← Quay lại trang sách

Chương 20

Việc tuyên bố đóng cửa công trường thay vì làm thợ mỏ thờ ơ thì đã lại kích thích họ. Tựa hồ họ muốn giật ra khỏi lòng đất những hạt kim cương mà cho tới bây giờ nó đã từ chối xuất hiện. Thô thiển hay có giáo dục, viên chức cao cấp hay công nhân công trường, tất cả đều giống nhau, lên cái cơn sốt xưa kia từng làm bùng cháy những người tìm vàng. Khu mỏ cũng tạo ra sự xúc động như mặt thảm xanh của sòng bạc. Mỗi một ngày, mọi sự đều lại mới. Hy vọng dệt tấm diềm dài đặc của nó và nâng đỡ những kẻ suy sụp: cái mà lòng đất từ chối hôm nay thì ngày mai lòng đất lại sẽ cho.

Julio Almeida cũng không ra ngoài thói thường.

Đến Chukudu, anh chỉ nghĩ đến đồng lương cao được nhận, coi khinh một cách mụ mị tính chất lao động của mình. Trong vòng nửa tháng, anh đã bị lây nhiễm như mọi kẻ khác, lao vào săn tìm kim cương. Vật báu sáu khi được anh đưa ra ánh sáng lại tuột khỏi tay anh, cái đó không quan trọng lắm. Cái quan trọng là cưỡng bức được bùn lầy để ăn cắp đi của nó những hạt đá quý.

Cơn đam mê bới lục ở tất cả mọi người mạnh đến nỗi nhiều kẻ không thấy cả còi hụ báo ngày công đã hết.

Từ hôm qua, càng tệ hại hơn. Bằng cách báo trước công trường sẽ đóng cửa trong tám tháng, Eric Mortaeldt đã thổi bùng lên, một cách rất vô tình, cơn điên tìm kiếm ở những người thợ mỏ. Riêng chỉ vì vẻ đẹp của cái vật đó thôi, mỗi người cũng đã hy vọng phát hiện ra được “cục bự” viên đá quý thần thoại có thể cân được tới, trước khi rũ gọt, khoảng giữa một trăm và một nghìn cara. Julio từng thức những đêm dài nghiến ngấu đọc các khảo cứu về môn học đá quý, đã bị mê hoặc đi bởi tính vĩnh hằng của kim cương, giống như trước anh, ba vị vua phương đông đã cho khắc tên mình bằng chữ Ba Tư lên viên kim cương nổi tiếng “Shah” (64) để cho nó bảo trì mãi mãi vong hồn mình vào tận cùng kiệt thời gian: Burhan Nizam II, vua nước Achmednagar, Jehan Đại đế thành Dehli, Fath Ali vua Ba Tư.

Quỳ trong hầm lò, anh mơ tưởng những chuyện thần tiên đó... Dầu sao, chính là những con người như anh, những kẻ vô danh, đã đưa được ra ánh sáng, khỏi cái vỏ đất của nó những viên đá từng làm lẫy lừng những người chiếm hữu chúng, viên Quan Nhiếp chính 420 cara, viên Kim Cương Lam, viên Koh-i-Noor, viên Đại đế Mogol, viên Orlov. Tại sao lại không là anh chứ? Trước đây một tháng, khi qua cũng lối lò này, anh đã bị sửng sốt bởi một chi tiết mà anh muốn kiểm soát. Cần phải làm cho lẹ: trong vài giờ nữa, khu mỏ sẽ đóng cửa và được binh lính canh gác. Lấy cớ kiểm tra đáy hầm lò, anh đã để kíp thợ của mình ở xa lại đằng sau. Đường hầm này, ở tít trong cùng của nó được chống đỡ bằng những thanh gỗ.

Các kỹ sư bắt đào vào càng xa càng tốt. Nhưng trong tận cùng các đường hầm, ở những khoảng không gian chưa hề trải qua một thăm dò nào, đã xảy ra những vụ sụt lở và nhiều người đã chết. Nhiều khúc hầm lò đã được đóng kín lại bằng những hàng rào chắn thô sơ: vài đoạn ván gỗ bắt chéo nhau. Sau này, khi các mạch đá đã được phun phóng bê tông vào thì những người thợ khác, không phải Julio, sẽ moi khoét các vách đá đó bằng rìu. Và sẽ tìm ra... có thể...

Anh liếc lại đằng sau một cách bản năng và chĩa ngọn đèn vào bóng đêm tuyệt đối. Để tới chỗ này, anh đã phải vượt qua hai lần cửa đánh dấu khu vực cấm vào. Anh hoàn toàn đơn độc với tiếng những giọt nước rơi không biết mỏi vào một cái vũng, làm bạn đồng hành duy nhất của mình.

Dùng đầu mũi búa, anh nậy nhanh đinh ở các tấm ván cửa rào chắn. Khi lỗ thủng đủ để lọt qua, anh chui sâu vào trong. Anh chĩa đèn chiếu sáng đầu cùng hầm lò cách chừng hai chục mét: chỗ đó là bắt đầu hang động của Alibaba. Chưa một bàn tay nào vuốt ve lên những tảng đá đó. Chưa một công cụ nào làm rách xước chúng ra.

Đằng sau mỗi tấc đất đều có thể ẩn náu viên kim cương đẹp nhất thế giới. Hơi thở nặng nhọc, đương đầu với điều cấm đoán và điều bất khả xâm phạm, lúc đó Julio mới được hưởng cái lạc thú toàn vẹn mà trước anh, chắc chỉ có Christophe Colomb lúc gặp bến bờ châu Mỹ hay nhà du hành vũ trụ đầu tiên lúc đặt chân lên mặt trăng, đã cảm thụ. Anh đứng bất động một lúc, tim đập dồn dập, bụng thắt lại bởi một cái gì đó còn dữ dội hơn những cảm giác mạnh nhất anh từng trải qua từ trước đến nay. Anh nghĩ tới những gì có thể sánh với trạng thái sảng khoái tuyệt đối này. Không có gì sất. Ngay cái khoái lạc cực điểm mà đôi khi Manuella đã cho anh hưởng cũng thình lình hóa ra nhạt nhẽo. Anh đi vài bước ngập ngừng, tay đặt lên vách hầm cũng với sự nhẹ nhàng giống như khi anh lướt chạm vào bầu vú tròn trịa của một người đàn bà mới mẻ.

Anh lấy đầu ngón tay khẽ cạo cạo đất. Một dòng bụi nhỏ hẹp chảy êm ả xuống dưới chân anh. Anh thận trọng cầm lấy chiếc búa thợ mỏ, đưa mắt chọn cái chỗ, mà theo anh, hình như có khả năng tàng giấu vật báu. Anh bổ từng nhát búa gọn khẽ vào một miếng đá mềm. Lập tức mảng đá rời ra khỏi đó, kéo đá đất trượt theo: nguy hiểm...

Đoạn hầm này chỉ được chống qua loa bằng vài cọc lò đặt vội vàng theo chiều thẳng đứng. Julio phải hành động hết sức thận trọng kẻo sẽ làm vách đá vụn tơi ra. Nhưng có điều anh lại muốn biết, muốn đi xa hơn nữa, đào, đào... Anh đưa mu bàn tay lên lau mồ hôi đang làm cay mắt rồi lại bắt đầu đập khẽ khẽ đầu búa, một mình trong nhân thế, tựa như anh đã từng như thế trong bụng mẹ vậy.

Một ít đất đá nữa lại trượt xuống. Julio đứng im thít.

Nhưng đây là cơ hội duy nhất, một cơ may cuối cùng. Chiều mai, ngày 30 tháng Tư, Công ty Hợp nhất Wassenaar sẽ đóng cửa và chẳng ai, chẳng bao giờ còn có thể kiểm chứng được cái điều Julio dự cảm. Anh lại cạo cạo nữa... Khi anh đã khoét sâu được vào vách ba mươi phân, chiếc búa của anh gặp khoảng trống. Anh bới rộng cái lỗ ra bằng tay cho tới khi đưa được cây đèn vào trong đó. Anh biết mình đã không lầm. Anh đang đứng ở chỗ mở đầu của một “ống điếu”, một thứ ống thông khói do một vụ nổ núi lửa khoét nên và được một nham thạch kiềm bít kín lại, chắc là loại nham thạch kimberlite, không nghi ngờ gì nữa.

Những điều kiện địa chất lý tưởng để phát hiện ra mạch của một vỉa kim cương nguyên sơ.

Run lên vì sốt ruột, Julio bỏ búa cầm lấy cuốc. Cùng với nhát cuốc thứ nhất anh giáng mạnh xuống, các cọc chống lò gẫy sập như những que diêm dưới sức nén của hàng nghìn tấn đá đang ở trong thế cân bằng mong manh.

Hầm lò sụp xuống hết cả chiều dài của nó trong một tiếng sấm rền âm âm. Đã bị vùi lấp nhưng còn sống được vài giây, mồm đầy đất, Julio trong hơi thở hắt cuối cùng đã buột ra những âm tiết hợp thành tên của người vợ, người mẹ của đứa con anh, mà anh sẽ chẳng còn bao giờ biết tới: Manuella.

Người nhân viên hải quan liếc nhanh họ rồi cúi xem hộ chiếu, không tỏ vẻ gì chú ý đặc biệt.

Bốn người mặc con lê màu đen sang trọng. Trong tay họ là chiếc cặp có tính bắt buộc, mà nếu không có nó, thì một nhà kinh doanh xem chỉ giống như cái vốn dĩ ông ta đang là lúc đó: chẳng ghê gớm gì...

- Ta đi nào, các ông...

Vittorio Pizzu, Aldo Amalfi, Vicente Bruto và Joseph. Dotto lập tức mất hút vào trong đám đông vừa được chiếc máy bay 747 New York - Zurich mửa ra ở bãi đậu. Trong túi Pizzu có địa chỉ tòa biệt thự mà Volpone và Moshe Yudelman đang chờ họ ở đó. Hắn bảo Bruto:

- Cậu có biết cái chỗ chúng mình đến là gì không? Phố Các Chủ Ngân Hàng! Ở Thụy Sĩ phải có tên phố như thế.

- Tớ đói, - Bruto nói.

- Ta lấy súng ở đâu nhỉ? - Dotto hỏi.

- Chớ lo, - Vittorio làu bàu. - Italo đã nghĩ tới chuyện đó rồi...

Họ rúc vào trong một chiếc tắc xi. Pizzu không biết qua một tiếng Đức nào hơn các trợ lý của mình bèn đưa cho người tài xế một tờ giấy trên có ghi:

“Sonnenberg Auroro!

- Ja! - Người tài xế vừa nói vừa cho xe chạy.

Trong khi đó, người nhân viên hải quan đã được một đồng nghiệp thế chân, đang gọi dây nói cho trụ sở chính của cảnh sát Zurich.

- Trung úy Blesh?

- Ai hỏi ông ấy?

- Hải quan sân bay. Thượng sĩ Glucke.

- Không có đây, anh bạn ơi, nhưng cứ nói, tôi biết chuyện. Một toán mới đến hả?

- Bốn người.

- Khoan, tôi lấy cái bút chì đã... Nghe đây - Họ từ New York đến. Vicente Bruttore...

- Viết với hai chữ T chứ?

- Vâng, Aldo Amalfi... Joseph Dotto... Vittorio Pizzu.

-Tốt. Anh đã báo cho người chúng tôi biết chưa?

-Đã. Họ đang bám những người kia.

-Lại cám ơn nữa nhé.

-Chào! -Chào...

Giữa trung úy Blesh và đại úy Kirpatrick, mối ác cảm là tức thì. Trước hết Blesh không ưa những anh tóc đỏ. Nhất là khi vốn đã không hài lòng về sự có mặt áp đặt của họ, họ lại còn đổ bộ viện binh lên đất của anh nữa chứ.

- Trợ lý của tôi, trung úy Herbie Finnegan, - Kirpatrick giới thiệu.

Blesh lạnh lùng cúi đầu.

- Ông Scott Dempsey, - Kirpatrick tiếp tục.

Blesh nghiêm khắc nhòm vào cái con người bé nhỏ cười hề hề có vẻ thích thú ghê gớm lắm. Ông ta mặc một áo vét bằng tuýt đã cũ, chiếc cà vạt màu nước biển thì xoắn lại như một mảnh giẻ.

- Các ông là cảnh sát? - Blesh nghi ngại hỏi.

- Không đúng, - Kirpatrick hấp tấp nói.

Ông hắng giọng rồi nói toạc móng heo ra.

- Ông bạn tôi, Scott Dempsey, thuộc Ủy ban chứng khoán và Thị trường chứng khoán.

Blesh cau mày thầm phản đối. Nếu có một ai đó anh không muốn trông thấy bóng dáng ở cái thành phố Zurich tử tế của anh thì chính là một viên chức của cái ủy ban này. Thay vì mời các vị khách ngồi, như trong một lúc sơ ý anh đã có ý định làm thế thật, thì anh lại lạnh lùng nói:

- Tôi ngạc nhiên, đại úy. Tôi lại tưởng là ông chỉ đến một mình và với tư cách cá nhân thôi.

Kirpatrick bật cười to thân mật, điều chẳng phù hợp gì với tình cảm của ông cả. Nếu Blesh ghét người tóc đỏ thì ông, trái lại, ghét tất cả cái gì giống như một dân Thụy Sĩ. Quá nhiều phen, những dấu vết ông theo dõi lại cứ chấm hết ở Lausanne, Genève hay Zurich. Ông tin chắc rằng nếu một cuộc xung đột bất thần, một sai sót nào đó trong một vụ ném bom nguyên tử đem xóa nước Thụy Sĩ đi khỏi bản đồ thế giới thì các đại gia tộc của Công đoàn Bờ biển phía Đông hay Bờ biển phía Tây sẽ đều bị chết ngạt hết. Trong con mắt ông, bất cứ anh Thụy Sĩ nào cũng đều đáng nghi là kẻ tàng trữ một phần kho báu chiến lợi phẩm của Mafia.

- Chính là điều tôi đã nói với ông, trung úy Blesh!

- Như thế, tôi không thấy việc gì khiến một nhân viên đa chức năng của Sở tài chính Mỹ lại phải đến Zurich!

Scott Dempsey cười ngặt cười nghẽo, tựa hồ những lời nói đó không chĩa vào mình, Kirpatrick phát ớn về cái tính nhởn nhơ đó của ông ta.

- Chuyến viếng thăm của ông ấy cũng là thân hữu và cá nhân thôi, - ông thanh minh.

- Tôi rất tiếc phải nói với đại úy, rằng tôi sẽ xem xét để cho lời ông nói trước sau được đúng như thế. Chúng tôi khó lòng tha thứ cho sự đột nhập của viên chức nước ngoài vào lãnh thổ chúng tôi, dù cho họ là của một nước bạn.

Một nước bạn! Kirpatrick suýt chết sặc. Nước nào nhỉ? Nếu người ta gói lãnh thổ Thụy Sĩ vào một chiếc mùi xoa rồi chở nó sang Mỹ thì toàn bộ diện tích của nó chẳng hòng che kín nổi cái xóm Tàu ở New York đâu.

Finnegan bèn chi viện chủ để tránh cho ông một tai nạn nhồi máu não.

- Trung úy, những điều đó chúng tôi đều biết, - anh nói với nụ cười xởi lởi. - Không phải là chuyện hành động gì ở nước ông đâu. Hãy quên chúng tôi là những đồng nghiệp đi mà chỉ đơn giản coi là những trợ lý, những kẻ chỉ điểm không trong biên chế.

Blesh nhìn chằm chằm Scott Dempsey.

- Thưa ông, tôi có thể được biết ông đi chuyến này là nhằm mục đích chính xác gì không?

- Tôi đã xin ông ấy đi với tôi! - Kirpatrick xen vào.

- Tại sao?

Dempsey cười lục cục. Kirpatrick lừ mắt nhìn ông ta.

- Trung úy, trung úy thấy đó, cái vụ chúng tôi đang làm đã vượt quá thẩm quyền chúng tôi....

- Ông làm tôi ngạc nhiên đấy! - Blesh cắt lời. - Trong một lần trò chuyện mới đây, ông khẳng định với tôi đây là một vụ thuần túy hình sự cơ mà.

- Đúng vậy!

- Vậy thì?

Quen đặt câu hỏi hơn là phải trả lời, Kirpatrick cựa quậy bực dọc. Dẫu sao ông cũng không thú thật ra được với cái anh chàng cảnh sát nhãi này những lý do xác thực của việc điều tra. Một người Thụy Sĩ hiểu được cái gì ở các vấn đề sống còn mà sự tồn tại của Công đoàn đặt ra cho Hoa Kỳ cơ chứ?

- Ông không chơi đẹp, đại úy ạ! - Blesh lạnh lùng buông ra.

- Xin lỗi?

- Tôi nói thêm là tôi không thích cả cái cách làm của ông.

Mặt Kirpatrick trở thành đỏ rực như bộ bờm màu lửa của ông. Ông quan sát Finnegan và Dempsey đang lúc cúc cười khe khẽ. Blesh chém mạnh bàn tay.

- Từ cái ngày tôi gọi tới báo về cái chết của thanh tra Mahonney, ông không lúc nào ngừng coi tôi như một thằng ngu cả. Ông nói ông muốn giúp tôi, không đúng? Ông muốn lấy ở tôi tất cả mà chẳng trả lại cái gì hết. Cái đó không phải tình anh em lắm đâu.

Lần cuối cùng Kirpatrick bị sát xà phòng đã cách đây những hai chục năm, lúc ông đang cố thi lên thanh tra. Vậy là ông không còn thói quen đó nữa. Ông im lặng, bàng hoàng, không biết nên xử sự như thế nào. Rất chi đau khổ...

- Cái mà ông đang bận tâm thì tôi cũng biết ngang như ông, có thể còn hơn nữa cơ, - giọng trịch thượng Blesh nói tiếp. - Tất cả các cái bí mật xíu xíu của ông, tôi biết hết trọi. Volpone, Yudelman, Pizzu, Bellinzona, Mori, Dotto, Bruto, Amaphi chúng đang ở giữa các bức tường của tôi đây. Và cả cái băng Gabelotti! Nào Crimello, Barba, Badaletto, nào Merta, Sabatini, Ferro!

Blesh chỉ vào bàn tay xoè rộng của mình rồi gập mạnh nó lại:

- Tất cả ở đây! Còn Rico Gatto, ông biết không? Không! Và Lando Baretto? Không! Ông còn nhiều cái phải biết nữa, đại úy ạ.

Kirpatrick chịu đòn. Finnegan quay đầu đi, ngượng nghịu. Anh thấy hình như Dempsey cũng thôi cười rồi.

- Vậy tôi đề nghị với ông thế này, hoặc nhận hoặc bỏ. Hoặc chúng ta trao đổi thông tin với nhau một cách trung thực và tôi thề với ông rằng nếu phía các ông chỉ trí trá một chút xíu thôi là tôi xé hiệp ước liền! Hoặc ông thích im lặng. Trong trường hợp đó, tôi chẳng giữ các ông đâu.

Kirpatrick cắn môi. Bây giờ mặt ông không đỏ tía nữa mà hơi màu da cam. Ông đưa mắt hỏi Dempsey và Finnegan.

Finnegan nói:

- Đại úy, tôi nghĩ là trung úy nói đúng đấy.

- Khoan - Blesh cắt lời. - Tôi nói thêm là các ông không có một chút quyền lực nào ở Thụy Sĩ cả. Cả quyền lực cảnh sát lẫn quyền lực xem xét các hoạt động ngân hàng của liên bang.

- Chúng tôi còn lại cái gì? - Kirpatrick khó nhọc nuốt nước miếng và hỏi.

- Chẳng gì cả! Trao đổi với nhau vài cái tủ, tôi sẽ cho phép các ông chứng kiến cuộc điều tra của tôi. Các ông được tự do sử dụng các kết luận đó khi đã trở về Hoa Kỳ.

- Nhưng một khi các ông tiến hành bắt giam thì sao?

Blesh bĩu môi giễu cợt.

- Đại úy quên mất một chi tiết! Cho tới khi có bằng chứng ngược lại, thì hiện chưa có một lỗi nào đã xảy ra ở trên lãnh thổ Thụy Sĩ, chưa - lỗi - nào - cả. Trong những điều kiện như thế thì đại úy muốn tôi bắt ai đây? Và vì cái tội gì nào?

Để che đi niềm hả hệ đã trả được thù, Blesh làm ra một bộ mặt cau có và đi đi lại lại trong văn phòng. Thình lình anh đứng lại ở trước Kirpatrick.

- Thế nào? Đồng ý chứ?

Kirpatrick ngập ngùng lùa tay vào bộ tóc đỏ lóe loé của mình. Ông đưa mắt hỏi ý Scott Dempsey và Herbie Finnegan, hai người ra hiệu với ông là bằng lòng.

- Đồng ý, - ông nói làu bàu.

Viên trung úy phác một nụ cười rồi bấm một cái nút. Một người công vụ thò đầu vào.

- Lấy ly, đá và uýtxki Scotch!

- Vâng, trung úy.

Voldemar Blesh quay lại các vị khách.

- Nói thật giữa ta với nhau, tôi cần quái gì nhiều đến vậy sự có mặt của các... đồng bào các ông ở Zurich chứ. Tôi chỉ muốn mỗi một điều là rũ sạch họ đi mà thôi! Nếu họ đủ điên rồ để biến Thụy Sĩ ra thành Chicago thì tôi sẽ giao nộp nguyên như thế này cho các ông.

Anh lại quặp các ngón tay xuống lòng bàn tay mở xòe của mình. Rồi anh nói:

- Đại úy, bây giờ tôi nghe đại úy nào!...

Chẳng có ai trong gian đại sảnh cũng như các gian phòng khác nhau ở tầng dưới mà Lando đã lần lượt chạy qua xem. Hắn vào cầu thang leo bốn bậc một, quên hết mọi nhọc mệt, tập trung vào mỗi việc khẩn cấp duy nhất: báo cho Volpone biết là cảnh sát Thụy Sĩ đã phát hiện ra bọn họ. Trên thềm đầu cầu thang tầng một, hắn đâm xầm phải Folco Mori.

- Padrone đâu?

- Không thể quấy ông ấy được đâu.

- Tớ cần nói với ông ấy, Folco?

Pizzu vừa mới đến cùng các tay trợ lý. Italo và Yudelman đang cho họ một bài diễn văn. Cậu phải chờ thôi.

- Cứt! cứt! cứt! Có lâu không?

- Tớ không biết.

Vì tôn trọng ngôi thứ, Lando không dám thú thật với Mori rằng đất đã động ở dưới chân rồi. Cái tin mới mẻ bắt buộc phải đến với Volpone trước tiên. Hắn thất vọng xuống thang gác và đi vào trong bếp để làm cho mình một cái gì ăn lấy lại sức. Sau lần gặp Blesh vừa rồi, hắn rất cần nhét cho đầy bụng.

Hắn trông thấy cái lưng phè phè của Bellinzona. Pietro, đang ngồi ở bàn, trên một chiếc ghế con, lật mở một tập tranh liên hoàn. Trước mặt, hai ba hộp bia rỗng. Lando lấy chai Vodka, rót một cực lớn và uống cạn. Nguy hiểm này dẹp nguy hiểm kia, nỗi kinh hoàng Blesh gây ra cho hắn đã nhất thời làm biến mất cái cảm giác nguy hiểm toát ra từ Bellinzona.

- Pietro, theo cậu thì trên kia còn lâu nữa không?

- Tùy, - Pietro nói... - Cậu tìm ai?

- Volpone.

- Họ vào đó hơn một giờ rồi đấy.

Lando thình lình ngạc nhiên bởi cái sự việc mới mẻ này: Bellinzona đã hạ cố nói với hắn. Chợt yên tâm, hắn hiểu ra rằng việc mất ngủ đã làm cho hắn diễn giải sự tình ra như vậy mà thôi. Thấy Pietro cầm một con dao, những lời đe dọa thằng mọi khổng lồ hiện ra trong đầu hắn và liền suy ra một câu chuyện ngu xuẩn.

- Khá hơn chứ? - Hắn nồng nhiệt hỏi Bellinzona.

- Cái gì? - Tên hộ pháp hỏi.

- Từ hôm qua cậu có vẻ sa sầm, chán nản...

Nếu có gan hắn có thể sẽ giải thích rằng mình, Lando, đã quên hết những gì từng chứng kiến một cách vô tình, không bao giờ mình lại nói với ai điều bất hạnh mà Pietro đã phải cam chịu kia đâu.

- Ừ, tốt rồi... tốt rồi...

Pietro mở tủ lạnh lấy ra chai bia và tu nửa chai rồi đi ra cửa, vẻ trầm ngâm. Lando thấy hắn uể oải quay hai vòng khóa: hai người đã bị nhốt ở trong bếp.

- Ấy! Cậu làm cái gì thế? - Lando kinh ngạc nói.

Bellinzona vùi chìa khóa vào trong túi. Khi rút tay ra thì bàn tay hắn đã nặng trĩu một khẩu Walther PP mà hắn chĩa vào Lando.

- Cậu điên à? - Lando ngắc ngắc.

Pietro để một ngón tay lên môi bảo im.

- Không làm ầm, người ơi! Chớ làm rầy những người đang làm việc...

- Tại sao cậu lại chĩa súng vào tớ?

- Tớ sắp giết cậu, Lando!

Lando có cảm giác mình đang bị bó trong một tảng băng.

- Tớ có làm gì cậu đâu?

Bellinzona bối rối gãi đầu.

- Đúng là không gì cả, không gì cả... Tớ thề là tớ chẳng thù ghét gì cậu.

- Tớ không còn là bạn cậu nữa à? - Lando nói, cố giữ cho giọng không run.

- Có chứ. - Bellinzona nói. - Nhưng tớ vẫn buộc phải giết cậu.

- Vì hôm qua à? - Lando hốt hoảng. - Cậu điên! Tớ có nhìn thấy gì đâu. Tớ không xem! Cái đó thể xảy ra cả với tớ cơ mà.

- Nó đã xảy ra với tớ, - Pietro thầm nói. - Và chừng nào cậu còn sống thì chừng ấy tớ không sống nổi.

- Pietro! - Lando nài nỉ. - Cậu đừng làm thế. Cậu đừng phơ tớ. Người ta sẽ nghe thấy cậu bắn. Italo sẽ róc xương cậu. Xóa chuyện cũ đi, anh bạn, quên rồi mà, lời hứa danh dự đấy!

Bellinzona cau có.

- Đừng nhìn tớ! Tớ chán mắt cậu lắm! Quay đi!

- Pietro!

- Quay đi!

- Pietro, đừng làm trò con khỉ!

Chân run lẩy bẩy, Lando xoay người. Chẳng hề thấy hắn đến gần, Lando nhận ngay thấy hơi thở của hắn ở sát bên tai mình.

- Người ơi, xin lỗi nhé... Tớ chẳng con cách nào - Pietro! - Lando kêu to lên.

Hắn muốn quay phắt lại. Nhát chém bằng cạnh bàn tay của Bellinzona bổ thật mạnh vào gáy, trúng huyệt đốt sống cổ. Lando đổ sụp xuống sàn lát đá ô cờ trắng đen. Pietro đi mau ra ghé tai vào cánh cửa. Để chắc chắn hơn, hắn mở khóa, thò đầu ra ngoài gian sảnh, nhìn và nghe ngóng: không một bóng người, không một tiếng động. Tất cả đều đang ở trên lầu hết.

Hắn khóa cửa lại, đến lấy ở tủ làm đá ra một khối to thù lù nặng chừng mười lăm ký. Hắn đặt hòn đá thăng bằng trên mặt tủ đá. Hắn quay lại chỗ Lando vẫn đang bất tỉnh, lấy chân hất ngửa lên. Hắn đến bê tảng đá, hai tay giơ lên trên đầu rồi dùng nó như một cái chùy quật xuống giữa trán Lando. Trong một âm thanh ghê rợn, những mảnh đá vấy máu bắn tung toé trong bếp. Bellinzonana xem cho yên trí trán Lando đã bị vỡ sụt vào hẳn thật chưa. Hắn lấy một cái chổi, vun những mảnh đá rải đầy mặt đất vào một cái xẻng bằng nhựa. Rồi đổ cả vào trong chậu rửa bát. Động tác chính xác hắn kiễng chân lên để mở tủ vách nằm ở đỉnh các ngăn giá, bên trên chiếc tủ buýpphê đựng thức ăn. Trước khi Lando tới, hắn đã cẩn thận cất ở đó những mẩu bánh cắt thành lát, gói trong một cái túi nhựa. Hắn lặng lẽ hất đổ chiếc ghế đẩu dưới chân các ngăn giá. Hắn ôm tảng đá mang vào chậu rửa bát, mở hết cỡ vòi nước nóng ra. Đá liền tan. Bellinzona kéo xác Lando đến bên dưới chiếc tủ vách, cạnh chiếc ghế đẩu đổ kềnh. Lần này hắn để gã nằm úp sấp xuống, không quên cà trán gã, chỗ bị giập lõm, lên nền đá hoa cho máu váy bê bết vào. Đoạn buông tay cho mặt Lando rơi xuống đất, vào giữa vết máu.

Hắn còn phải giải quyết một chi tiết cuối cùng để cho sự dàn cảnh được hoàn hảo. Hắn lấy một chồng đĩa ở dưới tủ buýpphê đem đặt lên ngăn giá tủ vách, cạnh cái gói những lát bánh. Hắn lại lấy ở trong tủ lạnh ra một khay phó mát, để nó trên chiếc bàn cao lưng chừng mặt đất và chiếc tủ vách bên trên, nơi hắn phải kiễng chân lên mới với tới được bằng đầu ngón tay mà thôi. Hắn đập trong chậu rửa một mẩu đá dầy ba phân, dài năm phân.

Mẩu đá nom phảng phất một lười rìu tiền sử. Pietro dùng nó để kê giữ chồng đĩa thăng bằng ở trên giá. Chưa đầy hai phút, đá tan đi và đĩa sẽ rơi vỡ tan trên đất.

Trong chậu rửa bát, nước nóng đã làm cho vũ khí giết người biết mất hoàn toàn. Tảng đá nặng và rắn câng đang hóa ra thành nước thoát chảy trong lỗ chậu. Bellinzona liếc xem lần chót công trình của mình: bức tranh đáng thương xót thật! Rõ ràng Lando, đã ngã giập mặt trong khi leo lên chiếc ghế đẩu để lấy gói bánh. Một cái chết vớ vẩn.

Pietro lại mở cửa bếp. Chỉ cần ba phút hắn đã hoàn thành tất cả những gì hắn muốn đạt tới. Vẫn vắng vẻ như lúc nãy. Hắn rón rén lẻn vào gian sảnh, lớp thảm đầy đặn ở đấy đã hút mất tiếng chân của hắn. Khoang cầu thang che hắn khuất khỏi đôi mắt Folco vẫn đang gác ở trước cửa phòng Italo Volpone trên gác. Khi Bellinzona ngồi vào chiếc ghế bành ở góc sảnh xa căn bếp nhất và đã mở một tờ báo ra rồi, hắn mới gọi Mori.

- Này Folco!

Folco Mori nghển đầu nhòm qua tay vịn cầu thang.

- Hử?...

- Cậu có tin là thật không, cái trò tởm này?

- Tởm gì?

Pietro chỉ vào tờ báo - Chúng nó nói đã thành công trong việc cho nẩy mầm những hạt cốc già đã hai nghìn năm.

- Hạt gì cơ?

Bellinzona nằm ườn trên ghế bành, toan trả lời thì trong bếp vang ra tiếng đổ đánh rầm. Lập tức Bellinzona đứng phắt ngay dậy.

- Cái gì thế? - Folco lập tức vọt súng ra, hét.

- Im! Để tớ xem.

Khẩu Walther PP trong tay, Pietro đi ngang qua gian sảnh. Mori nghe thấy hắn nói:

- Cục cứt! Không phải!

Hắn lao xuống thang gác đến cho Bellinzona đang ngơ ngác đứng trên ngưỡng cửa nhà bếp.

Lando Baretto nằm sóng xoài, mặt úp xuống đất, giữa một vũng máu đầy những mảnh đĩa vỡ, nhiều có đến hàng trăm nghìn mẫu vụn. Folco đi đến lật người Lando lại. Hắn áp tai vào ngực gã, sửng sốt nhìn Pietro và nói:

- Đểu nhỉ! Chết rồi!

Khi nhà đòn sắp đóng nắp áo quan, người nhân viên hộ tịch ngăn tay họ lại và đến bên Chimène.

- Thưa bà, bà có muốn nhìn con gái lần cuối cùng không?

Chimène bật khóc nức nở, ôm chầm lấy Homer Kloppe, ông ghì chặt người bà, tay nhè nhẹ vuốt gáy bà. Ông nháy mắt với người nhân viên hộ tịch qua vai vợ. Nước mắt đầm dìa, người giật bắn, bám víu lấy chồng như kẻ sắp chết đuối, Chimène nắm chặt tay đưa lên miệng cắn đến vãi máu. Homer kéo bà ra hành lang đi về phòng riêng, giằng kéo với bà. Ông đã làm được cho bà ngồi xuống giường.

- Dũng cảm...

Ông đứng trước mặt bà, bản thân ông cũng đầm đìa nước mắt. Bà tuyệt vọng ôm níu lấy ngay đùi ông.

- Hãy bảo với em là không phải như vậy đi! Bảo với em đi!

- Dũng cảm, - ông nhắc lại, - Chúa không lìa bỏ chúng ta đâu.

- Chúa đã lìa bỏ chúng ta rồi - Chimène rên rỉ. - Lìa bỏ...

Ông gỡ cặp kính bị nhòa mờ ra rồi lấy đầu ngón tay cái lau nó. Bên dưới kia, ngoài đường phố, một đoàn xe đang đỗ, chờ chiếc xe tang nặng trĩu những hoa, lăn bánh.

- Nào đi em. - Homer nói. - Chúng ta cần phải đi trọn nỗi đau.

Ông giúp bà đứng lên. Bà dựa vào ông, mặt vùi vào vai ông! Thình lình Homer đứng lặng lại: trong hành lang bốn người mặc đồ đen đang khiêng quan tài. Manuella mặc đen tuyền khóc nức khóc nở. Chị vùng chạy đến Chimène Kloppe cùng với chồng bà, dìu bà ở hai bên. Họ từ từ xuống những bậc thang đầy hoa mà các nhân viên nhà đòn không chất xuể lên xe được.

Khi họ ra đến đường phố chật kín người, nhà thờ Grossmünster đổ vang hồi chuông cầu hồn trầm trầm và buồn thảm.

Helena Marcoulis, người bạn gái thân nhất của Chimène, không nhịn được, ôm chầm lấy bà. Homer buông tay vợ ra. Đúng lúc ấy, ông trông thấy trung úy Blesh.

- Tôi đau lòng, thưa ông... Tôi xin gửi ông những lời chia buồn...

Kloppe gật gật đầu, toan đi qua.

- Ông Kloppe...

Homer liếc Blesh bằng ánh mắt vô cảm.

- Ông Kloppe, - người cảnh sát vội vàng nói tiếp giọng thấp và khẽ khàng... - tôi biết là không phải lúc...

- Đúng, - Kloppe nói.

- Nhưng ông hãy hiểu cho... ông hãy nghĩ rằng tôi cũng không cho phép tôi đâu, nhưng gấp gáp quá... Thưa ông Kloppe, ông có nhận được những lời đe dọa nào không?

Các nhân viên nhà đòn đặt quan tài lên xe tang, Homer nhận ra trong đám đông hình thù đồ sộ của bà Utte Heinz.

Và như lệ thường, bên cạnh bà là ông chồng, Joseph Heinz, lúc này lại thượng lên cặp kính râm. Homer đưa mắt theo linh tính tìm Kurt nhưng không thấy.

- Đe dọa gì?

- Xảy ra những chuyện lạ lùng tại Zurich, có thể là có liên quan tới cái chết của cô Renata bất hạnh của chúng ta đây... Tôi đang điều tra... Người ta có dọa nạt gì ông không?

Homer nhìn thẳng vào mắt trung úy Blesh rồi nói, giọng ảm đạm:

- Tôi không hiểu là ông đang nói gì cả.

Ông tách ra khỏi để đi đến với Chimène, giúp bà leo lên chiếc xe màu đen.

Vào bốn giờ chiều, cũng vẫn với những nghi lễ buổi sáng, Ettore Gabelotti và Italo Volpone gặp nhau lần nữa ở trong vườn hoa Đại khách sạn Dolder. Mặc dù hai viên cố vấn Angelo Barba và Carmine Crimello có ý kiến trái lại nhưng xét tình thế khẩn cấp và ngặt nghèo, Don Ettore đã quyết định thú thật với Volpone việc O'Broi phản bội mình. Chẳng phải vì yêu sự thật cũng chẳng phải vì một cơn hứng tin cậy nào, mà là làm như vậy thì có lợi cho ông. Và trước hết, vì ông rất nghi Volpone không những đã biết việc này mà lại còn góp sức giúp lão chuyên viên tài chính của mình đi sang được cái thế giới tốt đẹp hơn kia. Và chắc hẳn là sau khi đã tra tấn để bắt lão nhè ra con số tài khoản: điều này thì không đạt được, bởi lẽ hắn vẫn còn ở lại đây.

Còn Italo kinh ngạc khi hay tin một thằng Mafia mà lại chết vì ngã ghế đẩu được: xác Lando tạm thời để ở dưới tầng hầm ngôi biệt thự, chờ một chỗ chôn cất kín đáo và thích hợp hơn. Nếu tai nạn không có hai nhân chứng Folco Mori và Pietro Bellinzona thì Bé Volpone sẽ nghĩ là không thể nào có được. Họ đang đứng quanh cái xác Lando thì chuông điện thoại réo và Yudelman nhấc máy lên.

- Angelo Barba đây. Gabelotti đề nghị với anh một cuộc gặp nữa. Bốn giờ chiều, vẫn chỗ sáng, anh thấy được không?

Chẳng chờ Volpone trả lời, hắn quăng luôn vào trong máy:

- Don Volpone đồng ý.

Tạm quên cái xác cứng đờ của Lando nằm dài dưới chân mình, các vị quan chức cao cấp của gia đình liếc mắt nhìn nhau vụng trộm: bằng cái chữ “Don” hắn vừa tung ra kia, Yudelman có phần nào đã công báo cho các thành viên gia đình Volpone và cho cả thành viên một gia đình đối thủ cái chức vị capo tối cao trao cho Italo Bé Volpone, đồng thời đặt gã ra trước các thành viên của Công đoàn, là người kế tục chính thức của anh gã, Genco Volpone. Từ nay không thể nào còn chuyện mập mờ: vua cũ đã băng hà, vua mới vạn tuế! Italo không nói năng gì nhưng trong bụng thì tâm niệm sẽ đền bù cho Yudelman lòng tin cậy gã đã gắn vào cho con người mình. Với một bộ não như thế ở phe hắn thì còn nhiều những ngày tươi sáng cho gia đình.

Trời còn nóng hơn cả lúc trưa. Một khi hai “Don” nhìn thấy nhau là hai tên bảo vệ riêng, Thomas Merta và Folco Mori kín đáo lỉnh ra, trong khi Simeone Ferro và Pietro Bellinzona thì vẫn đứng im lìm ở cách các capo chừng năm chục mét.

Lần này, Gabelotti đi tới trước.

- Italo, tôi phải xin lỗi cậu...

Như buổi sáng, ông lại cầm lấy cánh tay hắn và kéo đến cái ghế dài quen thuộc để cùng ngồi xuống.

- Cậu nói đúng. O'Broin đã phản tôi. Tôi đã đến ông chủ ngân hàng. Con số O'Broin cho tôi là con số giả.

Italo hơi mềm người ra.

- Tôi vẫn chưa sao tin được chuyện đó đâu. - Don Ettore lắc đầu nói tiếp. - Cái làm cho tôi lúng túng, cậu thấy đấy, là tôi không biết cái thằng cố vấn rác rưởi kia nó đã lấy được tiền của chúng ta ra khỏi ngân hàng này chưa...

Italo nhìn hai con sáo đang tranh nhau một mẩu bánh.

- Ông chủ ngân hàng tuyệt đối không nói với tôi cái gì hết... Làm thế nào biết được tiền chúng ta còn ở ngân hàng hay O'Broin đã phới đi cùng với nó mất rồi? Ông nhìn Italo dò hỏi.

- Cậu cược con bên phải hay con bên trái nào - Volpone chỉ vào hai con sáo nói.

- Cậu và tôi biết được cái đó là rất quan trọng. Bao vây ngân hàng sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu như O'Broin đã chuồn đi cùng với tiền mất rồi. Nếu ít nhất có được chút xíu tin tức về điểm này thì chúng ta sẽ biết hành động thống nhất của chúng ta nên hướng về phía nào...

- Cậu đến Zurich trước tôi, cậu không biết gì hết à?

Volpone lắc đầu.

- Tôi bối rối lắm, Italo, và tôi hỏi thẳng cậu, cậu có ý nào không? Cậu đề nghị thế nào?

- Làm cho xong cái việc tôi đã mở đầu, - Italo nói.

- Tức là?

- Ép Kloppe.

- Xem ra cho tới nay cách đó chưa ăn thua gì.

- Chúng ta đã tử tế quá.

Gabelotti hể hả ghi nhận chữ “chúng ta”.

- Cậu biết rõ là cái mạng lão quý giá với chúng ta như thế nào rồi. Lão cũng biết. Lúc nào lão còn tin rằng tính mạng lão không bị uy hiếp thì lão còn tiếp tục trêu ngươi chung ta. Chưa nói tới việc lão co thể lại báo cảnh sát nữa kia. Non siamo casa nostra (65). Italo. Tốt đẹp lắm là người ta có thể tống cổ chúng ta đi như thế này. - Don Ettore búng tay và nói.

Bé nghĩ một lát. Yudelman và hắn đã nhìn trước hai khả năng: hoặc Gabelotti có con số hoặc không. Khả năng thứ hai thì tốt. Hắn nhớ đến lời dặn dò của Moshe và bình tĩnh nói:

- Nếu cậu đồng ý thì tôi có một đề nghị với cậu.

Gabelotti chăm chú nhìn hắn. Không lúc nào, dù những cây sào đã được chìa ra, Italo bắt lấy những lời bình luận của ông về O'Broin. Hắn không hề có một vẻ nào, chỉ một giây, tin rằng viên cố vấn đã lấy được tiền đi khỏi ngân hàng. Kết luận: hắn đã thanh toán O'Broin mà không làm sao bắt lão xì ra bí mật.

- Tôi nghe đây, Italo, nói đi.

- Cậu có nghĩ là chúng ta có thể moi ra được con số ở miệng Kloppe, nếu như chúng ta giữ hắn vài ngày không?

- Chắc chắn, Italo. Khốn nỗi cái dự án đó không thể thực hiện nổi.

- À thế à? Tại sao?

- Cậu thừa nghĩ được là nếu Kloppe biến đi thì chúng ta sẽ gây ra khá nhiều sóng gió ở Thụy Sĩ, ngang với chìa chứng minh mời tất cả ngành cảnh sát Thụy Sĩ nhẩy bổ lên. Người ta sẽ biết ngay và bọn cớm sẽ đánh chúng ta liền.

Italo tự cho quyền mỉm một nụ cười đầu tiên.

- Tôi không nghĩ thế, Ettore.

- Hắn lấy ở trong túi ra một phong bì.

- Cậu chịu khó liếc xem chứ?

Giấu vẻ tò mò, Gabelotti lối ra một tờ giấy ở bên trong.

Giữa những nếp gấp của nó là một tấm ảnh. Chụp một người con gái da đen rất đẹp, và cao dài, chỉ mặc xilíp, hai vú phơi ra, hai tay giơ lên trời trong một dấu hiệu chiến thắng khải hoàn.

- Ai đấy - Don Ettore hỏi.

- Bồ của Kloppe đấy. Một con điếm tên là Ines. Lão xơi nó ở trong hầm bọc thép của ngân hàng lão. Cậu xem phong bì gửi đến địa chỉ nào...

Một nét chữ dứt khoát, điển hình Mỹ, viết: “BÀ CHIMÈNE KLOPPE, SỐ CHÍN, ĐƯỜNG BỜ ĐẸP, ZURICH”.

Gabelotti ngạc nhiên nhìn Italo.

- Cậu muốn bảo rằng bồ của Kloppe viết thư cho vợ lão?

- Viết theo lời tôi. Cậu đọc cái thư đi...

Gabelotti mở ra đọc.

“Thưa bà, Vì Homer không có can đảm nói ra cho nên tôi làm thay anh ấy vậy. Hai chúng tôi nghỉ hè tám ngày với nhau, ở Sardaigne đây, nếu như bà muốn biết chi tiết. Sau ba chục năm cưới nhau, bà còn nợ ông ấy một cuộc giải lao như vậy. Tôi sẽ trả lại ông ấy khỏe mạnh, có thể mệt nhưng thể trạng tốt lành, cho bà. Gửi bà lời chào dửng dưng.

Công chúa Kinbondo”.

Tôi cược con bên trái, - Don Ettore nói.

- Cậu thua. Xem kìa...

Con sáo bên phải bay vù lên với mẩu bánh mì ở mỏ.

- Nó là công chúa à? - Gabelotti hỏi.

- Trước hết nó là con mọi. Tôi cũng thế, tôi là ông hoàng ở trong khu phố. Cậu có nghĩ rằng vợ Kloppe nhận được thư này lại đi khoe với bọn cớm không? Mụ sẽ làm mọi cái cho câu chuyện không lọt ra. Có đứa đàn bà nào muốn mang tiếng là một con mặt nghệt không chứ lại?

- Nói tiếp đi, - Don Ettore nói.

- Ta bắt cóc, Kloppe.

- Thế nào?

- Trong khi đó, tôi gọi người của tôi ở Ý sang, ta phá ngân hàng!

- Nhưng cậu không nghĩ rằng cậu sẽ không thể phá được hết các két bảo hiểm à?

- Để làm gì chứ? Tiền chúng ta không ở trong đó đâu. Kloppe phải cho nó quay vòng kiếm lợi cho lão chứ.

- Vậy thì?

- Ta sẽ ỉa tung ỉa toé vào cái tiệm, vào đời sống riêng của hắn để cho hắn chết cháy tại Zurich này! Hắn sẽ chịu thua thôi. Chính là vụ tai tiếng ấy sẽ làm cho các két bảo kiếm của nó bị rỗng tuếch chứ không phải là chúng ta. Khách hàng sẽ lỉnh ngay sang một ngân hàng yên ổn hơn chứ!

- Cậu định đặt cược bao nhiêu?

- Xin lỗi?

- Về sáo thì tớ thua cược rồi, - Gabelotti mỉm cười gượng gạo nói.

- Khi nào xong xuôi tất cả rồi, cậu sẽ cho tôi một cái đồng hồ Thụy Sĩ.

- Bắt cóc nó lúc nào?

- Tối nay.

- Còn ngân hàng?

- Đêm nay... nếu cậu nhận lời.

Don Ettore bĩu môi.

- Đồng ý phải hành động lẹ nhưng không được hấp tấp cái gì hết...

- Một toán biệt kích mười đứa đêm nay sẽ đến Zurich. Chúng từ Milan tới.

- Cậu làm thế nào cho chúng qua được biên giới?

- Tôi đã bố trí xong rồi.

Gabelotti có vẻ thích.

- Những con sói con làm việc cho những con sói già hả?

- Không, Ettore, mọi con sói đều làm việc chung với nhau.

Một cảm tưởng hùng mạnh làm cho hắn hăng lên, Italo nhìn Ettore trừng trừng bằng hai con mắt long lanh như than đá:

- Cậu có tin không?

Gabelotti đưa hai tay lên nắm lấy cánh tay hắn:

- Hắn toàn tin cậy, Italo... Hoàn toàn!... Bây giờ cậu giải thích cho tôi một ít chi tiết nhỉ?

- Tôi sẽ nói với cậu.

- Vì rằng, như cậu biết đấy, Italo, tôi rất muốn làm khán giả nhưng không thể như thế được khi là chuyện hai tỉ đôla.

Hình như toàn thành phố đã hẹn gặp nhau tại nghĩa trang. Còn nhiều hơn cả trong nhà quàn, các bó hoa chồng chất lên nhau ở khắp mọi nơi, điểm tô lên cả những nấm mồ cạnh nấm mồ Renata sẽ ngủ giấc ngủ cuối cùng của nàng. Ở Homer Kloppe, ý thức tôn giáo mạnh đến nỗi ông không một giây phút nào ngờ vực việc linh hồn con gái mình vẫn còn sống. Chúa đã gọi Renata đến với Người, ở một nơi bí ẩn mà Homer và Chimène một ngày kia cũng sẽ gặp con gái ở đó, khi giờ cuối cùng của hai người đã điểm. Homer cũng biết rằng Chúa đã gửi đến ông nỗi thử thách này là để trừng phạt ông về những sự sa sút luân thường ông phạm phải.

Ở bên cạnh ông, Chimène biến mất dưới những nếp khăn tang, đang nắm lấy những bàn tay chìa ra chia buồn trong khi rầm rì bên tai ông bài ai ca mơ hồ của những lời an ủi. Nhưng ông đã không thể ngăn được Kurt Heinz đến đứng ở bên phải ông, thành thử kẻ lạ mặt, mới là con rể ông trong có chừng một chục phút, lại có vẻ được nhân danh chính ngay tên tuổi ông mà nhận lấy lòng thương cảm quý mến, lẽ ra theo quyền lợi thì phải dành cho bố mẹ của người chết mới đúng.

Ngay khi quan tài được đặt vào huyệt, Kurt đã lách đến bên Chimène, tựa hồ anh ta cũng thuộc về cái nhà này vậy. Đám đông dầy đặc không tưởng tượng nổi. Những ai muốn đến với vợ chồng Homer đều phải chờ tới nửa giờ, giẫm tại chỗ ở giữa các ngôi mộ, lần lượt đổi chân cho đỡ tê trước khi đến hòa vào con sóng đồ sộ đang ứ dồn lại để đi ra khỏi nghĩa trang. Bên ngoài, những chiếc xe đậu trong một cảnh hỗn độn phát khiếp, ngăn cản lẫn nhau. Những người tới đầu tiên phải kiên nhẫn ở sau tay lái, không thể, dĩ nhiên, bóp còi hoặc réo chửi những người chắn đường mình, mà những người đó, bản thân họ lại bị những chiếc xe khác, mà chủ của chúng vất lại ở trước nghĩa trang chặn mất lối rồi. Trong vòng một giờ đồng hồ, Homer, Chimène, Kurt, chịu mãi những cái bắt tay và ôm hôn của một dòng người vô tận mà đầu cùng của nó còn mất hút ở đằng sau một bụi cây hoàng dương và trắc bá che khuất. Chimène cúi về phía Homer, nói khe khẽ sau tấm khăn tang.

- Tôi thấy người khó chịu...

Homer nắm lấy tay bà.

- Anh sẽ đưa em về.

- Không, không, - Chimène nói. - Chóng mặt lắm...

- Không ổn à? - Helena Marcoulis hỏi.

Bà đứng ngay đằng sau bà bạn, tựa như đã cảm thấy Chimène sẽ phải cần đến sự giúp đỡ của mình.

- Chúng ta đi thôi, - Homer nói.

- Không, - Chimène phản đối. - Chúng ta không thể bỏ được lời chào vĩnh biệt Renata.

- Helena, chị có đưa Chimène về được không?

- Tôi lo cho việc ấy!

Bà ôm lấy eo Chimène, giữ bà và ra hiệu vội cho Manuella đứng kín đáo cách đó mấy bước, mắt không để sót một cử chỉ nào của họ cả.

- Tôi làm được cái gì? - Kurt hỏi. Homer lợi dụng việc nguýt và lngrid Strolh ôm mình để không trả lời anh. Chỉ một vài giây xảy ra chuyện này đã đủ làm cho lối đi bị một phen tắc nghẹn mới.Trong khi Helena và Manuella kéo Chimène đi thì Homer và Kurt cố bắp kịp cái nhịp đều đặn của các bàn tay chìa ra. Với mỗi câu chia buồn, Homer lại như máy cúi đầu, tâm trí rỗng không, nhìn mà chẳng thấy những bộ mặt đau buồn ngẩng lên phía ông.

Sau hai giờ đồng hồ, dòng người đã cạn, nhưng nhiều nhóm vẫn còn đứng ở giữa những gian hầm mộ gia đình, tựa như cái chốn chôn cất không bao giờ vơi được hết những con người vừa mới tràn vào chiếm lĩnh nó vậy.

- Xe tôi ở ngoài kia, - Kurt nói với Homer. - Ông có muốn tôi đưa ông về không?

Homer cố kìm để khỏi quay đi chỗ khác. Một người tài xế mặc chế phục đến nói thầm vào tai ông.

- Ông Kloppe, tôi đến tìm ông...

- Tôi theo ông đây, - ông chủ ngân hàng nói.

Người tài xế gạt đám đông đi về phía cửa ra. Homer theo hắn, hài lòng đã thoát sự có mặt phiền toái của Kurt, người mà ông xét thấy không thể tha thứ được cho cái tính bám dai và thiếu ý tứ. Người tài xế lách qua một biển xe cho tới tận vệ đường. Hắn kính cẩn mở cửa một chiếc Mecxeđetx 600 màu đen có kính màu. Kloppe ngồi vào, người tài xế đóng cửa lại.

Bên trong xe đã có bốn người. Hai trong số đó lạ mặt với Homer. Còn hai người kia thì ông sẽ cho bất cứ thứ gì để không bao giờ phải gặp mặt ở trong cái hoàn cảnh như thế này: Italo và Ettore Gabelotti.

Ông chủ ngân hàng, môi mím chặt, toan vặn tay nắm cửa xe: nó đã được khóa trái. Chiếc Mercedes từ từ lăn bánh ra khỏi đám xe hỗn độn vây chung quanh, quẹo về hướng Zurich rồi tăng tốc độ. Biết đã mắc bẫy, Homer không chịu để cho bọn lưu manh có được niềm vui thấy ông biểu lộ ra bất cứ nỗi sợ hãi nào. Không thèm dựa vào lưng ghế bành da êm ái, ông ngồi im, người cứng khư, hai bàn tay đặt trên đầu gối, nhìn thẳng về đằng trước, bàng quan, không hé răng, không thốt ra một lời. Ông chẳng cảm thấy sợ sệt gì. Chỉ là một le lói tức giận, và một cảm giác tẻ ngắt mênh mông đối với tính chất hợm hĩnh của mọi mưu toan nói chung của con người cũng như đối vóc sự vô ích ngu xuẩn của việc bắt cóc này nói riêng mà thôi.

- Tôi thật sự bối rối, thưa ông Kloppe. - Gabelotti nói.

- Nhưng lần này, tôi sợ rằng ông sẽ phải hết sức chú ý mà nghe chúng tôi đấy.

(64) Tiếng Ba Tư: Vua.

(65) Nguyên văn tiếng Ý: Trường hợp chúng ta không thể được.