← Quay lại trang sách

06:40:27

Chuông điện thoại reo không ngừng. David Stern ngáp dài, bật ngọn đèn cạnh giường, nhấc ống nghe lên. “Xin chào,” anh nói, giọng lè nhè.

“David, là John Gordon đây. Anh đến phòng dịch chuyển ngay đi.”

Stern quờ quạng tìm kính, nhìn đồng hồ. Sáu giờ hai mươi phút sáng. Anh mới ngủ được ba tiếng.

“Có quyết định cần bàn đấy,” Gordon nói. “Tôi sẽ tới đón anh trong năm phút nữa.”

“Được,” Stern nói, rồi dập máy. Anh ra khỏi giường và kéo rèm cửa ra; ánh mặt trời rực rỡ chiếu vào, rực rỡ đến mức anh phải nheo mắt lại. Anh đi ra nhà tắm để chuẩn bị.

Anh đang ở một trong ba căn phòng thuộc khu nhà thí nghiệm mà ITC để cho các nhà nghiên cứu dùng khi phải ở lại qua đêm. Nó được trang bị như một khách sạn, tỉ mỉ tới cả những chai dầu gội đầu và dầu dưỡng ẩm trên bồn rửa mặt. Stern cạo râu và thay đồ, rồi đi ra hành lang. Anh không thấy Gordon đâu hết, nhưng anh nghe thấy có tiếng nói ở cuối hành lang. Anh đi xuống, nhìn qua những cánh cửa kính vào những phòng thí nghiệm khác nhau. Vào giờ này chúng đều vắng tanh.

Nhưng ở cuối hành lang, anh thấy một phòng thí nghiệm mở cửa. Một nhân viên đang dùng một đoạn dây màu vàng để đo chiều dài và chiều rộng của cửa ra vào. Bên trong, bốn kỹ thuật viên đang đứng quanh một chiếc bàn lớn, nhìn xuống nó. Trên mặt bàn là một mô hình lớn bằng gỗ có màu nhạt mô phỏng pháo đài La Roque và các vùng lân cận. Những người đàn ông đang thì thầm với nhau, và một người cẩn thận nâng mép bàn lên. Dường như họ đang tính cách thế nào để chuyển nó đi.

“Doniger nói rằng anh ta phải có cái này,” một kỹ thuật viên nói, “để trưng ra sau buổi thuyết trình.”

“Tôi không biết là chúng ta sẽ đưa nó ra khỏi phòng thế nào,” một người khác nói. “Nó vào đây bằng cách nào?”

“Họ làm nó ở đây.”

“Sẽ được thôi,” người đàn ông bên cửa nói, khớp chiếc thước dây lại.

Tò mò, Stern bước vào phòng, nhìn mô hình kỹ hơn. Nó mô phỏng tòa lâu đài, khá tỉ mỉ và chính xác, ở trung tâm của một tổ hợp lớn hơn nhiều. Phía trước tòa lâu đài là một vòng rừng cây, và phía ngoài nó là một tổ hợp kiến trúc vững chắc gồm có nhà và một mạng lưới đường sá. Nhưng chẳng có thứ nào thực sự tồn tại hết. Vào thời Trung Cổ, tòa lâu đài chỉ đứng trơ trọi một mình trên cánh đồng.

Stern nói, “Mô hình gì đây?”

“La Roque,” một kỹ thuật viên nói.

“Nhưng mô hình này không chính xác.”

“Ồ, có chứ,” kỹ thuật viên nói, “hoàn toàn chính xác đấy. Ít nhất là cũng theo những bản vẽ kỹ thuật mới nhất mà họ đưa cho chúng tôi.”

“Những bản vẽ kỹ thuật nào?” Stern nói.

Nghe thế, những kỹ thuật viên lặng đi, vẻ lo lắng ánh lên trên nét mặt họ. Giờ Stern thấy có những mô hình khác: của Castelgard, và cửa tu viện Sainte-Mère. Anh thấy có những hình vẽ lớn trên các bức tường. Giống như văn phòng kiến trúc vậy, anh nghĩ.

Đúng lúc đó, Gordon ngó đầu vào qua cánh cửa. “David à? Đi thôi.”

*

Anh đi xuống hành lang cùng với Gordon. Ngoái nhìn qua vai, anh thấy những kỹ thuật viên đã xoay mô hình lại và đang khiêng nó qua cửa.

“Thế là thế nào vậy?” Stern nói.

“Nghiên cứu phát triển vùng,” Gordon nói. “Chúng tôi làm cho tất cả các khu dự án. Ý tưởng là thể hiện rõ môi trường xung quanh khu di tích lịch sử, để bản thân khu di tích được bảo tồn cho du khách và các học giả. Họ nghiên cứu khung cảnh, những thứ kiểu thế.”

“Nhưng thế thì có liên quan gì tới các anh?” Stern nói.

“Chính là mối quan tâm của chúng tôi đấy chứ,” Gordon nói. “Chúng tôi sẽ phải bỏ ra hàng triệu đô trước khi một khu di tích được hoàn toàn phục hồi. Và chúng tôi không muốn nó bị làm lộn xộn bởi một trung tâm mua sắm hay một đống các khách sạn cao tầng. Thế là chúng tôi cố làm các đề án di tích lớn hơn, để xem liệu có thể xin chỉ đạo của chính phủ địa phương được không.” Anh ta nhìn Stern. “Nói thật nhé, tôi chưa bao giờ thấy nó có gì đặc biệt hấp dẫn hết.”

“Thế còn phòng dịch chuyển thì sao? Chuyện gì đang xảy ra ở đó vậy?”

“Tôi sẽ cho cậu xem.”

*

Nền nhà cao su của phòng dịch chuyển đã được dọn hết các mảnh vỡ và đươc lau chùi sạch sẽ. Ở những nơi a xít ăn mòn qua lớp cao su, các công nhân đang cẩn thận thay thế. Hai trong số những tấm chắn thủy tinh đã được dựng lên, và một tấm đang được một người đàn ông đeo cặp kính dày cộp với một ngọn đèn kỳ cục trên mũ đứng kiểm tra cực kỳ kỹ lưỡng. Stern nhìn lên khi những tấm kính lớn tiếp theo được đưa vào bằng cần trục từ khu dịch chuyển thứ hai, vẫn đang trong giai đoạn chưa hoàn chỉnh.

“May là chúng ta vẫn còn có phòng dịch chuyển khác đang trong quá trình xây dựng,” Gordon nói với anh. “Nếu không thì, sẽ phải mất cả tuần để đưa những tấm kính kia xuống đây đấy. Nhưng các khung kính đã ở ngay đây rồi. Tất cả những gì chúng ta cần làm là chuyển chúng đi thôi. Rất may đấy.”

Stern vẫn đang ngước nhìn lên. Anh đã không nhận ra những tấm kính chắn lại lớn đến thế. Treo phía trên đầu anh, những tấm kính cong vòng kia dễ phải cao tới hơn ba mét và rộng tới hơn năm mét, và chắc phải sâu tới hơn nửa mét. Chúng được đưa bằng những thiết bị dạng cái địu về phía những bệ chống đặc biệt được dựng lên ở sàn nhà bên dưới. “Nhưng,” Gordon nói, “chúng tôi lại không có các thiết bị dự trữ. Chúng tôi chỉ có đúng một bộ hoàn chỉnh thôi.”

“Thế thì sao?”

Gordon đi tới chỗ một trong những tấm kính đã được dựng sẵn. “Về cơ bản, ta có thể coi những thứ này là những chiếc bình đựng rượu bằng thủy tinh lớn,” Gordon nói. “Chúng là những cái bình chứa cong được đổ đầy qua một cái lỗ trên đỉnh. Và khi chúng tôi đã đổ đầy nước vào chúng, chúng sẽ trở nên rất nặng. Khoảng năm tấn mỗi chiếc. Đường cong giúp tăng sức chịu lực. Nhưng điều làm tôi lo ngại lại chính là khả năng chịu lực ấy.”

“Sao lại thế?” Stern nói.

“Lại gần hơn đi.” Gordon lướt ngón tay lên bề mặt tấm kính. “Thấy những cái lỗ nhỏ xíu kia chứ? Những cái chấm bé xíu màu xám ấy? Chúng nhỏ thôi, nên ta sẽ chẳng bao giờ để ý đến trừ khi ta nhìn thật cẩn thận. Nhưng chúng là phần lỗi mà trước đây không hề có. Tôi nghĩ vụ nổ đã bắn những giọt a xít flohydric vào căn phòng kia.”

“Và giờ các miếng kính đã bị dính a xít.”

“Đúng. Một chút. Nhưng nếu những cái lỗ này mà làm yếu những tấm kính, thì các tấm chắn sẽ bị nứt khi chúng được đổ đầy nước và những tấm kính sẽ phải chịu áp lực rất lớn. Tệ hơn, những tấm kính này có thể bị vỡ nát hết.”

“Nếu thế thi sao?”

“Thì chúng ta sẽ không có đủ hệ thống chắn quanh khu này nữa,” Gordon nói, nhìn thẳng vào Stern. “Trong trường hợp đó, chúng tôi không thể đưa các bạn của anh trở lại một cách an toàn được. Họ sẽ có nguy cơ phải chịu rất nhiều lỗi dịch chuyển.”

Stern chau mày. “Các anh có cách nào kiểm tra các tấm kính không? Xem thử liệu chúng có chịu được không?”

“Không hẳn, không. Chúng ta có thể kiểm tra áp suất của một tấm, nếu chúng ta không ngại làm vỡ nó, nhưng vì chúng ta không có tấm kính thừa nào hết, nên tôi sẽ không làm thế đâu. Thay vào đó, tôi đang tiến hành một cuộc kiểm tra trực quan phân cực vi mô.” Anh chỉ tay về phía một kỹ thuật viên trong góc phòng đeo cặp kính dày cộp, đang kiểm tra các tấm kính. “Bài kiểm tra đó sẽ chỉ ra các đường nứt tiềm ẩn – luôn tồn tại trong tất cả các tấm kính – và cho ta biết là liệu nó có sắp bị vỡ hay không. Và anh ta đang cầm một chiếc máy ảnh kỹ thuật số sẽ truyền thẳng các điểm dữ liệu vào máy tính.”

“Các anh định mô phỏng trên máy tính?” Stern nói.

“Sẽ chỉ ở dạng rất thô sơ thôi,” Gordon nói. “Có lẽ cũng chẳng đáng làm nữa, nó rất thô. Nhưng kiểu gì tôi cũng sẽ làm.”

“Thế điểm cần quyết định là gì thế?”

“Là khi nào thì đổ đầy các tấm kính.”

“Tôi không hiểu.”

“Nếu chúng ta cho nước vào ngay bây giờ, và chúng chịu được, thì mọi chuyện đều ổn. Nhưng ta chẳng thể chắc được. Vì một trong những chiếc bể chứa có thể có điểm yếu, mà điểm yếu đó sẽ chỉ vỡ ra sau một khoảng thời gian chịu áp lực nhất định. Thế nên đang có tranh cãi xem có nên chỉ đổ đầy bể vào phút cuối hay không.”

“Các anh đổ chúng nhanh được đến đâu?”

“Khá nhanh đấy. Chúng tôi có một ống vòi rồng ở dưới này. Nhưng để giảm tối đa áp lực, dẫn nước từ từ thôi thì tốt hơn. Trong trường hợp đó, sẽ phải mất gần hai tiếng để đổ đầy chín tấm chắn.”

“Nhưng không phải là các anh đã nhận được tín hiệu nhảy trường từ hai tiếng trước rồi sao?”

“Phải – nếu phòng điều khiển hoạt động tốt. Nhưng các thiết bị trong phòng điều khiển đã bị tắt mười tiếng rồi. Khói a xít đã bốc lên đó. Chúng có thể đã ảnh hưởng tới các thiết bị điện. Chúng tôi không biết là chúng còn hoạt động tốt hay không nữa.”

“Giờ tôi hiểu rồi,” Stern nói. “Và mỗi bể chứa thì lại khác nhau.”

“Đúng. Mỗi bể đều có điểm khác.”

Đây đúng là một vấn đề khoa học kinh điển trong thế giới thực, Stern nghĩ. Cân đong các nguy cơ, cân đong các khả năng. Hầu hết chẳng ai hiểu được rằng các vấn đề khoa học chủ yếu tồn tại dưới dạng này. Mưa a xít, hiện tượng trái đất nóng dần lên, sự rửa trôi, hiểm họa ung thư – tất cả những câu hỏi phức tạp này luôn là những vấn đề cân đối đa tác động và đòi hỏi những quyết định chủ quan. Các dữ liệu nghiên cứu chính xác đến đâu? Những nhà khoa học thực hiện nghiên cứu đáng tin đến đâu? Quy trình mô phỏng của máy tính đáng tin cậy đến đâu? Những dự đoán tương lai quan trọng đến thế nào? Những câu hỏi này cứ lặp đi lặp lại. Hiển nhiên là giới truyền thông chẳng bao giờ lại quan tâm tới những thứ rắc rối phức tạp, vì chúng sẽ thành những cái tít chẳng hay ho gì. Kết quả là, mọi người nghĩ khoa học rõ ràng và dễ hiểu, trong khi nó chẳng bao giờ như thế hết. Kể cả những ý niệm được thừa nhận rộng rãi nhất – như là vi trùng có khả năng gây bệnh – cũng chưa được chứng minh một cách triệt để như mọi người nghĩ.

Và với trường hợp đặc biệt này, trường hợp có liên quan trực tiếp đến sự an toàn của các bạn anh, Stern phải đối mặt với tầng tầng lớp lớp những điều không chắc chắn. Không chắc là những chiếc bể chứa kia đủ an toàn. Không chắc là liệu phòng điều khiển có thể cho ra những cảnh báo thích đáng. Không chắc là liệu họ nên từ từ dẫn nước vào các bể chứa bây giờ, hay thật nhanh vào phút cuối. Họ sẽ phải ra quyết định chủ quan. Và rất nhiều sinh mạng sẽ phụ thuộc vào quyết định ấy.

Gordon đang nhìn chằm chằm vào anh. Chờ đợi.

“Có chiếc bể nào không bị rỗ không?” Stern nói.

“Có. Bốn chiếc.”

“Thế thì giờ hãy dẫn nước vào bốn chiếc bể đó đi,” Stern nói. “Rồi đợi kết quả phân tích phân cực và mô phỏng của máy tính trước khi dẫn nước vào các bể còn lại.”

Gordon chậm rãi gật đầu. “Đúng như những gì tôi nghĩ,” anh nói.

Stern nói, “Anh nghĩ gì? Những chiếc bể chứa khác có ổn không?”

“Suy đoán của tôi,” Gordon nói, “là chúng ổn. Nhưng chúng ta sẽ biết rõ hơn trong vài giờ nữa.”

* 06:40:22

“Ngài André, tôi mong ngài đi đường này,” Guy de Malegant nhũn nhặn cúi đầu và vẫy tay.

Marek cố giấu sự ngạc nhiên. Khi phóng ngựa vào La Roque, anh đã hoàn toàn tin tưởng rằng Guy và người của hắn sẽ giết anh ngay lập tức. Thay vào đó, họ lại đối xử với anh đầy vẻ kính trọng, gần như đối với một vị khách danh dự vậy. Vào sâu trong thành, trong cái sân sâu nhất, anh thấy đại sảnh, giờ đã được thắp đèn sáng trưng.

Malegant dẫn anh đi qua sảnh lớn rồi vào một ngôi nhà bằng đá kỳ cục ở bên tay phải. Tòa nhà này có cửa sổ không chỉ được gắn cửa chớp gỗ mà còn có cả kính làm bằng bong bóng lợn trong suốt nữa. Nến được đặt trên các ô cửa sổ, nhưng chúng lại ở phía ngoài, thay vì ở trong phòng.

Anh đã biết tại sao từ trước cả khi bước vào tòa nhà nơi chỉ có một căn phòng đơn cỡ lớn. Dựa vào bức tường là những bao vải màu xám tiết diện cỡ nắm đấm được chất cao ngất trên những cái giá gỗ dựng trên nền nhà. Trong góc nhà, những quả đạn sắt được xếp thành những chồng kim tự tháp đen xì. Căn phòng có một mùi rất đặc trưng – mùi chua và hắc – và Marek biết đích xác mình đang ở đâu.

Kho vũ khí.

Malegant nói, “Được rồi, thưa Học giả, chúng tôi đã tìm được một trợ lý giúp ngài rồi đây.”

“Rất cảm ơn anh vì điều đó.” Ở chính giữa phòng, Giáo sư Edward Johnston đang ngồi khoanh chân trên nền nhà. Hai chiếc chậu bằng đá đựng hỗn hợp bột được đặt sang một bên. Ông đặt chiếc chậu thứ ba giữa hai đùi, và một cái cối đá, ông đang xay một thứ bột xám bằng những động tác thật đều, thật tròn. Johnston không hề dừng lại khi thấy Marek. Ông cũng chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên hết.

“Chào André,” ông nói.

“Chào Giáo sư.”

Vẫn tiếp tục xay. “Em ổn chứ?”

“Vâng, em ổn ạ. Chân hơi đau một chút.” Thực tế là chân Marek đang nhói lên, nhưng vết thương khá sạch; nước sông đã rửa sạch nó, và anh nghĩ rằng nó sẽ lành trong vài ngày tới thôi.

Giáo sư tiếp tục xay, thật bền bỉ, không ngừng nghỉ. “Thế là tốt, André,” ông vẫn nói bằng giọng thật điềm tĩnh. “Những người khác đâu?”

“Chris thì em không biết,” Marek nói. Anh đang nghĩ lại cảnh Chris ngập trong máu. “Nhưng Kate thì vẫn ổn, và cô ấy đang đi tìm…”

“Được rồi,” Giáo sư nói nhỏ, mắt đảo về phía Guy. Đổi chủ đề, ông lại quay về với cái chậu. “Em biết thầy đang làm gì chứ?”

“Đang trộn ạ,” Marek nói. “Cái chất đó có ổn không thầy?”

“Không tệ, xét theo mọi mặt. Là than từ gỗ cây liễu, lý tưởng đấy. Lưu huỳnh khá tinh, và ni tơ nguồn gốc hữu cơ.”

“Phân chim?”

“Đúng thế.”

“Thế là cũng đúng ý thầy rồi,” Marek nói. Một trong những điều đầu tiên Marek học là kỹ thuật chế tạo thuốc súng, một chất lần đầu được sử dụng rộng rãi tại châu Âu vào thế kỷ mười bốn. Thuốc súng là một trong những phát minh vào loại giống như cối xay nước và ô tô, những thứ không thể được xác định là thuộc về ai hay nơi nào. Công thức nguyên thủy – một phần than, một phần lưu huỳnh, sáu phần kali nitrat – bắt nguồn từ Trung Hoa. Nhưng việc nó đến được châu Âu bằng cách nào thì vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi, và ứng dụng của thuốc súng lúc mới được đưa vào sử dụng chủ yếu là làm chất dẫn cháy hơn là chất gây nổ. Thuốc súng lúc đầu được nạp vào hỏa khí, có nghĩa là “vũ khí tận dụng sức lửa” và cũng chẳng có cái ý nghĩa hiện đại là những thiết bị điểm hỏa phát nổ như súng trường và thần công.

Là vì thuốc súng hồi đầu không dễ nổ mấy, do thành phần hóa học của thuốc súng vẫn chưa được làm rõ, và kỹ thuật chưa phát triển. Thuốc súng sẽ phát nổ khi than và lưu huỳnh cháy thật nhanh, tạo ra một lượng lớn ô xy sẽ kích hoạt sự nổ – ở đây nguồn ôxy là muối nitrat, sau còn được gọi là diêm tiêu. Nguồn nitrat phổ biến nhất là phân dơi trong hang. Trong những năm đầu, thứ phân này chẳng được luyện tinh chút nào, cứ thế là trộn vào hỗn hợp thôi.

Nhưng phát hiện vĩ đại nhất của thế kỷ mười bốn là thuốc súng nổ tốt hơn khi nó được giã thật nhuyễn. Đó được gọi là “quá trình trộn” và nếu được làm chuẩn sẽ tạo ra thuốc súng có độ mịn của bột đá tan. Trong suốt những giờ nghiền bột dường như vô tận kia thì những phân tử nhỏ bé của muối nitrat và lưu huỳnh đã bị ép vào trong những cái lỗ siêu nhỏ trong than đá. Đó là lý do tại sao một số loại gỗ nhất định, như gỗ cây liễu, lại được chọn dùng; than của chúng xốp và nhiều lỗ hơn.

Marek nói, “Em chẳng thấy cái sàng nào hết. Thầy định viên chúng thành hạt ạ?”

“Không.” Johnston mỉm cười. “Người ta chưa nghĩ ra cách viên hạt đâu, nhớ chứ?”

Viên thành hạt là quá trình thêm nước vào hỗn hợp thuốc súng, làm thành một hợp chất sền sệt rồi để khô. Thuốc súng viên có sức công phá mạnh hơn thuốc súng chỉ được trộn khô. Nói trên phương diện hóa học thì nước đã làm tan phần nào muối nitrat, giúp nó thẩm thấu vào trong lớp than, và quá trình đó cũng đưa cả phần lưu huỳnh không tan được vào cùng. Sản phẩm của quá trình này sẽ không chỉ mạnh hơn mà còn bền và ổn định hơn. Nhưng Johnston nói đúng; kỹ thuật viên chỉ được phát hiện vào khoảng những năm 1400 – phải sau thời điểm này tới bốn mươi năm.

“Em làm đỡ nhé?” Marek nói. Trộn là một quá trình dài lê thê; thỉnh thoảng thời gian trộn lên tới sáu hoặc tám tiếng.

“Không. Thầy xong rồi.” Giáo sư đứng dậy, rồi nói với Guy, “Nói với lãnh chúa Oliver rằng chúng tôi đã sẵn sàng cho ngài ấy thấy kết quả rồi.”

“Lửa Hy Lạp sao?”

“Không hẳn,” Johnston nói.

*

Trong ráng chiều muộn, lãnh chúa Oliver đi đi lại lại đầy sốt ruột dọc theo bức tường thành đồ sộ vòng ngoài. Tường ở đây rộng tới hơn năm mét, làm dãy súng thần công gần đó trông thật nhỏ bé. Guy đang đi với hắn ta, cùng với tên Robert de Kere mặt sưng sỉa; tất cả đều ngước lên nhìn đầy háo hức khi Giáo sư tới. “Thế nào? Cuối cùng thì ngài cũng sẵn sàng rồi chứ, Học giả?”

“Thưa ngài, tôi đã sẵn sàng rồi,” Giáo sư nói, mang hai chiếc chậu lớn của mình tới, kẹp dưới hai cánh tay. Marek mang chiếc chậu thứ ba, chất bột mịn đã được trộn với một thứ dầu đặc nồng mùi nhựa cây. Johnston đã dặn anh không được chạm vào thứ hỗn hợp ấy trong bất cứ trường hợp nào, và anh cũng chẳng cần phải được nhắc nhở. Nó có một cái mùi hôi cực kỳ khó ngửi. Anh cũng mang một chiếc bát đựng cát nữa.

“Lửa Hy Lạp? Đấy là Lửa Hy Lạp à?”

“Không, thưa ngài. Còn tuyệt hơn kia. Lửa của Athenaios xứ Naukratis, được gọi là ‘lửa tự động’.”

“Thật thế không?” Lãnh chúa Oliver nói. Mắt hắn nheo lại. “Cho ta xem nào.”

Bên kia khẩu thần công là thảo nguyên phía Đông bao la, nơi những chiếc máy bắn đá đang được xếp thành hàng. Chúng vừa vặn xa khỏi tầm bắn, cách chừng hai trăm mét. Johnston đặt mấy chiếc chậu xuống đất chỗ giữa hai khẩu thần công đầu tiên. Khẩu thần công thứ nhất ông nạp bằng một cái bao lấy từ kho vũ khí ra. Rồi ông đặt một mũi tên thép thật dày cánh bằng thép vào trong khẩu thần công. “Đây là thuốc súng và tên của ngài.”

Xoay sang chỗ khẩu thần công thứ hai, ông cẩn thận trút chất bột được nghiền mịn của mình vào trong một cái bao, rồi nhét vào trong nòng khẩu thần công. Ông nói, “André, đưa cát đây nào.” Marek đi ra trước và đặt bát đựng cát xuống dưới chân Giáo sư.

“Cát để làm gì thế?” Oliver hỏi.

“Để đề phòng, thưa ngài, tránh hỏng hóc.” Johnston nhặt mũi tên thứ hai lên, cầm nó một cách thật cẩn thận, chỉ cầm ở mỗi đầu và nhẹ nhàng đặt nó vào trong khẩu thần công. Đầu mũi tên có rãnh, những cái rãnh được trát đầy một chất dính dính có mùi cay xè.

“Đây là thuốc súng cùng với mũi tên của tôi.”

Người điều khiển thần công trao cho Giáo sư một thanh gỗ mỏng, một đầu đỏ rực. Johnston chạm vào khẩu thần công đầu tiên.

Một vụ nổ nhỏ: một chùm khói đen, và mũi tên bay về phía cánh đồng, hạ xuống cách chiếc máy bắn đá gần nhất chừng một trăm mét.

“Giờ đến thuốc súng và tên của tôi.”

Giáo sư chạm vào khẩu thần công thứ hai.

Có một tiếng nổ lớn và một luồng khói đen kịt, mũi tên bay ra chỗ cái máy bắn đá, cách chừng ba mét. Nó rơi xuống đám cỏ.

Oliver khịt mũi. “Thế là tất cả đấy à. Ngài không phiền nếu ta…”

Ngay khi đó, mũi tên làm bùng lên một quầng lửa, bắn những đốm lửa tròn ra khắp mọi hướng. Chiếc máy bắn đá bắt lửa ngay lập tức, và những người làm trên cánh đồng vội chạy về trước, mang những túi nước của ngựa ra dập lửa.

“Ta thấy rồi…” Lãnh chúa Oliver nói.

Nhưng nước dường như càng làm lửa lan rộng hơn, không hề dập được nó. Cứ sau mỗi lần nước dội vào, lửa lại càng bùng lên cao hơn. Những người đàn ông giật lùi lại, chẳng biết phải làm gì. Cuối cùng, họ đành trơ mắt đứng nhìn chiếc máy bắn đá cháy rụi trước mặt mình. Trong giây lát, nó đã chỉ còn là một đống gỗ khét lẹt.

“Thề có Chúa, Edward và Thánh George,” Oliver nói.

Johnston hơi cúi người, mỉm cười.

“Ngài bắn được xa gấp đôi và có mũi tên có khả năng tự bốc cháy – sao làm được vậy?”

“Thuốc súng được nghiền nhuyễn nên nổ dữ dội hơn. Mũi tên được tẩm dầu, lưu huỳnh và vôi sống, trộn đều với xơ cây gai. Cứ chạm vào nước là sẽ bắt lửa ngay – ở đây là do cỏ ướt. Đó là lý do tại sao tôi lại có một chậu cát, để tránh dù chỉ chút xíu hỗn hợp dính vào tay và bắt lửa do độ ẩm trên tay tôi. Đó là loại vũ khí tinh tế nhất, thưa ngài, và sử dụng nó cũng cần phải rất tinh tế.”

Ông quay sang chỗ cái chậu thứ ba đang ở gần Marek.

“Giờ, thưa ngài,” Johnston nói, nhặt một cái que gỗ lên, “tôi mong ngài hãy quan sát thật kỹ những gì sẽ xảy ra tiếp theo đây.” Ông ấy nhúng cái que vào chiếc chậu thứ ba, làm đầu que ngập dầu, mùi hỗn hợp thật khủng khiếp. Ông giơ cái que lên. “Như ngài thấy, chẳng có thay đổi gì hết. Và cũng sẽ chẳng có thay đổi gì trong hàng tiếng, hàng ngày, cho tới khi…” Bằng động tác điệu nghệ như của một nhà ảo thuật, ông đổ một cốc nước nhỏ lên cái que.

Cái que kêu xèo một tiếng, bắt đầu bốc khói, và rồi bùng lên trong tay Giáo sư. Ngọn lửa có màu cam nóng rực.

“A,” Oliver nói, thở hắt ra đầy sảng khoái. “Ta phải có một lượng lớn thứ này. Ngài cần bao nhiêu người để nghiền và làm chất đó?”

“Thưa ngài, hai mươi hoặc hơn. Năm mươi được thì tốt.”

“Ngài sẽ có năm mươi người, hoặc nhiều hơn nếu muốn,” Oliver nói, xoa xoa tay. “Ngài làm nhanh đến độ nào?”

“Công đoạn chuẩn bị không mất quá lâu đâu, thưa ngài,” Johnston nói, “nhưng không thể làm một cách nóng vội được, vì đó là một công việc rất nguy hiểm. Và khi đã được hoàn thành, để hợp chất đó trong thành là rất mạo hiểm, vì Arnaut chắc chắn sẽ tấn công ngài bằng các hỏa khí.”

Oliver khịt mũi. “Ta không quan tâm đến việc đó, Học giả ạ. Làm ngay đi, và ta sẽ dùng nó ngay trong tối nay.”

*

Trở lại với kho vũ khí, Marek đứng nhìn Johnston cho đám lính xếp hàng mười người một, một cái bát nghiền đặt trước mặt mỗi người. Johnston đi xuống cuối mỗi hàng, thỉnh thoảng dừng lại để chỉ dẫn. Những người lính đang càu nhàu về thứ họ gọi là “việc nhà bếp”, nhưng Johnston nói với họ rằng những thứ này, theo cách nói của ông, là dược liệu của chiến tranh.

Vài phút sau thì Johnston đi ra ngồi cùng với anh ở góc nhà. Nhìn những người lính làm việc, Marek nói, “Doniger có cho thầy nghe bài diễn thuyết về việc chúng ta không thể thay đổi được lịch sử không?”

“Có. Sao thế?”

“Dường như chúng ta đang giúp Oliver giữ thành chống lại Arnaut nhiều quá. Những mũi tên đó sẽ bắt Arnaut phải cho lùi những vũ khí công thành của mình lại – ra ngoài tầm có hiệu quả. Không có vũ khí công thành, không có trận tấn công nào vào pháo đài hết. Và Arnaut sẽ không chịu ngồi chờ đâu. Người của ông ta muốn thắng nhanh – tất cả những cánh quân lưu chuyển đều muốn thế. Nếu họ không thể chiếm thành ngay được, họ sẽ tiến tiếp thôi.”

“Phải, đúng là thế…”

“Nhưng theo lịch sử, thành này sẽ rơi vào tay Arnaut.”

“Đúng,” Johnston nói. “Nhưng không phải do một trận công thành. Vì một kẻ phản bội đã để người của Arnaut vào.”

“Em cũng đang nghĩ về việc đó,” Marek nói. “Chẳng có nghĩa gì hết. Có quá nhiều cánh cổng trong tòa lâu đài này, khó mà mở hết ra được. Làm sao một tên phản bội có thể làm thế được? Em không nghĩ là hắn có thể.”

Johnston mỉm cười. “Em nghĩ là chúng ta có thể đang giúp Oliver giữ thành, và thế là chúng ta sẽ thay đổi lịch sử.”

“Ừm. Em chỉ đang băn khoăn thôi.”

Marek đang nghĩ rằng một pháo đài thất thủ liệu có phải một sự kiện lịch sử quan trọng lắm không, khi tính đến tương lai ấy. Lịch sử của Cuộc chiến một trăm năm có thể được dẫn giải qua hàng loạt những cuộc vây thành và bắt bớ quan trọng. Ví dụ, trong vài năm tới đây, bọn cướp sẽ chiếm thị trấn Moins, ở cửa sông Seine. Xét về bản thân sự kiện, đó chỉ là một chiến thắng nhỏ – nhưng nó sẽ giúp chúng có quyền kiểm soát sông Seine, cho chúng cơ hội chiếm được tất cả các tòa lâu đài dọc về phía Paris. Rồi còn chuyện ai sống ai chết nữa. Vì rất thường xuyên, khi một tòa thành sụp đổ, những người cư ngụ ở đó sẽ bị thảm sát. Có khoảng vài trăm người trong La Roque. Nếu tất cả họ đều sống sót, hàng nghìn hậu duệ của họ có thể dễ dàng tạo ra một tương lai mới.

“Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được,” Johnston nói. “Chúng ta còn bao nhiêu tiếng nữa?”

Marek nhìn vào cái vòng. Đồng hồ ghi: 05:50:29. Anh cắn môi. Anh đã quên việc chiếc đồng hồ vẫn đang chạy. Lần gần đây nhất anh nhìn, vẫn còn tới gần chín tiếng nữa; có vẻ như còn rất nhiều thời gian. Sáu tiếng chẳng có vẻ gì là hay lắm.

“Chưa đầy sáu tiếng,” Marek nói.

“Và Kate đang giữ chip định vị?”

“Vâng.”

“Thế trò ấy đâu?”

“Cô ấy đi tìm đường hầm.” Marek đang nghĩ giờ đã là chiều muộn; nếu tìm thấy lối đi, cô có thể dễ dàng vào được lâu đài trong vòng hai hoặc ba tiếng.

“Trò ấy đi tìm lối đi bí mật ở đâu?”

“Ở nhà nguyện xanh.”

Johnston thở dài. “Chìa khóa của Marcel chỉ đến đấy à?”

“Vâng.”

“Và trò ấy đi một mình à?”

“Vâng.”

Johnston lắc đầu. “Không ai lại đến đó cả.”

“Tại sao ạ?”

“Người ta nói là nhà nguyện xanh được một hiệp sĩ điên canh giữ. Họ nói rằng người yêu của anh ta đã chết ở đó và rằng anh ta đã đau khổ đến độ mất trí. Anh ta đã nhốt chị của nàng vào một tòa lâu đài gần đấy, và giờ anh ta đang giết tất cả những ai dám đến gần tòa lâu đài đó, hay nhà nguyện cũng vậy.”

“Thầy có nghĩ những điều đó là sự thật không?” Marek nói.

Johnston nhún vai. “Chẳng ai biết được,” ông nói. “Vì chẳng ai sống sót trở về hết.”