chẳng làm gì được hết.

Họ bị nhốt lại trong một căn phòng nhỏ, cao ngất phía trên cái tháp trung tâm ở khu giam giữ của tòa thành, nhìn ra những bức tường thành và thị trấn bên dưới. Đây là phòng của một phụ nữ, với một chiếc khung cửi và bàn thờ ở một góc, những dấu hiệu bên ngoài về lòng mộ đạo bị đè bẹp bởi chiếc giường khổng lồ có màn đỏ viền lông đặt ở giữa phòng. Cửa vào phòng làm bằng gỗ sồi chắc chắn, và được khóa bằng một ổ khóa mới. Guy đã đích thân khóa cửa, sau khi cho một tên lính ở lại trong phòng, ngồi bên cửa, cùng với hai tên ở phía ngoài.

Lần này họ chẳng có cơ may nào hết.

Marek ngồi trên giường, nhìn chằm chằm vào khoảng không, mải miết suy nghĩ. Hay có lẽ là anh ta đang lắng nghe; anh ta đặt một tay khum khum lên tai. Trong khi ấy, Kate cứ đi đi lại lại không ngừng, hết cửa sổ này đến cửa sổ khác, xem xét khung cảnh từ mỗi vị trí. Ở ô cửa xa nhất, cô thò đầu ra, nhìn xuống, rồi lại đi về phía cửa sổ nơi Chris đang đứng và lại chúi người ra ngoài.

“Khung cảnh ở đây chỗ nào chẳng như nhau,” Chris nói. Việc đi lại không ngừng của cô làm anh khó chịu.

Rồi anh thấy cô giơ những ngón tay ra lướt dọc theo phần tường bên cửa sổ, cảm nhận mặt đá và lớp vữa.

Anh nhìn cô với vẻ đầy dò hỏi.

“Có lẽ,” có vừa nói vừa gật đầu. “Có lẽ.”

Chris với tay ra và chạm vào bức tường. Phần xây nề rất mịn, tường cong phẳng. Bức tường dẫn thẳng xuống sân bên dưới.

“Cô đùa đấy à?” anh nói.

“Không,” cô nói. “Tôi không đùa đâu.”

Anh lại nhìn ra lần nữa. Dưới sân, ngoài những triều thần ra, còn có rất nhiều những người khác nữa. Một nhóm thiếu hiệp cười cười nói nói lau chùi giáp trụ và coi sóc cho ngựa của các hiệp sĩ. Ở phía bên phải, lính đi tuần trên các bức tường thành. Bất cứ ai trong số họ đều có thể ngước nhìn lên nếu những cử động của cô lọt vào mắt họ.

“Cô sẽ bị phát hiện đấy.”

“Từ ô cửa này thì, đúng thế. Nhưng không phải từ những ô cửa khác. Vấn đề duy nhất của chúng ta là hắn thôi.” Cô hất hàm về phía tên lính gác bên cửa. “Anh có giúp gì được không?”

Ngồi trên giường, Marek nói, “Tôi sẽ lo vụ đó cho.”

“Cái quái gì vậy?” Chris nói, đầy vẻ khó chịu. Anh nói to, “Anh không nghĩ là tôi có thể tự làm việc đó sao?”

“Không, tôi không nghĩ vậy đâu.”

“Khốn kiếp, tôi quá chán ghét cái cách anh đối xử với tôi rồi,” Chris nói. Giận dữ; anh nhìn quanh tìm cái gì đó để xả tức, anh nhặt cái ghế nhỏ bên khung cửi lên và đi về phía Marek.

Tên lính nhìn thấy, vội nói, “Không, không, không” và đi về phía Chris. Hắn ta chẳng hề thấy trước rằng Marek sẽ lấy cái giá nến bằng kim loại đập hắn từ đằng sau. Tên lính gục xuống, và Marek đỡ lấy hắn, nhẹ nhàng đặt hắn lên sàn nhà. Máu xối xả từ đầu hắn chảy xuống cái thảm phương Đông.

“Hắn chết chưa?” Chris vừa nói vừa nhìn Marek.

“Ai quan tâm chứ?” Marek nói. “Cứ tiếp tục nói nho nhỏ thôi, để những tên bên ngoài có thể nghe thấy giọng chúng ta.” Họ nhìn lại, nhưng Kate đã trèo ra ngoài cửa sổ rồi.

*

Chỉ là leo trèo không có dây hảo hộ thôi mà, cô tự nhủ, rồi bám lấy tường tháp, cách mặt đất hai mươi mét.

Gió quật lên người, giật lấy quần áo cô. Cô dùng những đầu ngón tay bấu lấy những đầu mẩu nhỏ xíu nhô ra trên tường. Thỉnh thoảng vữa vụn ra, và cô phải tóm lấy, rồi bấu lại lần nữa. Nhưng thỉnh thoảng, cô lại tìm được những chỗ lõm trên lớp vữa, đủ rộng cho những đầu ngón tay của mình bấu vào.

Cô đã có những lần leo núi khó hơn thế này nhiều. Bất cứ khu nhà nào ở Yale cũng khó leo hơn – dù ở đó, cô luôn có đá phấn cho hai bàn tay mình, giày leo núi vừa cỡ chân, và một sợi dây bảo hộ. Ở đây chẳng có gì hết.

Chẳng xa lắm đâu mà.

Cô đã trèo ra ô cửa sổ phía Tây vì nó ở đằng sau tên lính canh, hướng thẳng xuống thị trấn, và như thế cô sẽ khó bị phát hiện từ cái sân dưới kia hơn – và vì nó có khoảng cách ngắn nhất tới ô cửa sổ bên cạnh, ô cửa ở cuối hành lang chạy phía ngoài căn phòng.

Chẳng xa lắm đâu mà, cô tự nhủ. Nhiều lắm là hơn ba mét thôi. Đừng vội. Đừng cuống. Chỉ một tay, rồi một chỗ tựa chân… một tay nữa…

Gần tới rồi, cô nghĩ.

Gần tới rồi.

Rồi cô chạm vào bậu cửa sổ đá. Cô đã có được chỗ bám tay vững chãi đầu tiên. Cô đu lên bằng một tay, rồi cảnh giác ngó theo hành lang.

Chẳng có tên lính nào hết.

Hành lang trống không.

Giờ dùng cả hai tay, Kate bật người lên, nhảy lên gờ tường, rồi trượt xuống sàn nhà. Cô đã đứng trên hành lang trước cửa một căn phòng bị khóa. Cô nói thật khẽ, “Tôi làm được rồi.”

Marek nói, “Lính thì sao?”

“Không. Nhưng cũng chẳng có chìa khóa.”

Cô kiểm tra cánh cửa, Cửa dày, cứng.

Marek nói, “Bản lề?”

“Có. Ở phía ngoài.” Chúng được làm bằng sắt khá nặng. Cô biết anh ta đang hỏi gì. “Tôi có thể thấy mấy cái chốt ở đây.” Nếu cô có thể bẩy cái trục ra khỏi bản lề, thì việc phá cửa sẽ rất dễ dàng. “Nhưng tôi cần một cái búa hay cái gì đó tương tự. Chẳng có gì tôi dùng được ở đây hết.”

“Tìm cái gì đó đi,” Marek nói nhỏ.

Cô chạy theo hành lang.

*

“De Kere,” lãnh chúa Oliver nói khi tên hiệp sĩ có sẹo bước vào phòng. “Ngài Học giả cố vấn là chúng ta nên dời tới La Roque.”

De Kere gật đầu thận trọng. “Có hơi mạo hiểm quá đấy, thưa ngài.”

“Thế còn độ mạo hiểm khi ở lại đây thì sao?” Oliver nói.

“Nếu lời khuyên của ngài Học giả đúng và có ích, và không có bất cứ mục đích nào khác, thì tại sao những trợ lý của ông ta lại che giấu lai lịch bản thân khi họ lần đầu tới đây? Những trò che giấu ấy chẳng phải một minh chứng cho sự trung thực gì hết, thưa ngài. Tôi rất muốn ngài có được câu trả lời thỏa mãn cho hành vi này, trước khi tôi đặt niềm tin vào vị Học giả và những lời cố vấn của ông ta.”

“Hãy cho tất cả chúng ta được thỏa mãn,” Oliver nói. “Đưa các trợ lý tới đây ngay bây giờ, và chúng ta sẽ hỏi họ những gì ngươi muốn biết.”

“Được, thưa ngài.” De Kere cúi đầu, rồi rời phòng.

*

Kate xuống cầu thang và lẩn vào đám đông trên sân. Cô đang nghĩ mình có thể dùng đồ nghề của thợ mộc, hay một cái búa của người thợ rèn, hay một thứ đồ nghề nào đó của thợ đóng móng ngựa. Ở phía trái, cô thấy những người trông ngựa và mấy con ngựa, và cô bắt đầu lẻn ra phía đó. Trong đám đông đầy phấn khích kia, chẳng ai thèm để ý đến cô. Cô dễ dàng lẩn ra khu tường phía Đông, và đang định xem làm thế nào để đánh lạc hướng người coi ngựa, thì ngay phía trước cô nhìn thấy một hiệp sĩ đang đứng bất động và nhìn chằm chằm về phía mình.

Robert de Kere.

Mắt họ chạm nhau trong giây lát, rồi cô quay người chạy. Từ phía sau cô nghe thấy tiếng Robert gọi thêm người tới, và những tiếng thét đáp lại của binh lính đến từ tứ phía. Cô bổ nhào qua đám đông, những kẻ đột nhiên trở thành một thứ vật cản, tay họ bám lấy cô, giật lấy quần áo cô. Giống như một cơn ác mộng vậy. Để thoát khỏi đám đông, cô chạy vào cánh cửa gần nhất và đóng sập nó lại.

Cô thấy mình đang đứng trong bếp.

Căn phòng nóng khủng khiếp, và còn đông hơn cả ngoài sân nữa. Những chiếc chảo sắt khổng lồ sôi sùng sục trên cái bếp lửa khổng lồ. Hàng tá gà trống thiến xoay trên một dãy xiên nướng, một đứa trẻ điều khiển cái trục quay. Cô dừng lại, không biết phải làm gì tiếp, và rồi de Kere đi vào phòng, gầm lên, “Ngươi!” và vung kiếm ra.

Cô né người, vật lộn đi giữa những chiếc bàn đầy thức ăn đang làm dở. Thanh kiếm bổ xuống, làm mấy chiếc khay bắn ra xa. Cô cố đi tiếp, cúi thấp người xuống, luồn xuống dưới mấy chiếc bàn. Mấy người nấu bếp bắt đầu gào lên. Cô nhìn thấy một mô hình lâu đài khổng lồ, được làm từ một loại bánh nào đó, và hướng thẳng đến đấy. De Kere đuổi sát theo.

Những người nấu bếp gần như đồng thanh thét lên “Không, ngài Robert, không!” từ mọi góc bếp, và một số còn hoảng hốt đến mức đi thẳng ra để ngăn hắn lại.

De Kere lại vung kiếm lần nữa. Cô né, và thanh kiếm chặt đứt tường thành của tòa lâu đài, hất tung lên một cơn mưa bột. Thấy thế, những người đầu bếp đồng loạt rú lên đau đớn và nhào vào de Kere từ mọi phía, gào lên rằng đây là món ăn ưa thích của ngài Oliver, rằng ngài ấy đã duyệt nó, rằng ngài Robert không được phá hoại thêm nữa. Robert lăn trên sàn nhà, vừa chửi vừa cố đẩy họ ra.

Giữa đống lộn xộn, cô chạy lại phía cửa, ra với ánh sáng của buổi chiều tà.

*

Về bên tay phải, cô thấy phần tường cong của nhà nguyện. Nhà nguyện đang được trùng tu; có một cái thang dựng bên tường, và có một cái giàn giáo tam bợ ở trên mái, nơi những người thợ đang lợp lại mái.

Cô muốn tránh khỏi đám đông, và những tên lính nữa. Cô biết rằng ở góc xa của nhà nguyện kia, có một con đường hẹp chạy giữa khu nhà nguyện và vòng tường ngoài của lâu đài. Ít nhất cô cũng có thể thoát khỏi đám đông nếu đi tới đó. Khi đang chạy dọc theo đoạn đường, cô nghe tiếng de Kere đằng sau, gọi đám lính; hắn đã ra được khỏi bếp rồi. Cô chạy thục mạng, cố nới rộng khoảng cách thêm chút nữa. Cô chạy vòng quanh góc nhà nguyện. Nhìn lại, cô thấy những tên lính khác đang chạy quanh nhà nguyện theo hướng ngược lại, rõ ràng muốn đón đầu ở phía cuối đường.

Robert vừa gắt lên thêm vài mệnh lệnh cho đám lính vừa đi vòng quanh góc ngoặt để đuổi theo cô – và rồi hắn đột ngột dừng lại. Những tên lính đứng lại bên cạnh hắn, và tất cả đều xôn xao không biết làm sao.

Họ nhìn vào một lối đi rộng mét rưỡi ở giữa lâu đài và nhà nguyện. Lối đi trống trơn. Ở phía cuối lối đi, những người lính khác xuất hiện, đối mặt với họ.

Cô gái đã biến mất.

*

Kate đang trèo lên bức tường nhà nguyện cách mặt đất hơn ba mét, bóng dáng cô được những góc chạm khắc cầu kỳ của ô cửa sổ tu viện và những giàn dây leo dày đặc che khuất. Dù vậy, nếu có ai đó ngước mắt nhìn lên, cô vẫn có thể dễ dàng bị phát hiện. Nhưng lối đi đó rất tối, và chẳng ai ngước mắt lên hết. Cô nghe thấy tiếng de Kere quát lên đầy giận dữ, “Đi ra chỗ những tên trợ lý khác, và kết liễu bọn chúng đi!”

Những tên lính lưỡng lự. “Nhưng thưa ngài Robert, họ làm cho Học giả của lãnh chúa Oliver…”

“Và chính lãnh chúa Oliver đã ra lệnh thế. Giết hết chúng đi!”

Đám lính chạy vội vào trong lâu đài.

De Kere chửi thề. Hắn đang nói chuyện với một người lính còn sót lại, nhưng bọn họ chỉ đang thì thầm, và cái tai nghe của cô đang kêu lách tách nên cô cũng chẳng nghe ra được. Nói thật là cô cũng phải ngạc nhiên khi thấy mình đã có thể nghe được nhiều đến thế.

Sao cô có thể nghe được họ nói những gì nhỉ? Có vẻ như là họ đang ở quá xa, lẽ ra cô không thể nghe được giọng của de Kere rõ đến thế. Nhưng giọng của hắn vẫn rất rõ, thậm chí còn như được phóng đại lên vậy. Có lẽ là do độ vang của lối đi…

Nhìn xuống dưới, cô thấy có vài người lính vẫn chưa bỏ đi.

Họ cứ đi lảng vảng xung quanh. Nên cô không thể quay xuống dưới được. Cô quyết định sẽ trèo lên mái nhà và đợi đến khi mọi chuyện lắng xuống. Mái của nhà nguyện vẫn đang để trần ra: một cái mái ngói nhọn đơn giản, với những chỗ hở nhỏ đang được sửa chữa. Mái rất dốc; cô trườn xuống chỗ máng nước và nói, “André.”

Một tiếng cạch. Cô nghĩ mình đã nghe thấy giọng của Marek, nhưng nhiễu quá.

“André, chúng sẽ tới giết mọi người đấy.”

Chẳng có câu đáp lại nào, chỉ có thêm nhiều tiếng nhiễu rẹt nữa thôi.

“André?”

Chẳng có câu trả lời nào.

Có lẽ những bức tường xung quanh đã cản trở quá trình truyền sóng; cô có thể liên lạc tốt hơn khi lên đến đỉnh mái. Cô bắt đầu trèo lên cái mái dốc, dễ dàng đi qua những chỗ ngói đang được sửa. Ở mỗi phía, những người thợ nề đã dựng một bục nhỏ để đặt chậu vữa và một đống gạch. Tiếng chim ríu rít làm cô ngừng lại. Cô thấy đúng là có một lỗ hổng trên mái ở những chỗ đang lợp ngói dở này, và…

Một tiếng rẹt làm cô ngẩng phắt lên. Cô thấy một tên lính đang trèo lên đỉnh mái. Hắn dừng lại, nhìn chòng chọc xuống chỗ cô.

Rồi tên thứ hai.

Thì ra đó là lý do de Kere lại thì thầm: hắn thực sự đã nhìn thấy cô, trên tường, và đã cho lính trèo lên cái thang dựng ở bức tường đối diện.

Cô nhìn xuống và thấy lính ngập đoạn đường bên dưới. Giờ bọn chúng đều ngước hết lên nhìn cô.

Giờ tên lính đầu tiên quàng chân qua chóp mái và bắt đầu bò xuống chỗ cô.

Chỉ có một điều duy nhất cô có thể làm. Cái lỗ của người thợ nề rộng hơn nửa mét một chút. Qua đó cô có thể nhìn thấy những thanh giằng bên dưới mái nhà, và khoảng ba mét dưới đó, mái vòm đá của trần nhà nguyện. Có một lối đi hẹp bằng gỗ chạy trên mái vòm.

Kate bò qua cái lỗ, rơi xuống trần nhà bên dưới. Cô ngửi thấy cái mùi chua chua của bụi đất và phân chim. Tổ chim ở khắp mọi nơi, dọc theo lối đi, trong góc và trên những thanh rầm. Cô né vài con chim én vừa bay qua đầu mình vừa rúc rích. Và bất thình lình, cô bị chìm trong một cơn lốc xoáy những chim rú rít và lông bay tứ tung. Cô nhận ra là trong này có tới hàng trăm con, và cô đã phá quấy chúng. Trong giây lát cô chẳng làm gì được ngoài giơ hai tay che đầu và đứng yên. Những tiếng động tắt dần.

Khi cô nhìn lại, chỉ còn có vài con chim đang bay. Và hai tên lính đang trèo xuống cái lỗ để xuống tới nền đất bên dưới rồi.

Thật nhanh, cô đi dọc cái lối đi hẹp để tới cánh cửa ở đằng xa, có lẽ sẽ dẫn vào trong nhà thờ. Khi cô tiến lại gần, cánh cửa bật mở và tên lính thứ ba tiến vào.

Ba chọi một.

Cô lùi lại, bước dọc lối đi hẹp vắt qua các chỗ uốn của trần vòm. Nhưng những tên lính còn lại cũng đang tiến về phía cô. Chúng đã rút dao găm ra. Cô chẳng ngờ vực gì về chuyện chúng sắp làm hết.

Cô bật lùi lại.

Cô nhớ lại mình đã quen treo lơ lửng bên dưới cái trần này đến thế nào, kiểm tra những chỗ nứt vỡ và những chỗ sửa chữa đã được làm suốt hàng bao thế kỷ. Giờ cô đang đứng ngay trên cái kiến trúc đó. Lối đi rõ ràng cho thấy rằng những chỗ vòm này rất yếu. Yếu đến đâu? Liệu chúng có chịu được sức nặng của cô hay không? Những tên đó cứ chậm rãi tiến gần về phía cô.

Cô cẩn thận bước lên một trong những vòm, chủ yếu là để xem thử. Cô dồn toàn bộ sức nặng của mình lên.

Nó chịu được.

Những tên lính đang đuổi sát theo cô, nhưng đã chậm lại. Những con chim đột nhiên náo động trở lại, ríu rít và rộ lên như một đám mây. Những tên lính che mặt lại. Những con chim sẻ bay gần đến mức cánh của chúng đập vào mắt cô. Cô lại lùi lại, chân giẫm lên lớp phân chim dày cộp.

.

Cô giờ đang đứng trên một dãy những bề mặt vòm cong giữa có những hố sâu, với những khung đá dày cộp làm trung tâm cho những phần vòm tụ lại. Cô di chuyển về phía chỗ khung vì cô biết kết cấu của chúng sẽ vững hơn, và bắt đầu đi lên trên chúng, cô đi ra tới góc kia của nhà nguyện, ở đó cô thấy một cái cửa nhỏ. Có lẽ nó sẽ dẫn cô vào trong nhà thờ, có lẽ là chạy xuống sau bệ thờ.

Một trong những tên lính chạy dọc theo lối đi hẹp và rồi bước lên chỗ lồi của một mặt vòm. Hắn tiến tới chặn đường cô. Dao lăm lăm trước mặt.

Nhoài người xuống, cô ra đòn gió, nhưng tên lính cứ đứng nguyên tại chỗ. Tên lính thứ hai chạy tới đứng cạnh. Tên lính thứ ba ở phía sau cô. Hắn cũng bước lên mặt vòm.

Cô dịch sang phải, nhưng hai tên đó đi thẳng về phía cô. Tên thứ ba đang tiến lại gần từ phía sau.

Hai tên trước chỉ còn cách vài mét thì cô nghe thấy một tiếng cạch lớn y như tiếng bóp cò súng. Cô nhìn xuống thì thấy một đường rãnh lởm chởm trên lớp vữa giữa những phiến đá. Những tên lính lật đật lùi lại, nhưng vết nứt đã kịp rộng ra rất nhanh, vươn ra như những cành cây. Những vết nứt đâm vào giữa chân chúng; chúng kinh hoàng nhìn xuống dưởi. Rồi những viên đá rơi khỏi chân chúng, và chúng rơi xuống, kinh hoàng gào thét.

Cô liếc lại phía tên thứ ba, hắn trượt chân và ngã xuống khi cố chạy ra chỗ lối đi. Cú ngã của hắn kèm theo một tiếng rắc và Kate nhìn thấy khuôn mặt khiếp đảm của hắn nằm đó, cảm thấy đá phía dưới người mình cứ dần chuội đi; từng viên từng viên một. Rồi hắn biến mất, với một tiếng kêu thét xé tai.

Và đột ngột, cô chỉ còn có một mình.

Cô đang đứng trên trần nhà, chim quang quác xung quanh. Quá sợ không dám di chuyển, cô cứ đứng đó, cố chậm nhịp thở lại. Nhưng cô đã ổn rồi.

Cô đã ổn rồi.

Mọi thứ đều ổn rồi.

Cô nghe thấy một tiếng rắc.

Rồi chẳng có gì nữa. Cô chờ đợi.

Một tiếng rắc khác nữa. Và lần này cô thấy, ngay dưới chân mình. Đá đang di chuyển. Nhìn xuống, cô thấy vữa nứt ra vài hướng liền, chạy dài từ vị trí cô đứng. Cô vội bước sang bên trái, chạy ra chỗ khung đá, nhưng đã quá muộn.

Một hòn đá rơi xuống, và chân cô tụt xuống qua cái lỗ. Cô bị sụt đến tận hông, rồi xoài người ra, dang rộng hai tay, chia đều trọng lượng. Cô nằm đó khoảng vài giây, thở hổn hển. Cô nghĩ, Mình đã bảo với anh ta là nó được xây rất láo.

Cô chờ đợi, cố nghĩ xem làm cách nào có thể thoát ra được cái hố này. Cô thử luồn người…

Rắc.

Ngay phía trước cô, vữa tách ra, và vài hòn đá rơi xuống. Rồi cô thấy thêm nhiều phần nữa đang rơi ra phía dưới mình; trong giây phút hoảng loạn cô đã biết chắc chắn rằng mình rồi cũng sẽ rơi xuống thôi.

*

Trong gian phòng nhung đỏ trên tháp, Chris không rõ điều anh vừa nghe qua cái tai nghe có đúng không. Có vẻ như là Kate đã nói, “Chúng sẽ tới giết mọi người đấy.” Và rồi một thứ gì đó khác anh không nghe ra nổi, trước khi sóng hoàn toàn bị nhiễu.

Marek đã mở chiếc rương gỗ gần ban thờ nhỏ, và anh ta vội vã lục tung nó lên. “Lại đây nào, giúp chút!”

“Gì đấy?” Chris nói.

“Oliver giam người tình của mình ở căn phòng này,” Marek nói. “Tôi cá là hắn ta cũng để vũ khí ở đây nữa.”

Chris đi ra chỗ cái rương thứ hai, ở cuối chân giường, và mở toang nó ra. Chiếc rương này có vẻ chứa đầy vải lanh, váy vóc, đồ lụa. Anh hất tung nó ra trong khi lục lọi; chúng vãi đầy ra sàn nhà xung quanh.

Anh chẳng thấy vũ khí nào hết.

Chẳng có gì hết.

Anh nhìn Marek. Anh ta đang đứng giữa một đống váy áo và lắc đầu.

Không có vũ khí.

Ngoài hành lang bên ngoài, Chris nghe thấy tiếng lính đang chạy lại, tới chỗ họ. Và bên ngoài cánh cửa, anh nghe thấy tiếng keng sắc lạnh khi chúng rút kiếm từ trong bao ra.