← Quay lại trang sách

Chương 18

Không ai tránh khỏi việc đó được. Hết ngày lao động, mọi người, trắng hay đen, theo hàng một, phải đi qua chỗ khám xét. Người ta sờ nắn toàn thân họ.

Kẻ nào nhờ trời thoát được tay bọn gác thì cũng chẳng có chút cơ may nào lọt qua được máy móc. Hai chuyên viên nhìn thấu qua bụng công nhân xem có viên kim cương nào bị nuốt đi không. Julio đã nghe thấy những chuyện lạ lùng... Một người da trắng gốc Đức hình như đã đưa được mấy viên kim cương ra khỏi vành đai khu mỏ. Cái mánh của anh ta: quấn kẹo cao su xung quanh rồi gói lại bằng giấy bạc bọc kẹo sôcôla. Thật ra chẳng ai biết người da trắng đó nhưng ai cũng nghe câu chuyện về anh ta. Thì đi mà tìm hiểu... Dẫu sao cũng không phải Julio sẽ thử chơi trò láu cá vặt. Kỷ luật kinh khủng. Khu trại được bao vây bằng một hệ thống dây thép ai có dòng điện 250 vôn chạy qua. Đôi khi vào buổi sáng, người ta lại thấy những thú rừng bị điện giật chết dọc hàng rào.

Đến trưa, chúng thối khẳn lên. Đến tối thì khô quắt. Sáng hôm sau, chẳng còn chút dấu vết. Những con thú ăn thịt khác đã nuốt chửng chúng.

Đảm nhiệm việc canh gác khu trại là những người Aryen(59) trán thấp, hộ pháp mà thiển cận, cao lớn như những trái núi mà hoàn toàn không có đầu óc hài hước.

Bản thân họ lại chỉ huy những kíp da đen mặc áo dã chiến, đội mũ sắt mua lại từ đống đồ thừa của quân đội Mỹ. Công ty mỏ cho họ ký những hợp đồng bốn năm, giống như những người anh em da màu của họ. Như vậy họ gắn bó đến chết vào ý thích của những người lãnh đạo công ty. Trái lại, Eric Mortaeldt, giám đốc Công ty hợp nhất Wassenaar, lại có thể đuổi cổ bất cứ nhân viên nào của mình chỉ vì một cơn cớ lăng nhăng nào đó. Ngoài phục trang binh lính ra, những người gác da đen còn khác với những thợ mỏ bởi hàm răng của họ. Tục đỏm dáng của Botswana là đem vạc răng nhọn hoắt ra như răng của Simba, con sư tử, thượng đế của họ.

Một số người ở trại, trong những dãy lán. Những người có gia đình thì được phép hai lần một tuần về thăm nhà, ở ngoại ô Chukudu. Chẳng qua chỉ từ một trại tập trung này sang một trại tập trung khác, một thứ ghetto, họ bị cấm ra khỏi đó để lên thành phố. Một đàn bà da đen có quan hệ tình dục với một người da trắng, nếu bị lộ sẽ bị quật một trăm gậy, điểm xuyết thêm một năm tù ngồi.

Còn người trắng bị những đồng sự khinh rẻ vạch mặt chỉ tên bởi cái hành vi sa đoạ đó, thì phải nộp phạt vi cảnh năm trăm đôla và nằm cách ly ở bệnh viện địa phương để qua những cuộc khám xét và hoá nghiệm cực kỳ cẩn thận. Bọn đen, điều này rõ quá, đều mắc bệnh hoa liễu - còn việc họ bị do chính người trắng đổ cho thì chẳng được kể tới. Chiều tối, trong các câu lạc bộ của mình, những vị tai to mặt lớn của Chukudu nốc bia say bí tỉ, diện những bộ com lê màu kem không thể chê vào đâu nổi. Để đi xi nê người ta vữa chiếu Bác sĩ Zivago tuần trước xong - tất cả họ đều vẫn lễ phục smoking. Sau giờ giới nghiêm, bất cứ người da đen nào bị bắt gặp trên đường đều có thể vào ngồi tù và dĩ nhiên chịu thêm một trận roi ra trò.

Julio đã một hai lần lên thành phố. Tuy anh thuần tuý da trắng nhưng ở Botswana, một gã Bồ Đào Nha không phải là một người da trắng hoàn chỉnh. Ở trong các ba người ta vẫn cho anh thấy rằng họ miễn cưỡng phục vụ anh thôi, rằng chỗ của anh không phải ở đó mà ở công trường, với đám mọi cơ. Anh trở về với lều lán, chẳng hề luyến tiếc gì: ở đây không khí trong lành hơn, cam nhông gái điếm một tuần đến thăm thợ mỏ một lần, thư từ của Manuella nâng tinh thần cho anh.

- Mày cầm cái gì trong tay thế? - Người gác hỏi.

- Một lá thư. - Julio nói.

- Đưa xem.

- Mày không biết đọc mà.

- Đưa đây!

Người gác vò nát nó trong bàn tay khổng lồ của hắn.

- Được!

Manuella là tất cả gia đình của Julio: mẹ anh hoàn toàn lú lẫn đã vào nằm điều trị tại một nhà an dưỡng ở Albufeira. Tháng tháng, Julio trả tiền bệnh viện cho bà. Nhưng lần về thăm Bồ Đào Nha cuối cùng vừa rồi, bà chẳng còn nhận ra anh là ai nữa. Do đó, anh khoái trá và vững tâm khi Manuella lo lắng cho anh. Sáng nay, anh vừa nhận được thư. Bây giờ anh đã có thể đọc thuộc lòng nhiều đoạn: “Em không biết rằng công việc của anh lại nặng nhọc đến như thế, chữ lại được gạch dưới hai lần vậy nên xin anh đừng làm nữa -. về đi, Julio. Ta sẽ ở lại Zurich một hai năm nữa, cô chủ em sẽ tìm cho anh một việc làm yên ổn...

Ở Thụy Sĩ, Julio đã là tài xế nhà sang, nhưng anh ngán cái trò mặc đồng phục và đội mũ lưỡi trai quá. Mẩu rao vặt đọc được trong tờ Thụy Sĩ cho biết rõ là ở Botswana nếu được tuyển, anh sẽ lãnh những 400 đôla một tuần... Manuella lại viết: “Ta sẽ trở về Albufeira, góp tiền hai chúng ta, ta có thể mua được cửa hiệu cho riêng mình.”

Họ đã mơ tưởng tới cái cửa hiệu đó biết bao nhiêu. Một thứ chạp phô có đủ cả thuốc lá, hàng khô và hàng xén... Nếu anh được làm việc ở đây một năm nữa thì cái cửa hiệu cầm chắc trong túi rồi. Các khoản tiền anh và Manuella dè xẻn sẽ đủ để trả đợt đầu tiên. Chỗ còn lại sẽ trả dần và lời lãi thì rất tự nhiên là tự nó sẽ đến thôi... Trước hết, anh phải xin nghỉ để cưới Manuella, trước khi chị cho ra đời đứa con của họ. Không tới năm tháng nữa! Khốn thay, những lời đồn trong trại được người này báo người kia lại nói đến việc sắp đóng cửa công trường, vì lý do an toàn lao động. Công việc nguy hiểm. Trong ba tháng Julio đã trông thấy sáu người da đen chết.

Có tin lại nói các ông chủ của Wassenaar không đóng cửa. Trái lại, còn tiếp tục thăm dò và cho nhân viên hưởng phụ cấp bảo hiểm...

Đúng lúc Julio sắp tới lán số mười một của mình thì một hồi còi hụ ngắn ngủi vang lên. Một tiếng người nói trong loa:

- Tập hợp lập tức trước toà nhà ban giám đốc... Tôi nhắc lại...

- Họ muốn cái gì thế này? - Jaõ, một anh bạn đồng hương hỏi. Đi khắc biết, - Julio nói.

Hàng trăm người đen và trắng đến trước toà nhà bằng bê tông, nơi người ta trả lương cho họ. Trên ban công tầng một xuất hiện giám đốc Eric Mortaeldt. Ông dán miệng vào chiếc loa...

- Tôi có ba tin báo với các anh. Hai cái hay một cái dở. Cái dở trước. Người ta đóng cửa mỏ.

Trong bầu mi lặng sững sờ tiếp theo, tiếng vọng của lời ông bị máy tăng âm làm méo đi một cách lạ lùng vẫn cứ vang lên hai ba lần nữa: “Người ta đóng cửa mỏ... Người ta đóng cửa mỏ... Người ta đóng cửa mỏ...”.

Với tất cả họ, câu nói đơn giản đó có nghĩa là một sự thay đổi toàn diện cuộc đời, người trắng về nước, người đen ở lại ghetto. Thất nghiệp cho cả đen lẫn trắng.

- Bây giờ tin hay. Người ta đóng cửa để xây cho các anh một khu trại đẹp hơn, một công trường an toàn hơn...Theo yêu cầu của tôi và vì lợi ích các anh, những người lãnh đạo cao nhất của công ty đã mở tài khoản cho chúng tôi bốn triệu đôla…

Mortaeldt im lặng, cốt cho những tên rách rưới kia cảm thấy con số đó nó lớn sừng sững ở trước mặt họ như thế nào. Nhưng với đám rách rưới thì nó chẳng nghĩa lý gì cả. Bốn triệu đôla, chúa Hài đồng hay sao Hoả...

- Khoản tiền đó, - giám đốc công trường mỏ nối tiếp, - sẽ được dành hoàn toàn vào sự an toàn của các anh.

- Cuốn xéo cả thì còn an toàn gì nữa? - Một ngươi vô danh, mà đám gác cố dò không được, kêu to lên.

- Chính thế! - Mortaeldt, vốn sính thanh lịch và không ngại ngùng đáp lời một người cấp dưới nói tiếp. - Một khi các công trình kết thúc, chúng tôi lại sẽ mở công trưởng. Các anh lại được tuyển mộ vào!

- Nếu người ta đã xéo thì đâu phải để lại quay về hả?

Lần này, đám gác da đen dò ra được kẻ phiến loạn, một thằng rác rưởi Pháp hay Ý gì đó. Chúng xông vào người đó để mơn trớn hai bên sườn anh ta bằng những cây dùi cui nạp điện.

- Stop! - Mortaeldt nói.

Đám bảo vệ ngừng tay, cụt hứng.

- Các anh hiểu cho là công ty làm như thế không vui thích gì đâu. - Mortaeldt phân trần. - Hiện giờ tất cả chúng ta đều thiệt. Các ông cốp thiệt, vì họ ăn bằng tiền, còn các anh, các anh có cơ gặp tai nạn. Hôm nay 27 tháng Tư 1977. Các anh sẽ thôi việc chiều 30. Công trường lại mở cửa ngày 10 tháng Giêng 1978. Mỗi người các anh sẽ lĩnh thêm hai tháng lương với danh nghĩa bồi thường.

Những ai viết đơn cho chúng tôi biết ý định sẽ làm việc khi công trường mở cửa lại thì lúc trở về sẽ nhận được một nửa tổng số tiền lương của họ trong tám tháng qua.

Mortaeldt hắng giọng, ý thức được là mình đã tôn trọng đến tỉ mẩn ý muốn của Homer Kloppe. Bản telex nhận được ngay sáng nay không còn gì là mập mờ cả.

Mortaeldt cảm động vì một nhà tài chính lại giàu lòng tử tế đến thế đối với những nhân viên của mình... ông mà ở vào địa vị ấy xem... ông kết luận bằng một câu vang động: “Chúc may mắn cho tất cả. Bây giờ làm việc!” rồi biến vào trong toà nhà có máy điều hoà nhiệt độ.

Julio và Jaõ nhìn nhau.

- Cục cứt chưa, - Jaõ nói. - Cậu làm gì bây giờ?

Julio nhún vai vẻ cam phận. Anh phải báo cho Manuella biết anh sẽ trở về Zurich. Anh lại lấy bức thư và đọc lại một đoạn: “Cô chủ em sẽ tìm cho anh một công việc yên ổn”. Đúng, giấy trắng mực đen thế này cơ mà.

Julio quen Renata và biết rằng Manuella yêu quý cô chủ. Có điều con gái ông chủ ngân hàng lấy chồng tối qua, chắc còn có nhiều trò phải làm hơn là bận tâm đến anh.

Đăm chiêu, Julio đi về lán... Anh lấy trong ngăn kéo ra bút máy, giấy và cúi xuống chiếc bàn gỗ trắng, bắt đầu viết.

Bác sĩ Mellon kín đáo bắt mạch Gabelotti.

- Khoẻ chứ?

- Không... - Don Ettore làu bàu, giọng cau có.

Khi tình cờ nhìn trượt vào một khung cửa sổ, ông bèn nhắm vội mắt lại để xua đi cơn chóng mặt đang xâm chiếm ông. Ông gắng tập trung đầu óc vào tờ báo mà không tài nào đọc được lấy một dòng. Và hơn nữa: làm sao quên đi được những câu đáng sợ của người phi hành trưởng? “Chúng ta hiện đang ở trên độ cao mười một ngàn năm trăm mét”. Lúc khởi hành từ New York, Richard Mellon đã nhồi vào ông toàn thuốc an thần rồi. Chỉ khiến ông nhức đầu mà vẫn không hết được nỗi sợ. Để không mất thể diện trước đám người của mình, và nhất là để tự tay mình thu lại được hai tỉ đôla, Gabelotti thấy mình buộc phải làm một chuyến cưỡi máy bay đầu tiên vào cái tuổi năm mươi tư của mình. Co quắp trong chiếc ghế bành hạng nhất mà hai thành tựa bị ông bám vào một cách hung tợn, ông nghiền ngẫm lại tất cả những vụ tai nạn máy bay của những năm gầy đây. Chiếc DC 10 ở Paris, hai trăm người chết... Và vừa tháng trước đấy thôi, ở Santa Cruz tại Tenerife, kinh hoàng của những kinh hoàng: năm trăm sáu mươi hai người chết trong vụ đụng độ trên mặt đất giữa hai chiếc Jumbo Jet, những loại 747, y như chiếc ông đang ngồi đây?

- Richard...

- Don Ettore.

- Khó chịu lắm... Cho tôi một viên thuốc chết tiệt khác nữa đi...

- Ông đã uống quá liều rồi.

- Tôi đếch cần.

- Xin tuỳ ông...

Ông thầy thuốc bấm chuông gọi nữ chiêu đãi viên để lấy nước. Trước khi hiến dâng tài năng cho một khách hàng riêng giàu sang, bác sĩ Mellon đã qua ba năm trong một bệnh viện tâm thần chật ních những người mắc bệnh tự kỷ ám thị và tâm thần phân lập. Ông cũng biết Gabelotti là ai và ông thầm hỏi phải chăng lòng thèm khát không nguôi về quyền lực của ông ta chính lại là sự bù đắp cho một tình trạng thảm hại tính dục. Muốn cho chắc chắn về điều đó, ông sẽ phải tính chuyện với Don, đặt ra những câu hỏi, nhưng có khác nào nói với một tảng đá. Dẫu sao, Gabelotti cũng đã cho ông mười hai nghìn đôla để ông đóng vai vú em trong chuyến đi. Với cái giá đó thì khách khứa ở New York của ông cứ xin mà chờ cho ba ngày nữa nhé!

- Mọi sự ổn cả chứ, Don Ettore?

Sự ân cần của Carmine Crimello làm Gabelotti nổi cáu. Ông cảm thấy rõ hơn mình tội nghiệp và mong manh đến mức nào.

- Cứt, - ông rít lên, không nhìn hắn mà cũng chẳng mở miệng.

Viên cố vấn không chờ nói lần thứ hai. Hắn tụt xuống chiếc cầu thang xoay ốc để đi uống một li rượu tại bar vắt vẻo ngay dưới vòm máy bay. Vấn đề của hắn không phải máy bay mà lại là xe. Một khi không phải ngồi sau tay lái y như hắn phải bấu víu. Nhưng nỗi sợ thật sự và thầm kín của hắn là bị chết bởi một viên đạn.

- Đã thế, Don Ettore, uống hẳn hai viên, - bác sĩ Mellon nói. - Thế không làm ông mất ngủ chứ?

- Tôi không muốn ngủ! Tôi sẽ mơ ngay thấy là tôi đang ở trong một chiếc máy bay và thế là tôi thức dậy.

- Cách đó hay đấy - bác sĩ Mellon cười lúc cúc nói.

- Ông đừng sợ... Ba giờ nữa chúng ta tới Zurich.

- Tôi ngoẻo trước đó rồi.

Lần thứ mười, Don Ettore xem lại để biết chắc rằng cái bao giấy vẫn còn trong chiếc túi đựng bản đồ và những tập quảng cáo. Chết còn cho qua được, chứ ai lại nôn trước mặt thiên hạ...

Chimène đã lo liệu tất cả.

Bà bám vào những chỗ quen biết có thế lực của chồng để cho con gái bà không phải đưa vào nhà xác như những người cảnh sát đầu tiên yêu cầu tại nơi xảy ra thảm kịch, mà là đem về nhà riêng tại đường Bờ Đẹp.

Một cú điện thoại kéo bà ra khỏi đám bạn bè đang bình luận về chuyến bay cô đơn lừng lẫy của Kurt Heinz.

Bà vẫn còn đang cười khi tiếng một người lạ báo với bà rằng Renata vừa là nạn nhân của một tai nạn giao thông.

Rũ rượi liền, bà đi rỉ vào tai chồng cái tin bất hạnh kia.

Không cho ai hay, hai người kín đáo rời căn nhà để nhào tới chỗ người ta mách, hồn vía tán loạn.

Homer bị cái choáng thứ nhất khi nhìn thấy chiếc Bóng Đẹp P9. Ông chịu cái choáng thứ hai khi thấy thân người Renata mà cảnh sát vẫn chưa dịch ra chỗ khác. Con gái ông, gáy gẫy rời, bị thanh thép mạ kền viền phần trên của tấm kính chắn gió đè nát ngực.

Sau đó chút ít, một cảnh tượng kinh hoàng đã diễn ra. Tuy đã gần bốn giờ sáng, phần lớn quanh khách, say bí tỉ, cứ ỳ ra với nhau ở trong phòng khách lớn. Một số vị ông ổng hát các bài lính tẩy, một số khác vui vẻ hò gọi nhau từ đầu kia gian phòng, lại có những người nhẩy ở giữa cái bàn mà những tấm khăn trái vấy ố đã được trang điểm bằng những chai không, chọi lại những chiếc khác móc treo ở trên trần. Thình lình đầu các vị bợm nhậu lắc lư vì một cơn run rẩy: giữa hai cánh cửa chính mở rộng dẫn vào cảnh trí mộng mị mê lú này vừa xuất hiện nhiều người mặc đồ đen khiêng chiếc cáng, trên có xác của Renata phủ khăn. Bất động, chẳng nghĩ đến cả tránh lui nhường đường, các quan khách sửng sốt ngắm nhìn cuộc diễu lượn rồng rắn chậm chạp của đám tang qua giữa những dấu vết phá phách của buổi hội cưới. Mặt đầm đìa nước mắt, Chimène dẫn đầu, Homer Kloppe đi cuối, mất hồn, môi mím chặt, kiên quyết.

Cần phải qua phòng khách để đi tới nơi trước kia là phòng Renata. Chiếc cáng vừa khuất là các vị khách nhón gót tháo lui liền trong một vận động triển khai thầm lặng rộng lớn. Có những nỗi phiền muộn không chia sẻ được.

Đến tám giờ sáng, việc tắm rửa cho Renata xong. Giữa đêm, Chimène đã đánh thức ông giám đốc một xí nghiệp lẽ tang và ông đã phái vội bốn chuyên viên giỏi nhất của mình đến. Bây giờ, Renata nằm nghỉ trên chiếc giường thiếu nữ của mình, mặt bình thản, chết cũng đẹp như lúc sống. Mẹ nàng đã yêu cầu người ta mặc cho nàng bộ váy màu hồng cam, mà lẽ ra nàng mặc cho buổi hôn lễ.

Ở mỗi góc giường thắp một ngọn nến. Tay nắm tay nhau, cùng quỳ xuống, Homer và Chimène suy sụp vì đau đớn, tấm tức khóc. Manuella đến bên họ một lúc, nhưng không nén được thổn thức, chị đã rời khỏi gian phòng, không thể chịu đựng nổi sự im lặng, sự bất động của con người chị hằng yêu mến kia.

Tám giờ mười, Kurt Heinz hé mở cửa ra vào. Bố mẹ vợ anh không nhìn anh. Anh quỳ xuống cạnh hai người và cầu nguyện.

Khi anh ở sân bay trở về, giận lồng lộn lên vì chẳng lỗ chẳng lãi gì trong chính ngay đám cưới của mình, chiếc xe tắc xi của anh bị một hàng rào cảnh sát chặn lại. Ở dưới lề đường, một chiếc xe bỏ mui mầu xám kim loại đổ chổng vó lên trời. Kurt ghét những cảnh ghê rợn.

- Cứ đi! - Anh quay đầu lại nói với tài xế.

Anh lạnh toát cả người và không biết nên có thái độ thế nào đây. Tất cả phụ thuộc vào tính nết của Renata. Nếu nàng xin lỗi và đưa ra những lời giải thích tỉ mỉ về sự nhởn nhơ không thể chịu nổi của mình thì có thể anh sẽ nối lại cuộc đối thoại. Vì nàng mà cuộc hôn nhân cua anh đã thất bại. Hàng trăm vị khách đã coi anh như một thằng ngố. Đồng thời, bố mẹ anh cũng thành ra lố bịch.

- Khoan, - người tài xế nói. - Ôi!... Khổ chưa, một cô gái đẹp thế kia chứ!...

Bất giác Kurt nhìn xem: mặt mày sa sẩm, anh nhận ra ngay bộ váy áo màu lơ của Renata. Anh nhảy xuống xe, thình lình chẳng rét nữa, chẳng còn cảm giác gì nữa, trừ cái vị gỉ sắt là lạ đang tràn ngập miệng anh. Năm phút sau, vợ chồng Kloppe đến. Các bộ lễ phục của họ thành một trái nghịch độc ác với cái cảnh tượng tàn khốc đang được những đèn pha xe cảnh sát chiếu vào sáng rực như ban ngày.

- Có phải xe của người bị nạn không? - Người cảnh sát phụ trách điều tra hỏi Homer.

Ông chủ ngân hàng chua chát lắc đầu: muốn người chủ chiếc xe P9 là ai đi nữa, ông cũng cảm thấy mình chịu trách nhiệm trực tiếp về tai nạn này. Tại sao Chúa lại đưa con gái ông vào trong cái cỗ máy chết chóc bí ẩn mà ông đã không có can đảm làm lành lặn nó kịp thời này nhỉ?

- Tên nạn nhân đúng là Renata Kloppe chứ? - Người cảnh sát hỏi.

- Không phải Kloppe, - Kurt nói. - Heinz. Renata Heinz.

Homer liền quay lưng lại với anh. Kurt về nhà để cởi bỏ bộ áo quần lố lăng, nhung đen và ức áo chiết nếp. Anh tắm nước nóng ở vòi hoa sen rồi buông mình vào một chiếc ghế bành, cố tìm hiểu tại sao mình lại góa vợ sau đám cưới có mười lăm phút như thế.

Cầu nguyện xong, anh nhìn mặt ông bố vợ. Homer Kloppe nắm tay vợ. Đôi khi anh nhìn vào chiếc giường có Renata nằm dài ở trên. Kurt nhìn bộ váy màu hồng cam mà xúc động. Ông chủ ngân hàng thuộc vào một hành tinh khác với anh. Nhưng vào đúng lúc này, Kloppe chỉ là một người anh em với anh, bị một nỗi đau chung gắn bó lại. Anh muốn cho ông cảm thấy điều đó. Anh thì thầm rất khẽ.

- Chúng ta đã làm gì với Chúa để bị Người trừng phạt thế này?

Không hé răng, Homer Kloppe thì thào:

- Anh hãy để chúng tôi tĩnh tâm mặc niệm.

- Renata là vợ tôi! - Kurt sững người lên nói.

- Không phải vợ anh, - Kloppe nói. - Con gái tôi. Anh không có gì phải làm ở đây cả. Anh ra đi.

Miệng Kurt lại thấm tẩm cái vị gỉ sắt lạ lùng kia.

Moshe Yudelman để cho cơn bão đi qua. Hắn nhìn qua cửa sổ, những con chim chuyền từ cành này sang cành nọ, trong bụi nắng vàng rực. Đã lâu hắn chưa nhìn thấy cảnh này. Italo Volpone, mình trần, toát ra một sức mạnh thú vật đáng gờm, vừa đi tới đi lui vừa chà mạnh lưng bằng một tấm khăn tắm. Mỗi động tác của hắn lại làm cho cơ bắp hắn nổi cuộn lên.

- Ai bảo cậu đến? - Hắn nhắc lại đến lần thứ mười.- Ai? Cậu trả lời không?

- Không ai bảo cả, - Moshe nói.

- Cậu làm hết bố láo này đến bố láo khác! Cậu để vợ tớ bị bắt cóc rồi cậu lại bắt tay với đứa bắt cóc. Có lẽ cậu cho là tớ nên mang hoa ra đón Gabelotti hả?

Yudelman quay phắt đầu ra khỏi khung cảnh đồng quê đang ngắm. Hắn thình lình thấy chán mứa cứ bị cằn nhằn thế này.

- Hãy thôi lên án người khác đi! Anh ở đây bốn ngày rồi, anh thu được kết quả gì? Anh có con số tài khoản chưa? Chưa! Còn thịt hai thằng cớm thì việc gì phải sang tận Zurich chứ! Người của anh vẫn có thể làm được ở New York như thường.

Italo đến đứng trước mặt hắn: gã giận đến nhợt cả mặt.

- Nếu cậu thiết cái mạng cậu thì đừng bao giờ nói với tớ cái giọng ấy nhá. Đừng bao giờ!

Moshe nhún vai.

- Tôi cóc cần cái mạng tôi! Tôi nghĩ đến cái mạng anh thì có! “Ban” đang để mắt đến anh. Nếu họ chõ mũi vào công việc chúng ta thì chúng ta chẳng đứa nào thoát được đâu.

- Cậu muốn tớ không phản ứng gì với cái chết của Genco hả? Cậu muốn tớ chịu những sự vô lễ của Gabêlôit mà còn cám ơn nó nữa hả?

- Có cái lúc để giải quyết công việc, có cái lúc để thanh toán nợ nần. Tôi yêu Genco cũng như yêu anh thôi. Anh tưởng chúng tôi làm việc với nhau mười bảy năm liền không sót ngày nào là vì ngẫu nhiên đấy hẳn. Anh biết vì sao ông ấy trở thành một Don không? Tại vì ông ấy luôn luôn biết đợi cái giờ phút đánh trả.

Cơn giận điên cuồng của Italo xẹp liền tức khắc. Moshe nói đúng và chính điều đó làm cho hắn cáu lên. Viên cố vấn là người duy nhất hắn cho phép được có những cơn nói thật.

- Anh không phải là một tên đao búa mà là capo của một gia tộc! Và một capo là phải dùng cái đầu của mình làm vũ khí chứ không dùng khẩu súng.

- À nếu cậu ranh ma như thế thì hãy cho tớ xem cậu định gỡ ra như thế nào nào? - Volpone làu bàu.

- Cái quan trọng là sống sót đã. Tôi vừa đến xong. Tôi chẳng hiểu gì hết, ngoại trừ cái điều là may lắm thì tiền của chúng ta vẫn còn nằm lại ở ngân hàng. Anh đã thật sự làm những gì với lão chủ ngân hàng?

- Những cái vặt... Tớ cho nó dính vào một vụ tai tiếng với một con điếm tồng ngồng trong một nhà thờ khi hắn đang có một buổi thuyết trình ở đó.

- Rồi sau?

- Tớ cho nhổ hết tất cả răng của lão.

- Kết quả?

- Số không! Lão đã đuổi tớ.

- Phương pháp tồi... - Moshe nói nặng nề. - Ngay cho anh có dứt tuột dái nó đi nó cũng không chịu anh đâu. Anh tưởng anh công kích vào một đứa? Lầm! Anh đang có chuyện với toàn bộ nước Thụy Sĩ và tất cả những nhà ngân hàng chết tiệt này, chúng không bao giờ đầu hàng ai đâu.

- Vậy thì làm gì? - Volpone sủa.

Yudelman thở dài, vẻ bối rối, rồi quay lại bên cửa sổ, thần ra ngắm những thảm cỏ.

- Cần phải chờ Don Ettore đến, - hắn nói.

Italo nhìn hắn, vẻ phẫn uất.

- Thế nào? Cậu lại chờ con lợn ấy cho cậu ý kiến?

- Không. Tôi chờ con lợn ấy khóc. Cho đến nay, chỉ có chúng ta nháo lên thôi, không ai nữa. Xảy ra rắc rối là cho cái mặt chúng ta. Gabelotti sẽ được thể chứng minh với “Ban” là hắn đã để chúng ta có dịp may mắn đấy nhưng chúng ta lại làm lỡ mất. Để cho hắn hành động, ta sẽ lập lại được quân bình. Nếu hắn thành công thì ai sẽ ngăn nổi chúng ta hưởng?

- Lão có thể làm được gì hơn tớ không?

- Không, tôi sợ là thế. Nhưng hiện nay, vấn đề không ở đây. Canh bạc đang là chơi tay tư, Italo, Gabelotti, lão chủ ngân hàng... và bọn cảnh sát... Anh đã thua ván thứ nhất rồi, Bé ạ. Để ván thứ hai này cho Gabelotti.

- Còn tớ, trong khi đó tớ ngồi đếm và khoanh tay hả?

- Anh dẹp anh lại để cho lão ngụp lội nào. Ta xem rồi lão xoay xở ra sao...

- Thế ngộ lão thất bại?

- Lúc đó, Italo, tôi thề với anh: tôi sẽ là đứa đầu tiên cố vấn cho những mẹo ra trò!

Khóc mãi rồi, Manuella quyết định là không thể ở lại trong nhà Kloppe được nữa. Chị buồn quá đến nỗi không chịu đựng nổi sự vắng mặt của cô chủ. Chị không thể tưởng tượng mình lại ở được trong những bức tường đã từng ngày vang lên tiếng cười của cô chủ mình. Chị và Renata cùng tuổi, chênh nhau có hai tháng. Chị cảm nhận cái chết của Renata như một nỗi bất công giáng vào chính chị. Chắc Homer và Chimène Kloppe sẽ bảo chị cứ tiếp tục làm.

Chị sẽ trả lời không.

Nhưng chị chờ cho tiến hành xong tang lễ mới báo cho họ biết chị đi. Theo bản năng, chị đưa tay lên bụng, nơi đang chín lên dần dần sự sống của đứa con đang hình thành. Chị cảm thấy cô đơn, lạc lõng và bừng bừng ham muốn gặp lại Julio. Cái chết của Renata đảo lộn ý đồ của hai người. Manuella muốn rời Zurich và trở về Albufeira để lấy chồng. Ngay lập tức. Chờ làm gì? Kệ, chẳng cần cái cửa hiệu mơ tưởng mãi ấy nữa, rồi đây hai người sẽ thu xếp khác đi vậy. Cái chết đang có mặt trong ngôi nhà làm cho chị cảm thấy rõ hơn cuộc sống của chị.

Một cuộc sống khác đi, quí giá đến nhường nào. Rất đơn giản thôi mà. Chị sẽ đánh một bức điện, chỉ vẻn vẹn có một chữ: “Về!”. Chị biết Julio sẽ bỏ lại tất cả mà đi.

Mới sớm tinh mơ, Lando đã phải chịu những cơn cấm cẳn của Volpone. Xem ra việc Moshe Yudelman đến chẳng đem lại được cho hắn chút thoải mái nào. Những khi nổi tam bành, Italo có cái lưỡi đáng sợ, con mắt hung ác, hai má xanh rì những râu là râu...

- Thế mà cậu lại để nó đi đến chỗ đám cưới! Cậu chẳng ra cái chó gì cả!

- Tôi đã cố hết sức...

- Chắc cậu chưa làm cho nó mê mẩn tới khốn đốn đấy thôi, - Volpone cười khẩy, vẻ khinh bỉ. - Tớ lại tưởng cậu là một thằng vô địch...

Lando mệt lử lả. Sau khi đưa Renata đi, hắn đã gọi tắc xi chở về căn hộ của mình. Cái giường bị tàn phá gợi lại cho hắn cuộc chạy tình ái chẳng đưa đến tích sự gì: Renata không trở lại nhà hắn. Mệt bã không ngủ nổi, hắn chỉ chớp thiếp đi, lơ mơ vào lúc sáu giờ sáng. Chiếc đồng hồ báo thức làm hắn chồm dậy lúc bảy giờ. Mười phút sau hắn đã trình diện với Volpone.

Đang mải bàn bạc với Yudelman, Italo đã nhìn hắn ba phút qua khe cửa, đủ để chửi rủa hắn tơi bời, bêu diếu cái thất bại mới mẻ kia. Tím bầm ruột gan, Lando vào gặp Bellinzona ở trong bếp. Thình lình hắn đói. Hắn tự làm lấy cho mình, lẩn mẩn như bệnh hoạn, một chiếc bánh kẹp thịt trong khi Pietro lục tủ lạnh lấy một chai bia.

Lando ngồi ăn bánh. Những sự kiện ngày hôm qua, còn tệ hại hơn cả cái đêm lao động khổ sai thua lỗ của hắn, đang dày vò hắn. Đức mẹ đã muốn hắn thoát khỏi cái số phận mà hai tên khổng lồ đã dành cho đứa bạn hẩm hiu của hắn. Hắn thầm hỏi một đứa đàn ông bị làm nhục như Bellinzona thì làm thế nào lại có can đảm nhìn thẳng vào mặt người khác cơ chứ.

Đúng là Bellinzona tránh con mắt của hắn từ khi chịu nỗi nhục kinh khủng kia, cứ lặng lẽ và cúi gằm xuống, làu bàu trả lời những câu hỏi vô vị của Lando. “Nó sẽ giết mày!” - một đứa anh của Ines bảo Lando. Hay là thằng ấy chỉ muốn dọa cho hắn sợ?

- Này, Pietro, tớ làm cho cậu một cái bánh kẹp thịt nhớ?

Không trả lời. Hoảng vì sự im lặng thình lình, Lando quay lại xem Bellinzona lần mò cái gì ở sau lưng mình.

Tóc hắn dựng ngước lên: đứng im lìm cách hắn một mét, Pietro đăm đăm nhìn vào gáy hắn. Trong tay phải gã, một con dao bếp dài và nhọn. Trong vòng năm tích tắc vô tận, mắt chúng chọi nhau. Lando không tài nào nuốt được nước bọt để tống trôi miếng bánh hắn đang ăn ở trong mồm đi.

- Cái gì mà cậu nhìn tớ như thế? - Lando tru tréo.

Không một lời, Bellinzona quay đi, lúi húi cắt một miếng bánh cho mình.

Khi chạm đất liền, Gabelotti suýt nữa xử sự như tất cả những người đắm tàu: quỳ xuống hôn đất. Mặc dù uống nhiều thuốc an thần, ông vẫn giữ được đầu óc tỉnh táo một cách ghê rợn cho đến lúc hạ cánh, hoảng hồn nhìn đường băng đến gần, mặt đầm đìa mồ hôi, cầm chắc máy bay sẽ bị đâm sầm xuống đất. Nó đi quá nhanh, khó lòng mà dừng kịp trước khi húc vào những nhà cửa hiện lô nhô ở xa xa. Lấy cớ xỉ mũi, ông giở chiếc mùi xoa nhỏ bằng lụa, nhét vào mồm.

- Đấy ông xem, có ghê gì đâu nào! - Mellon nói.

Gabelotti cau có nhìn viên bác sĩ thuê, lập cập tháo thắt lưng an toàn và nhào vội ra cửa, trước khi người ta đẩy thang vào. Carmine Crimello theo sau nhưng khôn ngoan không bình luận gì. Qua màu da nhợt nhạt của Don Ettore, hắn đoán được nỗi đau khổ của ông.

Ngay sau khi qua chỗ khám hộ chiếu, họ đã thấy Badaletto đứng chờ.

- Chào Don Ettore. Xin mời đi theo tôi... Những người kia đã ở đấy rồi...

Theo chỉ thị, Carlo đã đáp chuyến máy bay New York - Milan cùng với Thomas Merta và Angelo Barba. Về phía mình Frankie Sabatini và Simeone Ferro đáp xuống Lyon ở Pháp. Cả hai tốp đều đi xe lửa đến Zurich.

Ở Thụy Sĩ, Luciano Zullino đã tổ chức những chi tiết của chuyến viễn chinh. Zullino là người phụ trách mạng lưới gái điếm của gia đình Gabelotti ở vùng nam Châu Âu. Hệ thống nhà thổ chui, phòng trọ và chặng nghỉ đường dài của hắn rải ra trên một tuyến ngang Tây Đông xuất phát từ Bordeaux và duỗi sang đến tận Áo, với một mũi ở Munich, qua Lyon, Grenoble, Genève, Zurich, Vienne để lan nữa xuống phía nam, tới Barcelone, Madrid, Lisbonne, Roma, Milan và Naples. Tức bảy nước. Ở những nơi mà các bộ trưởng của khối thị trường chung đã thất bại với những vấn đề buồn cười về rau cỏ thì Zullino lại huênh hoang đã giữ được, “Châu Âu của đít đoi” vẫn đứng vững. Không được Don Ettore tán thưởng lắm, ông có xu hướng hạ thấp công việc của người khác, cho rằng vẫn còn có thể tăng thêm được năng suất.

Cho nên khi Angelo Barba yêu cầu hắn bố trí chỗ ăn ở của Don ở Zurich, hắn đã túm ngay lấy cơ hội để làm nổi giá mình.

- Tôi lo tất cho! - Hắn nói.

Hắn chưa gặp Gabelotti bao giờ, nhưng hắn biết ngay ai là ông khi hắn thấy ông hiện ra ở giữa đám phó và cố vấn. Hắn lén khụy đầu gối xuống, cầm lấy cổ tay phải của Don Ettore đặt môi lên.

- Baccio i mani.

Gabelotti có thể chấp nhận dấu hiệu tôn kính như thế ở một nơi công cộng. Nhưng chẳng ai để ý thấy cử chỉ này của Zullino. Ông rút cổ tay lại, làu bàu cái công thức thông lệ:

- Alzati, non sei rifardu (60)...

Hai chiếc Mercedes 600 màu đen, kính màu, chờ họ trước sân bay. Hai tài xế cũng mặc đồ đen vôi vàng mở cửa xe.

- Ông có lên xe không, bác sĩ? - Don Ettore hỏi Mellon.

- Rất cám ơn, tôi đi tắc xi. Ông chắc bận. Ông biết chỗ tìm tôi chứ?

- Sẵn sàng với ông.

Mellon cúi chào, quay gót và mất hút vào trong đám đông. Ettore lên chiếc Mercedes đầu tiên với Luciano Zullino và Angelo Barba. Badaletto, Crimello, Merta, Sabatini và Ferro rúc vào cái xe kia.

Khi nghĩ về chuyến đi, lúc đầu Don Ettore muốn rằng người của mình không đến Thụy Sĩ thành một nhóm. Sau khi tính toán, ông thấy sự thận trọng này là vô ích: tại sao lại ẩn giấu? Ông là một nhà doanh nghiệp đáng kính đi cùng với ban tham mưu của mình. Trái lại, việc tập hợp ở sân bay Zurich lại phục vụ cho các dự án của ông. Ông mong người ta biết ông đến đâu và sắp làm gì ở đó.

- Tôi đã đặt cho ông nhiều dẫy phòng ở khách sạn Commodore, thưa Don Ettore.

- Tốt. Thế còn hoa?

- Ở trong thùng xe!

Luxiano Zullino mở miệng định nói cái gì nhưng lại thôi.

- Bao lâu thì chúng ta đến đó? Gabelotti hỏi.

- Mười lăm phút, - Zullino đáp.

Ettore ngồi thu lu trên đệm da êm mềm mại, đưa mắt nhìn phong cảnh.

- Nếu ông cần ở lại lâu hẻm, - một lát sau Zullino nói tiếp! - tôi có thể thuê cho ông một tòa nhà.

- Cám ơn, - Gabelotti nói. - Sẽ không cần đâu.

Chặng đường sau đó diễn ra im lặng, Zullino suy luận rằng Don Ettore là một “Umo di panza”, một người suy nghĩ ít nói.

Hai chiếc Mercedes đỗ nối nhau.

- Ông đã đến, - Zullino nói.

Xa đó một trăm mét, một chiếc Volkswagen màu kem cũng đỗ lại. Ở trong xe, là Folco Mori, Moshe Yudelman, được Don Ettore cho hay số chuyến bay, đã giao cho hắn theo dõi rồi báo cáo lại. Hắn thấy Don ra khỏi xe, lập tức được vậy kín bởi bảy người, trong đó hắn nhận ra Carmine Crimello và Angelo Barba, hai cố vấn của Gabelotti.

Folco biết rõ hơn ai hết viên cố vấn cuối cùng, Mortimer O'Broin, đã hóa ra thế nào rồi. Người thứ ba là Thomas Merta đáng gờm, phó capo, người thừa hành những công vụ rợn tay của gia đình, thông qua đám lính tráng. Những người khác, Carlo Badaletto, Frankie Sabatini và Simeone Ferro, ba trợ lý của ông: lớp tinh hoa đấy... Ngược lại hắn chưa gặp người thứ bảy bao giờ. Một thoáng qua óc hắn, rất nhanh: chỉ hai hay ba quả lựu đạn là rồi đời cái băng đó thôi mà.

Khi thấy người tài xế lấy ở trong thùng xe ra một bó hoa, hắn ngờ hiểu được cái việc Gabelotti sẽ làm ở nhà xác Zurich. Sau khi bàn bạc và nhau một lát, nhóm người đi vào trong tòa nhà. Chỉ còn hai anh tài xế ở trong hai chiếc Mercedes. Các nhân viên nhà xác không do dự một chút nào.

Họ đã thấy, qua cửa sổ, việc đi tới của cái đám người nổi bật này. Bị những chiếc xe sang trọng và vẻ quyền uy bình thản của Don Ettore đang trị vì lên đám quần thần làm choáng ngợp, họ sẵn sàng tuân lệnh ông.

- Người cộng tác của chúng tôi sẽ đưa ông đi... Nhưng về hoa thì... Tôi xin phép được nói với ông rằng hoa không có lý do nào để vào trong nhiệm sở chúng tôi.

Luciano Zullino đã biết điều này khi người ta sai hắn mua hoa: Nhà xác không phải là nghĩa trang. Nhưng là người kín đáo, hắn không nói ra điều nhận xét đó ở trong xe. Được người nhân viên dẫn đường, họ đi vào trong gian phòng lạnh. Ba bức tường kim loại gồm toàn những ô kéo chồng lên nhau. Người nhân viên nhè nhẹ kéo, một cái cẳng hiện ra.

Như người vốn lâu ngày quen thuộc với nỗi đau nhân thế, ông ta lùi vào một góc xa nhất của gian phòng để cho các vị khách mặc niệm trước cái vật thảm sầu còn lại. Vừa giở quyến sổ đăng ký chốc nữa sẽ mời khách ký vào, ông vừa thắc mắc liệu khi chết, thân thể ông có được hưởng ngần ấy biểu thị kính mến như cái chân này không đây. Trung thực, ông kết luận bằng phủ định và cảm thấy thất vọng và chán nản.

Gabelotti làm một dấu hiệu lộ liễu cho Carlo Badaletto.

Trước khi trở thành một trong những trợ lý của ông, Badaletto đã làm việc ấy mấy năm cho Genco. Nếu một ai có thể nhận dạng được cái chân này thì chính là hắn.

Hắn hơi cúi xuống cái hòm, vẻ ghê tởm hiện trên mặt.

Rồi hắn ân hận cho thấy sự bất lực của mình bằng một bộ điệu dứt khoát.

Don Ettore đã đặt cho hắn cái thử thách này. Carlo không muốn làm phật ý ông. Nhưng ông nghĩ thế nào mà lại cho rằng Genco đã có thể vạch cả chân ra cho hắn xem, - hắn, Badaletto, bắt đầu là thằng lính ở trong gia đình?

Và hơn nữa, vì lý do gì mà ông ta lại vạch cơ chứ?

Sau một thời hạn phải chăng, Don Ettore lắc lắc người.

Không do dự, ông ký vào sổ đăng ký mà người nhân viên đưa ra.

Người bà con bất hạnh của chúng tôi rất được trọng vọng. Tôi chắc là một số lớn bạn bè đã đến phúng ông ta...

- Vài ba người thôi, - người nhân viên nói, không thỏa hiệp.

Gabelotti gật gật đầu rồi đi ra hành lang, cả kíp theo sau. Ở Zurich ông chẳng tiến bộ gì hơn New York cả. Ngoài những lời khẳng định của Italo ra, không có gì chứng tỏ rằng cái chân này là thuộc về Genco. Chẳng chứng tỏ hơn nữa rằng Genco đã chết thật. Trong khi ông làm thằng hề ở Thụy Sĩ thì có thể anh em nhà Volpone đã biến đi mất với tiền của ông rồi cũng nên.

Ông ra đến đường phố thì người thường trực nhà xác đuổi kịp.

- Thưa ông… ông quên hoa...

Don Ettore gật đầu lịch sự cảm ơn. Ông nói với tài xế...

- Để nó vào trong thùng xe!

Đoạn ông nói rít giữa hai hàm răng.

- Nếu Volpone muốn lừa tao thì tao sẽ đích thân đem đặt bó hoa này lên mộ nó.

(59) Chủng tộc da trắng ở Bắc Âu, Bắc Ấn.

(60) Nguyên văn tiếng Ý: Đứng lên, anh không phải người lạ.