28:57:32
Trong đại sảnh là cả một sự hỗn loạn. Những nhạc công chạy tán loạn, thực khách chạy vội ra phía cửa, chó sủa và đĩa thức ăn rơi loảng xoảng xuống nền nhà. Các hiệp sĩ lao vào tham chiến, hét lớn để ra lệnh cho các thiếu hiệp. Từ chỗ bàn cao, lãnh chúa Oliver vội đi xuống, giật lấy tay Giáo sư, nói với hiệp sĩ Guy, “Chúng ta tới La Roque. Coi sóc phu nhân Claire. Dẫn đám trợ lý theo.”
Robert de Kere thở không ra hơi, ào vào phòng. “Thưa ngài, đám trợ lý chết hết rồi! Bị giết khi đang tìm cách bỏ trốn!”
“Bỏ trốn? Chúng dám trốn? Dù có bỏ mặc mạng sống thầy của mình? Đi với ta nào, Học giả,” lãnh chúa Oliver nói với giọng nham hiểm. Oliver dẫn ông ra một cánh cửa bên mở thẳng ra sân.
*Kate luống cuống đi vội xuống chiếc cầu thang xoắn ốc, Marek và Chris theo sát phía sầu. Ở tầng thứ hai, họ phải chậm lại vì có một nhóm khác đang đi xuống phía trước họ. Ở chỗ ngoặt, Kate liếc thấy mấy tì nữ, và chiếc áo chùng đỏ của một ông lão đang lom khom bước đi. Đằng sau cô, Chris thét lên, “Chuyện gì đã xảy ra thế?” Cô bèn giơ tay ra ngăn lại. Họ đợi thêm một phút nữa rồi đổ xô ra sân.
Thật là một cảnh tượng hỗn loặn. Hiệp sĩ trên lưng ngựa quất roi vào đám người dự tiệc đang hoảng loạn để lùa họ sang một bên. Cô nghe thấy tiếng gào thét của đám đông, tiếng ngựa hí, tiếng quát tháo cửa đám lính trên tường thành. “Đường này,” Kate nói, và cô dẫn Marek và Chris tiến về phía trước, rồi xuyên vào khu sân ngoài, họ thấy ở đó cũng đông chẳng kém.
Họ thấy Oliver trên lưng ngựa, Giáo sư bên cạnh và một toán hiệp sĩ vũ trang kín bưng. Oliver quát tháo gì đó, và tất cả đều phóng tới chỗ cây cầu kéo.
Kate để Marek và Chris lại để đuổi theo họ, và cô cũng chỉ kịp thoáng thấy bóng họ chỗ cuối cây cầu kéo. Oliver xoay sang bên trái, phóng khỏi thị trấn. Lính gác mở một cánh cửa ở tường phía Đông, và hắn cùng đồng bọn phóng thẳng vào ráng trời chiều. Cánh cửa được đóng sầm lại phía sau.
Marek đuổi kịp cô. “Đi đâu vậy?” Anh ta nói.
Cô chỉ về phía cánh cổng. Ba mươi hiệp sĩ đang canh nó. Và thêm những hiệp sĩ khác đang đứng ở bức tường phía trên.
“Chúng ta không thoát qua lối đó được,” anh ta nói. Ngay phía sau họ, một đám lính đang ném những bộ áo chùng màu nâu ra, để lộ quân phục màu xanh lá cây pha đen; họ bắt đầu chiến đấu để mở đường vào thành. Cây cầu kéo bắt đầu kêu răng rắc, “Đi nào.”
Họ chạy xuống chiếc cầu kéo, nghe tiếng gỗ kêu răng rắc, cảm giác nó dường như đang kéo dần lên phía dưới chân mình. Cây cầu đã kéo cao một mét giữa khoảng không khi họ tới được phía cuối và nhảy xuống cánh đồng.
“Giờ thế nào?” Chris nói, đứng dậy. Anh vẫn còn cầm thanh kiếm đẫm máu trong tay.
“Đường này,” Marek nói, và anh ta chạy thẳng vào trung tâm thị trấn.
*Họ chạy về phía nhà thờ, rồi chạy khỏi trục đường chính, nơi những trận đánh kịch liệt đã kịp diễn ra: lính của Oliver mặc đồ nâu đỏ và xám, còn lính của Arnaut mặc đồ xanh lá cây và đen. Marek dẫn họ đi sang trái ra phía chợ, giờ đã bị bỏ hoang, hàng hóa được đóng gói còn thương nhân đã đi hết. Họ phải tránh vội khi một toán hiệp sĩ của Arnaut cưỡi ngựa phi nước đại phóng qua, hướng về phía lâu đài. Một trong số chúng vung kiếm về phía Marek và chửi gì đó rồi phóng đi. Marek nhìn chúng đi mất, rồi tiếp tục tiến lên.
Chris đang tìm các dấu hiệu chứng tỏ có phụ nữ bị giết và trẻ em bị phanh thây, và anh chẳng biết nên thất vọng hay nhẹ lòng khi mình chẳng thấy gì hết. Thực tế, anh chẳng thấy phụ nữ hay trẻ em nào hết. “Họ đã bỏ đi hoặc tìm chỗ trốn hết rồi,” Marek nói. “Nơi đây chiến tranh xảy ra suốt mà. Người ta biết mình phải làm gì.”
“Đường nào đây?” Kate nói. Cô đang đi đầu.
“Bên trái, về phía cổng chính.”
Họ quẹo trái, đi xuống một con phố hẹp, và đột ngột nghe thấy một tiếng thét phía sau. Họ quay nhìn lại, và thấy một toán lính đang chạy về phía mình. Chris không thể biết được những người lính đó đang truy đuổi họ hay là chỉ chạy qua thôi. Nhưng chẳng việc gì phải đứng chờ để tìm ra đáp án hết.
Marek chạy biến; giờ tất cả đều chạy, sau một hồi Chris nhìn lại thì thấy toán lính đã tụt lại phía sau, và anh có một cảm giác tự hào kỳ cục: họ đã bỏ xa được chúng.
Nhưng Marek chẳng mạo hiểm chút nào. Anh ta quặt gấp vào một con phố nhỏ có mùi rất hôi và nồng. Những cửa hiệu ở đây đều đã được đóng chặt, nhưng có những ngõ hẻm nhỏ chạy giữa chúng. Marek chạy xuống một con ngõ, đưa họ tới cái sân có rào bao quanh phía sau cửa hiệu. Ở giữa sân là những thùng gỗ lớn, và mấy cái giá gỗ bên dưới cái lán. Ở đây mùi hôi gần như không chịu nổi: sự pha trộn của thịt rữa và phân chuồng.
Đây là xưởng thuộc da.
“Nhanh lên,” Marek nói, và họ trèo qua hàng rào, khom người xuống dưới mấy cái thùng hôi hám.
“Ôi!” Kate nói, tay bịt mũi. “Mùi gì vậy?”
“Họ nhúng da trong phân gà đấy,” Chris thì thầm. “Ni tơ trong phân giúp da mềm hơn.”
“Tuyệt,” cô nói.
“Phân chó nữa.”
“Tuyệt.”
Chris nhìn lại và thấy nhiều cái thùng nữa, và da treo đầy trên các giá. Rải rác là những đống nguyên liệu màu vàng bơ bốc mùi nằm chất đống trên nền đất – đó là mỡ cạo ra từ mặt trong da.
Kate nói, “Mắt tôi bỏng rát rồi.”
Chris chỉ tay về phía chỗ bột trắng trên những chiếc thùng xung quanh họ. Đây là những thùng vôi, một loại dung dịch kiềm đặc dùng để loại hết lông và phần thịt thừa sau khi da đã được cạo nhẵn. Và khói vôi đã làm cay mắt họ.
Rồi mọi sự chú ý của anh được đổ dồn về phía con hẻm, nơi anh nghe thấy tiếng bước chân cùng tiếng giáp trụ chát chúa. Qua hàng rào anh thấy Robert de Kere cùng bảy tên lính. Bọn lính vừa chạy vừa nhìn quanh khắp mọi nơi – tìm họ.
Tại sao chứ? Chris băn khoăn, nhìn qua cái thùng. Sao họ vẫn cứ bị truy đuổi chứ? Có điều gì quan trọng ở họ đến mức de Kere phải lờ cuộc tấn công của kẻ địch để đi tìm giết chứ?
Rõ ràng là những tên lính chẳng thích cái mùi trong ngõ này hơn Chris tí nào, vì chẳng mấy chốc de Kere đã gắt lên ra lệnh và cả bọn đều chạy ra khỏi ngõ, hướng về phía con phố.
“Thế là gì đấy?” Chris thì thầm.
Marek chỉ lắc đầu.
Họ nghe thấy tiếng đàn ông quát tháo, rồi tiếng bọn lính chạy lại xuống phố. Chris cau mày. Sao họ có thể bị nghe thấy được chứ? Anh nhìn Marek, anh ta trông cũng đầy bối rối. Họ nghe thấy tiếng de Kere thét gọi từ phía ngoài sân: “Ở đây! Ở đây!” Có lẽ de Kere đã để một người lại phía sau. Chắc chắn thế, Chris nghĩ. Vì anh đã không thầm thì đủ to để có thể bị nghe thấy. Giờ de Kere và người của hắn đã trèo qua hàng rào – tổng cộng có tám tên; họ không đánh lại hết được.
“André,” Chris nói, chỉ về phía cái thùng. “Đấy là dung dịch kiềm đấy.”
Marek cười toe. “Thế thì làm thôi,” anh ta nói, và tựa người vào chiếc thùng.
Tất cả bọn họ đều áp vai vào mặt gỗ và, gắng hết sức, đẩy được cái thùng đổ xuống. Dung dịch kiềm sủi bọt bắn tung tóe ra nền đất và chảy về phía đám lính. Mùi cay xè. Những tên lính ngay lập tức nhận ra đó là gì – bất cứ tiếp xúc nhỏ nào với cái dung dịch ấy cũng có thể làm bỏng da – chúng luống cuống lùi lại phía hàng rào, rút chân khỏi mặt đất. Những cây cột rào bắt đầu rít lên khi kiềm chạm vào. Hàng rào rung lên dưới sức nặng của tất cả bọn chúng; chúng thét lên và luống cuống chạy lại lên hẻm.
“Được rồi,” Marek nói. Anh ta dẫn họ đi sâu vào sân thuộc da, qua một cái lán, rồi vào một con hẻm khác.
*Giờ đã là chiều muộn, và ánh sáng bắt đầu nhạt dần; trước mặt họ là những nông trại đang bốc cháy, bóng lập lòe giận dữ đổ xuống nền đất. Trước đó cũng đã có những nỗ lực nhất định để dập tắt lửa, nhưng rồi họ cũng phải bỏ cuộc; mái rạ cứ thỏa sức cháy, kêu răng rắc khi những cọng rơm cháy bay vút lên trên trời.
Họ đi theo một lối hẹp chạy quanh mấy cái chuồng lợn. Lũ lợn khụt khịt và kêu eng éc, rối lên vì đám cháy gần đó.
Marek tránh chỗ cháy, hướng thẳng tới cánh Cổng phía Nam, nơi họ đi qua khi lần đầu tiên đến đây. Nhưng từ khoảng cách xa, họ vẫn có thể thấy cánh cổng là cả một bãi chiến trường; đường ra gần như bị bịt kín bằng xác ngựa; lính của Arnaut phải cố lách qua những cái xác để tới được phía đội quân phòng thủ bên trong, những người đang chiến đấu ác liệt với rìu và kiếm.
Marek quay người lại, đi về phía vùng nông trại.
“Chúng ta đi đâu đây?” Chris nói.
“Không rõ nữa,” Marek nói. Anh ta đang nhìn lên bức tường bao quanh thị trấn. Lính đang chạy quanh nó, hướng về phía cánh cổng phía Nam để nhập vào trận đánh. “Tôi muốn trèo lên dãy tường đó.”
“Trèo lên tường á?”
“Ở đó kìa.” Anh ta chỉ tay về phía một cái lỗ hẹp, tối tăm trên bức tường, với những bậc thang đi lên. Họ đi lên thành tường bao quanh thị trấn. Từ điểm quan sát ở trên cao này, họ có thể thấy thêm nhiều khu nữa bị chìm trong lửa; lửa càng lúc càng lan gần tới những cửa hiệu. Chẳng mấy chốc rồi cả Castelgard sẽ ngập trong lửa. Marek nhìn về những cánh đồng phía xa. Mặt đất ở cách vị trí này hơn sáu mét. Có vài bụi cây cao chừng mét rưỡi trông đủ dày có thể làm giảm lực va chạm. Nhưng càng lúc càng khó nhìn.
“Thả lỏng đi,” anh ta nói. “Cứ để cơ thể mình được thư thái.”
“Thả lỏng?” Chris nói.
Nhưng ngay lập tức Kate đã tung người lên và bám lấy bức tường. Cô thả tay và rơi, đáp xuống đất như một con mèo. Cô ngước nhìn họ và gọi.
“Khá cao đấy,” Chris nói. “Tôi không muốn bị gãy chân đâu…”
Từ bên phải, họ nghe thấy những tiếng quát tháo. Ba người lính chạy dọc bức tường, kiếm lăm lăm trong tay.
“Thế thì đừng làm,” Marek nói, và nhảy xuống. Chris nhảy vội xuống theo sau anh ta, đáp xuống đất, vừa cằn nhằn vừa lăn lông lốc. Anh chậm chạp đứng dậy. Chẳng có cái gì gãy hết.
Anh vừa thấy nhẹ người và khá hài lòng với chính mình, thì loạt tên đầu tiên bay sượt qua tai và cắm phập xuống nền đất giữa hai chân. Lính đang bắn về phía họ từ bức tường phía trên. Marek tóm lấy cánh tay Chris và chạy về phía bụi cây dày đặc cách đó mười mét. Họ sụp xuống và đợi.
Gần như ngay lập tức, thêm nhiều loạt tên nữa bay vút qua đầu họ, nhưng lần này chúng đến từ phía ngoài những bức tường lâu đài. Trong bóng tối càng lúc càng thêm dày đặc, Chris chỉ lờ mờ thấy bóng những người lính mặc quân phục xanh lá cây và đen ở ngọn đồi bên dưới.
“Đó là quân của Arnaut!” Chris nói. “Sao họ lại bắn vào chúng ta?”
Marek không trả lời; anh ta đang bò đi, bụng áp sát xuống đất. Kate bò sát theo sau. Một mũi tên sượt qua Chris, gần đến nỗi xé rách phần vai chiếc áo chẽn của anh, và anh cảm thấy một cơn đau nhói.
Anh thụp người sát đất và bò theo sau họ.