← Quay lại trang sách

00:01:44

Trạm gác ngoài cùng đã bị đóng; khung cửa sắt nặng nề chặn cửa đã bị kéo xuống và cây cầu kéo đã được dựng lên. Năm người lính canh giờ đang nằm lăn ra trên đất, và Marek kéo khung cửa sắt lên vừa đủ để họ có thể đi qua. Nhưng cây cầu kéo vẫn đang bị đóng kín.

“Chúng ta mở nó ra thế nào đây?” Chris hỏi,

Marek nhìn vào chỗ dây xích, chạy thẳng vào trong trạm gác. “Trên đó,” anh nói, chỉ tay lên trên. Có một cơ cấu tay quay ở trên tầng hai.

“Cậu ở đây,” Marek nói. “Tôi sẽ làm.”

“Quay lại ngay nhé,” Kate nói.

“Đừng lo. Tôi sẽ quay lại mà.”

Khập khiễng chạy lên cái cầu thang xoắn ốc, Marek bước vào một căn phòng nhỏ bằng đá, chật và trống trải, bị choán gần hết bởi cơ cấu tay quay bằng sắt để kéo cây cầu lên. Ở đó anh thấy một ông lão; tóc bạc trắng, run rẩy: sợ hãi giữ lấy một thanh sắt găm vào những mắt xích. Thanh sắt này giữ cây cầu đóng lại. Marek đẩy ông lão qua một bên và giật thanh sắt ra. Dây xích kêu lách cách; cây cầu kéo bắt đầu hạ dần. Marek nhìn nó hạ xuống. Anh nhìn xuống đồng hồ, và giật mình khi thấy nó chỉ 00:01:19.

“André.” Anh nghe tiếng Chris trong tai nghe. “Xuống đi.”

“Xuống ngay đây.”

Marek quay người đi. Rồi anh nghe thấy có tiếng chân, và nhận ra rằng có lính trên mái tháp canh, đang đi xuống xem tại sao cây cầu kéo lại bị hạ xuống. Nếu anh rời phòng bây giờ, chúng sẽ ngay lập tức dừng hạ cầu.

Marek biết điều đó có nghĩa là gì. Anh sẽ phải ở lại lâu hơn.

*

Dưới mặt đất, Chris nhìn cây cầu hạ dần xuống, tiếng xích sắt kêu loảng xoảng. Qua khe hở, anh có thể nhìn thấy bầu trời đêm đầy sao. Chris nói, “André, xuống đi.”

“Có lính.”

“Thế thì sao?”

“Tôi phải giữ dây xích.”

“Anh nói thế là thế nào?” Chris nói.

Marek không trả lời. Chris nghe thấy tiếng gầm, rồi tiếng thét đau đớn. Marek đang đánh nhau ở trên đó. Chris nhìn cây cầu kéo cứ tiếp tục hạ dần. Anh nhìn Giáo sư. Nhưng nét mặt Giáo sư không biểu lộ một chút gì hết.

Đứng bên chiếc cầu thang dẫn xuống đất, Marek giơ cao kiếm. Anh đã giết được tên lính đầu tiên khi hắn xuất hiện. Anh ta cũng giết được tên thứ hai, đá mấy cái xác rơi qua một bên, cho sàn nhà được gọn. Những tên lính khác trên cầu thang đứng khựng lại vì kinh hãi, và anh nghe thấy tiếng rì rầm đầy lo ngại.

Xích nối với cây cầu vẫn tiếp tục kêu loảng xoảng. Cây cầu kéo vẫn đang hạ dần xuống.

“André. Xuống đi.”

Marek liếc nhìn đồng hồ. Nó chỉ 00:01:04. Giờ chỉ còn hơn một phút. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy những người kia đã không chờ cho đến khi cây cầu được hạ xuống; họ đã chạy ra mép cầu, nhảy xuống cánh đồng bên ngoài lâu đài. Giờ anh chỉ lờ mờ thấy họ trong bóng tối.

“André.” Lại là Chris. “André.”

Một tên lính khác chạy xuống cầu thang, Marek vung kiếm lên, chém xuống cái máy, tóe lửa. Tên đó vội lùi lại, quát và đẩy những tên kia đi.

“André, chạy đi,” Chris nói. “Anh còn thời gian mà.”

Marek biết điều đó là sự thật. Anh có thể làm được. Nếu anh bỏ đi bây giờ, bọn lính không thể kéo cầu lên trước khi anh băng qua nó và chạy ra cánh đồng với những người kia. Anh biết là họ đang ở ngoài đó, đợi anh. Những người bạn của anh. Đợi để cùng quay trở về.

Khi quay người định đi xuống cầu thang, anh liếc nhìn ông lão, vẫn đang co rúm người trong góc. Marek băn khoăn không biết sẽ như thế nào nếu sống cả đời ở đây. Sống và yêu, luôn luôn cảnh giác, với tật bệnh và đói kém cũng như chém giết. Sống thực sự trong thế giới này.

“André, anh có xuống không đấy?”

“Không đủ thời gian đâu,” André nói.

“André.”

Anh nhìn xuống cánh đồng và thấy những luồng sáng liên tiếp hiện ra. Họ đang gọi cỗ máy tới. Đã sẵn sàng để quay trở về.

*

Những cỗ máy đã xuất hiện. Tất cả đều đã bước lên. Những luồng hơi lạnh lẽo đang tỏa ra bên dưới đế máy, cuộn lên quanh bãi cỏ tối.

Kate nói, “André, đi nào.”

Một khoảng lặng ngắn. Rồi: “Tôi không đi đâu,” Marek nói. “Tôi sẽ ở lại đây.”

“André, anh đang nghĩ không chín chắn rồi.”

“Có đấy.”

Cô nói, “Anh nghiêm túc đấy chứ?”

Kate nhìn Giáo sư. Ông chỉ chậm rãi gật đầu.

“Cả đời cậu ấy chỉ muốn điều này thôi.”

Chris đặt chip định vị vào khe dưới chân.

*

Marek nhìn từ ô cửa của tháp canh.

“Này, André.” Là giọng Chris.

“Hẹn gặp lại, Chris.”

“Bảo trọng nhé.”

“André.” Là giọng Kate. “Tôi chẳng biết phải nói gì hết.”

“Tạm biệt, Kate.”

Rồi anh nghe tiếng Giáo sư nói: “Tạm biệt, André.”

“Tạm biệt,” André nói.

Qua cái tai nghe, anh nghe thấy giọng nói ghi âm cất lên: “Đứng yên – mở mắt – hít thật sâu – giữ nguyên thế… Rồi!”

Trên cánh đồng, anh nhìn thấy một luồng sáng rực rỡ màu xanh da trời. Rồi một luồng sáng nữa, lại một luồng sáng nữa, dần tan biến, tới khi chẳng còn gì nữa.

*

Doniger đi đi lại lại trên cái sân khấu tối tăm. Trong phòng, ba thành viên quản trị tương lai lặng lẽ ngồi nhìn gã.

“Không sớm thì muộn,” gã nói, “những trò giải trí – những trò giải trí cứ lặp đi lặp lại mãi không ngừng – sẽ khiến con người phải bỏ đi tìm những giá trị chân thực. Giá trị chân thực sẽ là từ khóa của thế kỷ hai mốt. Và chân thực là gì? Bất cứ thứ gì không bị các tập đoàn điều khiển. Bất cứ thứ gì được tạo ra và thiết kế không nhằm mục đích thu lợi. Bất cứ thứ gì chỉ tồn tại vì bản thân nó, mang hình hài của chính nó. Và thứ gì mang những giá trị chân thực nhất? Quá khứ.

“Quá khứ là một thế giới đã tồn tại từ trước khi Disney và Murdoch cũng như British Telecom và Nissan cùng Sony với IBM và tất cả những tổ chức định hình hiện tại này được sinh ra. Quá khứ ở đây trước họ. Quá khứ thịnh suy mà không hề bị họ xâm phạm hay nhào nặn. Quá khứ là thật. Nó mang những giá trị thật. Và điều này sẽ làm cho quá khứ trở nên quyến rũ đến không thể tin được. Vì quá khứ là sự thay thế duy nhất cho hiện tại của các tập đoàn.

“Người ta sẽ làm gì? Họ đã tiến hành rồi đấy. Mảng phát triển nhất của ngành du lịch hiện nay là du lịch văn hóa. Người ta không chỉ muốn đến thăm những địa điểm khác nhau, họ còn muốn được đến những khoảng thời gian khác nhau nữa. Người ta muốn được đắm chìm trong những thành phố Trung Cổ, trong những ngôi chùa khổng lồ, trong những thành phố kim tự tháp của người Maya, khu dân cư cổ của người Ai Cập. người ta muốn được sống và tồn tại trong thế giới của quá khứ. Trong thế giới đã biến mất.

“Và họ không muốn nó chỉ là thứ giả dối. Họ không muốn chúng được làm cho đẹp, hay sửa cho sạch. Họ muốn chúng được chân thực. Ai sẽ bảo đảm cho sự chân thực đó? Ai sẽ trở thành thương hiệu cho quá khứ? ITC.

“Tôi sẽ cho các ngài thấy,” gã nói, “kế hoạch cho những điểm du lịch văn hóa trên khắp thế giới của chúng ta. Tôi sẽ tập trung vào một điểm ở Pháp, nhưng chúng tôi cũng có rất nhiều điểm khác nữa. Trong trường hợp nào cũng vậy, chúng tôi đều chuyển khu di tích đó cho chính quyền địa phương. Nhưng chúng tôi sở hữu khu vực xung quanh, thế có nghĩa là chúng tôi sẽ sở hữu các khách sạn cùng nhà hàng cũng như các cửa hiệu, toàn bộ cơ sở của hệ thống du lịch. Chưa nói gì đến sách báo và phim ảnh hay dịch vụ hướng dẫn và trang phục cũng như đồ chơi và tất cả những thứ khác. Khách du lịch sẽ mất mười đô để được vào khu di tích. Nhưng họ sẽ tiêu năm trăm đô để sống ở ngay bên ngoài nó. Tất cả những thứ đó đều nằm dưới sự quản lý của chúng ta,” Gã mỉm cười. “Dĩ nhiên là để đảm bảo sao cho mọi trải nghiệm đều thật tuyệt vời.”

Một biểu đồ hiện lên đằng sau gã.

“Chúng tôi ước tính rằng mỗi khu di tích sẽ tạo ra khoảng hai tỷ đô mỗi năm, tính cả các hình thức ăn theo. Chúng tôi ước tính rằng tổng doanh thu của công ty sẽ vượt qua con số một trăm tỷ đô một năm trước thập kỷ thứ hai của thế kỷ tới. Đó là một lý do khiến các ngài nên ký hợp đồng với chúng tôi.

“Lý do khác quan trọng hơn. Dưới lớp vỏ du lịch, chúng ta có thể lợi dụng để gây dựng một thương hiệu trí tuệ. Những thương hiệu như thế giờ chỉ được dành cho các phần mềm. Chẳng có cái gì dành cho lịch sử hết. Nhưng lịch sử lại là công cụ trí tuệ hùng mạnh nhất xã hội từng sở hữu. Để tôi nói rõ hơn. Lịch sử không phải là một bản ghi chép hời hợt những sự kiện chết. Nó cũng không phải là một sân chơi cho các học giả thỏa mãn với mấy cuộc tranh luận vớ vẩn của họ.

“Mục đích của lịch sử là giải thích chính hiện tại – rằng tại sao thế giới xung quanh chúng ta lại như thế. Lịch sử cho chúng ta biết thứ gì là quan trọng trong thế giới của chúng ta, và nó đã xuất hiện theo cách nào. Nó nói cho chúng ta biết tại sao những gì chúng ta trân trọng lại đáng trân trọng đến thế. Và nó cho chúng ta biết rằng chúng ta cần lờ cái gì đi, hay vứt cái gì đi. Đó là sức mạnh thực sự – sức mạnh sâu xa nhất. Sức mạnh có khả năng định hình cả một xã hội.

“Tương lai nằm trong tay quá khứ – nằm trong tay ai có khả năng điều khiển quá khứ. Thứ khả năng đó từ trước cho tới nay chưa bao giờ có thể thực hiện được. Nhưng giờ, đã có thể. Những người ở ITC chúng tôi muốn hỗ trợ các khách hàng trong công cuộc kiến tạo thế giới chúng ta đang sống, làm việc và tiêu dùng. Và trong việc đó, tôi tin rằng chúng tôi sẽ có được sự hỗ trợ chân thành và nhiệt huyết nhất của quý vị.”

Chẳng có tiếng vỗ tay nào, chỉ có sự im lặng băng giá. Lúc nào cũng thế mà. Bọn họ phải mất hồi lâu mới hiểu gã đang nói gì. “Cảm ơn sự chú ý của quý vị,” Doniger nói và bước khỏi sân khấu.

*

“Phải là chuyện quan trọng đấy,” Doniger nói. “Tôi không thích cắt ngắn bài diễn văn thế đâu.”

“Quan trọng lắm đấy,” Gordon nói. Họ đang đi xuống hành lang, về phía phòng máy.

“Họ về rồi à?”

“Phải. Chúng tôi đã sửa được mấy tấm chắn, và ba người bọn họ đã quay lại.”

“Lúc nào?”

“Khoảng mười lăm phút trước.”

“Và?”

“Họ đã phải trải qua rất nhiều chuyện. Một trong số họ đã bị thương khá nặng và cần được đưa vào viện. Hai người còn lại thì ổn.”

“Thế? Vấn đề là gì?”

Họ đi qua một cánh cửa.

“Họ muốn biết,” Gordon nói, “là tại sao không ai nói gì cho họ nghe về kế hoạch của ITC.”

“Vì nó chẳng liên quan gì đến họ hết,” Doniger nói.

“Họ đã mạo hiểm cả tính mạng…”

“Họ tự nguyện.”

“Nhưng họ…”

“Ô, kệ mẹ bọn họ đi,” Doniger nói. “Mấy mối lo bất chợt này là gì vậy? Ai quan tâm chứ? Họ chỉ là một lũ sử gia mà thôi – họ cũng sẽ chẳng có việc làm trừ khi họ làm cho tôi.”

Gordon không trả lời. Anh đang nhìn qua vai Doniger. Doniger chậm rãi quay người lại.

Johnston đang đứng đó, cùng cô gái, giờ tóc đã cắt ngắn, và một trong số những nam thanh niên. Họ trông thật bẩn thỉu, rách rưới, và đầy máu. Họ đang đứng cạnh một cái màn hình máy tính, hiển thị cảnh trong khán phòng. Những thành viên ban quản trị giờ đang rời phòng, khán đài đã trống trơn. Nhưng họ chắc chắn đã nghe bài diễn thuyết, hoặc ít nhất cũng là một phần.

“Ồ,” Doniger nói, đột nhiên mỉm cười, “tôi rất vui khi thấy mọi người đã quay trở lại.”

“Chúng tôi cũng vậy.” Johnston nói. Nhưng ông không hề mỉm cười.

Chẳng ai nói gì hết.

Họ chỉ nhìn chằm chằm vào gã.

“Ô, kệ mẹ mấy người,” gã nói. Gã quay về phía Gordon. “Sao anh lại đưa tôi tới đây? Vì những nhà sử học buồn lòng à? Đây là tương lai, dù họ có thích nó hay không. Tôi không có thời gian cho mấy thứ vớ vẩn này. Tôi có cả một cái công ty để điều hành đấy.”

Nhưng Gordon đang cầm một chiếc bình xịt nhỏ trong tay. “Đã có vài cuộc thảo luận, Bob,” anh nói. “Chúng tôi nghĩ là giờ công ty cần ai đó điềm đạm hơn.”

Có một tiếng xịt. Doniger ngửi thấy một mùi cay cay, như ê te.

*

Gã tỉnh lại, nghe thấy một tiếng rền vang, và cái gì đó giống tiếng kim loại bị cắt. Gã đang ở trong cỗ máy dịch chuyển. Gã thấy tất cả bọn họ đều đang nhìn mình chằm chằm từ sau lớp kính chắn. Gã biết là không nên bước ra, một khi nó đã bắt đầu khởi động. Gã nói to, “Chẳng ích gì đâu,” rồi luồng sáng laser màu tím chói nhòa trước mắt gã. Những luồng sáng giờ hiện ra càng lúc càng nhanh. Gã thấy phòng dịch chuyển lớn lên còn người mình càng lúc càng bị thu nhỏ lại – đám bọt sủi ầm khi gã nhỏ dần xuống – rồi tiếng rít vang lên trong tai, gã nhắm mắt lại, đợi cú rơi.

Bóng tối.

Gã nghe thấy tiếng chim ríu rít và mở mắt ra. Việc đầu tiên gã làm là ngước nhìn bầu trời. Trời trong. Thế là không phải Vesuvius. Gã đang ở trong một khu rừng thời Trung cổ với những thân cây khổng lồ. Thế tức là chỗ này không phải Tokyo. Tiếng chim chiêm chiếp rất dễ chịu, không khí ấm áp. Không phải Tunguska.

Gã đang ở chỗ quái nào vậy?

Cỗ máy đang đậu lại trên một sườn dốc; rừng thoải xuống phía trái. Gã thấy ánh sáng giữa những hàng cây cách đó một đoạn. Gã đi ra khỏi cỗ máy và xuống sườn dốc. Chỗ nào đó phía xa, gã nghe thấy những nhịp chậm rãi từ một cái trống.

Gã đi tới nơi cây rẽ ra và nhìn xuống thị trấn kiên cố bên dưới. Nó bị che một phần trong khói lửa, nhưng gã vẫn nhận ra nó ngay lập tức. Ôi trời, gã nghĩ, chỉ là Castelgard thôi mà. Đưa mình quay về đây làm gì không biết?

Gordon, dĩ nhiên, là kẻ đã đứng đằng sau chuyện này. Hắn đã nói vớ vẩn gì đó về việc mấy học giả bị thất vọng. Là Gordon. Thằng khốn đó đã điều khiển công nghệ, và giờ hắn nghĩ mình có thể điều khiển cả công ty nữa. Gordon đã đưa gã về đây, nghĩ rằng gã không thể quay trở lại.

Nhưng Doniger có thể quay lại, và gã chắc chắn sẽ làm thế. Gã chẳng có gì phải lo, vì gã vẫn luôn mang một miếng sứ bên mình. Gã cất nó dưới đế giày. Gã tháo giày ra, và nhìn xuống đế. Tốt, miếng sứ vẫn ở đó. Nhưng nó đã bị đẩy tít vào sâu bên trong, và dường như đã bị mắc kẹt trong đế. Khi gã lắc lắc chiếc giày, nó cũng không chịu rơi ra. Gã thử lấy một cành cây, chọc vào đế, nhưng cành cây bị cong vẹo đi.

Thế là gã cố bẩy đế giày ra, nhưng gã không đủ lực; cái đế vẫn nguyên như cũ. Gã cần thứ gì đó bằng kim loại, một cái chêm hay một cái đục gì đó. Gã có thể tìm được chúng ở trong thị trấn, gã chắc chắn thế.

Gã xỏ giày lại, tháo áo khoác và cà vạt, rồi đi xuống sườn dốc. Nhìn thị trấn, gã nhận thấy có những chi tiết rất lạ. Gã mới ở ngay phía ngoài cánh cổng hướng Đông chỗ bức tường thành, nhưng cánh cổng lại mở rộng. Và chẳng có người lính nào dọc tường thành hết. Thật kỳ cục. Dù giờ có là năm nào đi nữa, đây cũng chắc chắn là thời bình – cũng có những thời điểm như thế, giữa những cuộc xâm lăng của người Anh. Nhưng gì thì gì, gã cũng vẫn nghĩ rằng cánh cổng phải được canh gác cẩn thận. Gã nhìn ra đồng và chẳng thấy ai trên đó hết: Chúng dường như đều bị bỏ bẵng, từng mảng cỏ dại vút lên.

Quái gì thế? Gã nghĩ.

Gã bước qua cổng và tiến vào thị trấn. Gã thấy cổng không được ai canh là vì người lính canh đã nằm chết trên mặt đất. Doniger cúi người xuống nhìn anh ta. Có những vệt máu đỏ rực chảy ra từ quanh mắt anh ta. Người lính gác chắc chắn đã bị đánh vào đầu, gã nghĩ vậy.

Gã quay ra phía thị trấn. Giờ gã thấy khói đang tỏa ra từ những cái lu nhỏ đặt ở khắp mọi nơi – trên mặt đất, trên tường, hoặc trên hàng rào. Và thành phố dường như bị bỏ hoang, vắng lặng giữa ánh nắng rực rỡ ban ngày. Gã bước vào chợ, nhưng chẳng có ai ở đó hết. Gã nghe thấy tiếng các thầy tu cầu nguyện; họ đang tiến về phía gã. Và gã nghe thấy có tiếng trống.

Gã thấy rùng mình.

Mười hai thầy tu, tất cả đều mặc đồ đen, nối nhau đi qua góc đường như đang hành lễ vừa cầu nguyện. Nửa số họ cởi trần, tự quất vào người bằng những sợi roi da cổ gắn đầu kim loại. Vai và lưng họ chảy máu ròng ròng.

Những thầy tu hành xác.

Họ là thế, những người hành xác. Doniger rên nhẹ và lùi xa khỏi những thầy tu, những người vẫn đang tiếp tục nghiêm trang đi qua mà không chú ý gì đến gã hết. Gã tiếp tục bước đi, càng lúc càng xa hơn, cho tới khi lưng gã chạm vào một lớp gỗ.

Gã quay lại thì thấy một cỗ xe ngựa gỗ, nhưng chẳng có con ngựa nào hết. Gã thấy hàng bọc vải chất đầy trên xe. Rồi gã thấy một bàn chân trẻ em thò ra khỏi một bọc trong cái đống đó. Một cánh tay phụ nữ từ một bó vải khác. Ruồi vo ve ầm ĩ. Một bầy ruồi, bu đầy lên những cái xác.

Doniger bắt đầu rùng mình.

Cánh tay có những cục u màu đen kỳ quái.

Cái Chết Đen.

Gã đã biết đây là năm nào. Năm 1348. Năm dịch hạch lần đầu tấn công Castelgard và giết đi một phần ba dân số. Và gã biết nó lan ra như thế nào – theo vết cắn của bọ chét, qua tiếp xúc và không khí. Chỉ hít thở không khí thôi cũng đủ chết. Gã biết là nó tác động rất nhanh, rằng mọi người cứ thế là ngã lăn ra đường. Một phút trước bạn còn cực kỳ khỏe mạnh. Rồi bạn sẽ bắt đầu ho, rồi đau đầu. Một tiếng sau bạn sẽ chết.

Gã đã đứng rất gần người lính ở chỗ cổng. Gã đã cúi rất sát mặt của người đó.

Rất sát.

Doniger tựa vào một bức tường, thấy sự kinh hoàng đến tê dại bắt đầu trùm lên người mình.

Khi ngồi đó, gã bắt đầu ho.