Chương 10 GIẢI THOÁT
Suốt năm thứ hai ở trường trung học phổ thông, tôi trở nên nản chí và buồn bã. Vì phải di chuyển quá nhiều nên mỗi lần như thế, tôi chẳng bao giờ học được ở một trường quá vài tháng. Tôi bị xếp vào lớp học dành cho những học sinh chậm tiến. Trong giờ học, tôi là người đầu tiên tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi của thầy cô giáo và nghĩ ra các ý tưởng mới, nhưng rồi tôi phát hiện ra chẳng ai chịu lắng nghe tôi cả. Thế rồi tôi bỏ hết các môn học, vì tôi biết tương lai của mình nằm ngoài cổng trường học. Tôi làm việc bốn mươi tám giờ mỗi tuần với hàng chục công việc khác nhau, và tôi tin rằng không có điều gì học ở trường có thể giúp ích cho tôi trong đời sống thực này cả.
Khao khát được làm việc của tôi càng lúc càng cháy bỏng bởi tôi biết mình đã mười bảy tuổi và sẽ phải tự lập trong chưa đầy một năm nữa. Sau mỗi lần tan học, tôi chạy nhanh từ trường về nhà Alice, thay quần áo, rồi lại tức tốc chạy đến chỗ làm. Nơi làm việc của tôi có khi là một nhà hàng thức ăn nhanh hay một xưởng làm đồ nhựa, và tôi sẽ làm đến một hoặc hai giờ sáng ngày hôm sau. Sinh hoạt giờ giấc thiếu khoa học và ngủ không đủ giấc khiến tôi luôn mệt mỏi. Ở trường, tôi thường bị thầy cô thúc cho tỉnh giấc vì mãi ngáy trong lớp. Tôi bực tức vì bị những đứa bạn trong lớp cười nhạo. Mỗi khi tôi làm trong nhà hàng, có vài đứa bạn còn tỏ ra trịch thượng khi vênh váo đi vào chỉ để khoe khoang những cuộc hẹn hò, những bộ quần áo hào nhoáng, tự hào vì chúng không bao giờ phải làm việc như tôi để kiếm sống cả.
Thỉnh thoảng, vào giờ rảnh rỗi, tôi thường đến thăm thầy Tapley, là thầy giáo dạy tiếng Anh của tôi. Những lúc đó tôi hay làm thầy phát cáu với hàng loạt câu hỏi về tương lai của tôi. Thầy biết tôi đã phải đấu tranh vất vả với cuộc sống thế nào, và tôi cũng ngượng ngùng không thể giải thích nhiều hơn về lý do tại sao tôi hay ngủ gật trong lớp. Chỉ cần một lời khuyên nhẹ nhàng của thầy, tôi cũng cảm thấy như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua những mệt mỏi.
Thỉnh thoảng, tôi cũng dành ra một ngày cuối tuần nào đó để đến thăm cha ở San Francisco. Trong suốt những năm trước đó, tôi đã gửi hàng trăm tin nhắn đến các đồn cứu hỏa khắp thành phố, nhưng cha chưa bao giờ liên lạc lại với tôi. Một buổi chiều nọ, sau khi có được một số thông tin khá chắc chắn về chỗ làm của cha, tôi lập tức gọi điện đến tìm ông. Một người lính cứu hỏa tỏ ra lưỡng lự và hơi thoái thác khi nói chuyện với tôi.
- Đây có phải là đồn cứu hỏa của cha cháu không ạ? - Tôi van nài. - Chỉ cần cho cháu biết một điều thôi, cha cháu đang làm ở ca nào ạ? - Tôi nài nỉ, giọng thiết tha.
- À... Stephen thay đổi chỗ làm việc liên tục. Bọn chú sẽ nhắn lại với ông ấy. - Nói rồi ông ấy gác máy ngay.
Tôi biết hẳn phải có chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Khi nói chuyện này với Alice, bà ấy có vẻ lẩn tránh không muốn đề cập đến.
- Cha con đang gặp rắc rối! - Tôi thẫn thờ.
- David, không phải thế đâu! - Alice trấn an.
- Không, con nghĩ chắc có điều gì xảy ra với cha con rồi. - Tôi nói tiếp. - Con đã mệt mỏi với việc phải sống trong bóng tối... phải giấu giếm những bí mật của mình... phải sống trong dối trá. Điều gì mới là tồi tệ chứ? Nếu cha con đang gặp rắc rối... - tôi ngừng một lát để lấy lại tinh thần, - thì con phải biết chứ. - Tôi dịu giọng lại rồi hôn lên trán Alice.
Tôi nhảy lên chiếc mô-tô và phóng thẳng về hướng trung tâm San Francisco. Trên đường cao tốc, tôi lạng lách trong dòng xe cộ đông đúc và cứ thế phóng nhanh cho đến khi chiếc xe đâm sầm vào con đường nhỏ cạnh Trạm 1067 - cũng là nơi cha làm việc khi tôi còn bé.
Tôi đậu xe ở sân sau của trạm cứu hỏa. Khi bước vào trong, tôi trông thấy một khuôn mặt quen thuộc nhưng có sự tàn phá của thời gian. Thoạt đầu, tôi nghĩ hẳn là cha. Nhưng khi người đàn ông nhìn tôi mỉm cười, tôi mới biết chắc đó không phải là cha, bởi cha không bao giờ cười cả.
- Chúa ơi, con trai! Bao lâu rồi chứ? Ta không thấy các cháu từ... Ta không nhớ từ khi nào nữa.
Tôi bắt tay chào chú Lee, người bạn lâu năm và thân nhất của cha tôi.
- Cha cháu đâu rồi ạ? - Tôi hỏi bằng một giọng lạnh lùng.
Chú Lee quay đi.
- À... ông ấy vừa đi khỏi. Ông ấy vừa hết ca trực cháu ạ.
- Không phải, thưa chú! - Tôi nghiêm nghị. Tôi biết chú Lee nói dối, vì lính cứu hỏa thay ca vào buổi sáng, không phải vào giữa chiều như thế này. Tôi hạ giọng. - Chú Lee ạ, cháu đã không gặp cha mấy năm nay rồi, cháu cần phải biết chuyện gì đang xảy ra với cha cháu chứ.
Lee nghẹn ngào không nói nên lời. Ông đưa tay quẹt ngang mắt. Lần đầu tiên tôi thấy một người lính cứu hỏa khóc.
- Chú và cha cháu đã cùng nhau làm việc, cháu biết đấy. Chú muốn nói với cháu rằng... cha cháu là một người lính cứu hỏa khốn khổ.... Có những lúc chú nghĩ rằng chú và cha cháu không nên trở thành những người lính cứu hỏa...
Tôi có thể linh cảm được điều gì sắp xảy ra. Lòng tôi như vỡ vụn. Tôi đưa mắt kiếm tìm một vật gì đó để vịn vào, giữ cho mình khỏi ngã. Tôi mím chặt môi lại. Tôi nhìn sâu vào mắt chú Lee, tỏ ý cho chú biết tôi đã sẵn sàng để nghe tất cả sự thật.
Lee chớp mắt:
- Cha của cháu... không còn làm việc nữa. Stephen - cha cháu - đã... bị cho nghỉ hưu sớm.
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi cố gắng kìm nén cảm xúc của mình.
- Vậy là ông ấy còn sống! Ông ấy không sao cả! Vậy thì ông ấy đang ở đâu? - Tôi nói như reo.
Chú Lee khẽ gật đầu. Chú Lee còn cho tôi hay cha tôi đã không đi làm hơn một năm nay rồi, và có những lúc cha phải lang thang ngủ ngoài đường.
- David ạ, chính là rượu. Rượu đang giết chết ông ấy. - Chú ấy nói bằng một giọng buồn bã, nhưng rành mạch.
- Vậy thì giờ cha cháu ở đâu ạ? - Tôi van nài.
- Chú không biết, con trai ạ. Chú chỉ gặp ông ấy khi ông ấy cần một ít tiền. - Chú Lee dừng một lúc để lấy giọng. Chú ấy nhìn tôi bằng ánh nhìn tôi chưa từng thấy bao giờ. - David, đừng quá gay gắt với người cha già của cháu. Ông ấy chưa từng có một gia đỉnh thực sự. Ông ấy từng là một chàng trai trẻ khao khát cuộc sống khi lần đầu đến thành phố này lập nghiệp. Ông ấy yêu các cháu, nhưng cuộc hôn nhân kia đã hủy hoại cuộc đời ông ấy. Công việc của ông ấy cũng không thuận lợi. Ông ấy phải sống với tất cả những điều đó. Ong ấy lấy công việc làm lẽ sống cho mình. Nhưng bia rượu... cuối cùng thì giờ phút này bia rượu lại là tất cả đối với ông ấy cháu ạ.
- Cháu cảm ơn chú, chú Lee. - Tôi bắt tay chào tạm biệt chú ấy. - Cảm ơn chú đã nói chuyện với cháu, ít nhất là vì những chuyện chú đã cho cháu biết về cha cháu lúc này.
Chú Lee tiễn tôi ra ngoài:
- Vài ngày nữa chắc chú sẽ gặp lại cha cháu. Khỉ thật, có thể cháu sẽ giúp được ông ấy thoát khỏi tình trạng này đấy.
- Vâng ạ. - Tôi đáp. - Có lẽ thế ạ.
Hai tuần sau đó, tôi bắt chuyến xe buýt đi từ Greyhound đến khu Mission của San Francisco. Tôi chờ cha ở trạm xe buýt hơn một giờ đồng hồ. Trong lúc nhìn ngang ngó dọc, tôi tình cờ phát hiện ra một quán rượu tồi tàn. Chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác rằng cha sẽ ở đâu đó trong quán rượu này. Tôi băng qua đường và đi thẳng vào quán. Nhìn khắp một lượt, tôi nhanh chóng phát hiện ra cha đang ngồi sụp bên một chiếc bàn ở góc quán. Tôi đảo mắt nhìn quanh tìm kiếm sự giúp đỡ. Không thể tin được người ta cứ thế đi qua đi lại chỗ cha tôi ngồi mà không thèm đoái hoài, dù chỉ một chút, hoặc họ cứ ngồi yên bên quầy nhấm nháp từng ly rượu như thể cha tôi là người vô hình vậy.
Tôi nhẹ nhàng lay cha dậy. Cha cựa mình, húng hắng ho. Mùi hôi bốc ra từ cơ thể ông khó chịu đến nỗi tôi phải nín thở cho đến khi dìu được ông ấy ra khỏi quán rượu ẩm thấp. Không khí thoáng đãng bên ngoài dường như giúp cho đầu óc ồng tỉnh táo hơn. Dưới ánh mặt trời, trông cha tôi thảm hại hơn bao giờ hết. Tôi cố tình quay đi, không nhìn thẳng vào mặt cha. Tôi muốn nhớ lại cha với hình ảnh người đàn ông năm xưa - một người lính cứu hỏa cao lớn, vạm vỡ, khỏe mạnh với hàm răng trắng sáng, người đã không ngại hiểm nguy lao vào lửa để giúp đỡ một đồng nghiệp hay giải cứu một đứa trẻ trong một tòa nhà đang ngập trong biển lửa.
Tôi dìu cha đi qua nhiều dãy nhà. Cả hai cha con không ai nói với ai một lời. Tôi biết tốt hơn nên hỏi ông ấy về chuyện uống rượu và cuộc sống hiện tại của ông. Tôi thấy hơi khó thở. Tôi nhắm mắt một lát, rồi quay sang nhìn cha. Ông dừng bước.
- Chuyện gì đã xảy ra vậy hả cha?
Ông lại húng hắng ho. Tay ông run run châm một điếu thuốc.
- Tốt hơn con nên quên hết tất cả những chuyện đó đi, tất cả mọi chuyện - mẹ con, căn nhà ấy, mọi thứ. Hãy xem như nó chưa từng xảy ra. - Nói rồi cha kéo một hơi thuốc thật dài. Tôi cố gắng nhìn vào mắt ông, nhưng cha cố tình lảng tránh ánh nhìn của tôi. - Mẹ của con... Bà ấy bị điên rồi.... Tốt hơn con nên quên hết tất cả đi. - Cha thở dài. Ông lại rít một hơi thuốc.
- Không phải, cha ơi, là chuyện của cha! Con đang lo lắng cho cha!
Mặt tôi lạnh toát. Cả cơ thể tôi run lên, mắt tôi nhắm nghiền lại. Tôi muốn hét lên thật to với cha, nhưng tôi vẫn chưa có đủ dũng khí để nói cho cha biết rằng tôi lo lắng cho ông đến nhường nào. Đầu óc tôi rối bời vì phải phân định chuyện gì đúng, chuyện gì sai. Nhìn vào mắt cha, tôi hiểu giờ ông chỉ là một cái xác còn sống - tâm hồn ông đã chết từ lâu. Chốc chốc, hai bàn tay ông lại run lên và mí mắt thì sụp xuống. Tôi cảm thấy lúng túng. Lòng tôi trống rỗng và buồn vô hạn. Tại sao cha không ở đó với con? Cha cũng không thể gọi cho con sao? Cha không thể là một người cha bình thường khác, với một công việc bình thường và một gia đình bình thường, để con có thể cùng cha chơi cá kiểng hay đi câu cá sao? Tại sao cha không thể bình thường như bao người cha khác? - Tim tôi như gào thét. Tôi muốn hét lên những điều đó với cha.
Tôi thở thật sâu rồi mở mắt ra:
- Con xin lỗi cha. Chỉ là... cha là cha của con... và con yêu cha.
Cha thở mấy hơi khò khè rồi quay đi. Tôi biết ông không muốn trả lời tôi. Rượu bia và đời sống gia đình tan vỡ đã giết chết mọi cảm xúc của cha. Tôi nhận ra một điều, tâm hồn của cha tôi thực sự đã chết. Cả hai cha con tôi cùng lầm lũi bước đi bên nhau, chẳng biết đích đến là nơi nào.
Vài giờ sau đó, trước khi tiễn tôi lên xe buýt, cha nhìn tôi và nói:
- Cha muốn cho con xem cái này. - Giọng cha đầy tự hào. Ông mở chiếc túi nhỏ bằng da màu đen có in hình huy hiệu của lính cứu hỏa lấy ra một chiếc huy hiệu bằng bạc sáng lấp lánh.
- Này, con hãy giữ lấy nó. - Nói rồi cha nhẹ nhàng đặt chiếc huy hiệu vào lòng bàn tay tôi.
- R-1522. - Tôi đọc to. - Tôi hiểu chữ ‘R’ có nghĩa là cha tôi đã thực sự nghỉ hưu chứ không bị sa thải như tôi đã lo sợ, còn các con số là số hiệu của cha khi ông còn là một người lính cứu hỏa.
- Đây là tất cả những gì cha có lúc này. Đó là một trong những điều hiếm hoi của cuộc đời này mà cha còn giữ được nguyên vẹn. Không ai có thể cướp nó khỏi tay cha cả. - Cha chỉ vào món đồ vô giá của mình và nói với vẻ đầy tin tưởng. - Một ngày nào đó, con sẽ hiểu.
Tôi gật đầu. Tôi hiểu cha muốn nói gì. Tôi luôn luôn hiểu. Ngày xưa, tôi từng hình dung cha trong bộ đồng phục lính cứu hỏa màu xanh đen thô cứng, oai vệ tiến lên bục cao để nhận chiếc huy hiệu tôn vinh công trạng trước một đám đông cuồng nhiệt gọi tên ông, bên cạnh ông là người vợ xinh đẹp và những đứa con ngoan. Khi còn là một đứa trẻ, tôi đã mơ về ngày cha mình được vinh danh.
Tôi nhìn sâu vào mắt cha và trao lại cho ông chiếc huy hiệu “thành tựu trọn đời”:
- Cha, con thật sự rất tự hào về cha. - Tôi vừa nói, vừa nhìn chiếc huy hiệu. - Con thật sự rất tự hào. - Trong giây phút hiếm hoi, mắt cha tôi sáng lên một niềm hy vọng. Và cũng trong giây phút ngắn ngủi đó, mọi nỗi đau trong ông như tan biến hết.
Trước khi tôi bước lên xe buýt, cha nhìn tôi thật lâu, ông do dự:
- Hãy đi khỏi nơi đây. - Ông nói khẽ. - David ạ, con hãy đi khỏi nơi này càng xa càng tốt. Anh trai Ronald của con đã nhập ngũ, con cũng đến tuổi nhập ngũ rồi. Hãy đi khỏi nơi này đi con. - Cha vỗ nhẹ lên vai tôi. - Hãy làm những điều con muốn. Đừng kết thúc tất cả như cha. - Cha nói với theo khi tôi đã đặt một chân lên xe buýt.
Tôi áp mặt vào cửa xe dõi theo cha cho đến khi bóng ông khuất hẳn vào đám đông người qua lại. Hơn bao giờ hết, tôi chỉ muốn nhảy xuống xe mà ôm chầm lấy cha, nắm lấy tay cha, hoặc chỉ đơn giản là ngồi cạnh cha như cách mà ngày xưa tôi hay ngồi dưới chân khi ông đọc báo vào những buổi tối - như hình ảnh người cha mà tôi biết nhiều năm về trước. Tôi muốn ông là một phần của cuộc đời mình. Tôi muốn có cha. Khi chiếc xe buýt rời khỏi San Francisco, tôi không thể kiểm soát được cảm xúc của mình nữa. Tôi bật khóc. Tôi siết chặt nắm tay lại, những ghìm nén vô bờ chất chứa trong lòng tôi bao năm qua vỡ òa theo tiếng khóc của tôi. Tôi nhận ra cha mình bấy lâu đã phải chịu đựng một cuộc sống cô đơn kinh khủng đến nhường nào. Tôi thành tâm nguyện cầu Đức Chúa sẽ dõi theo ông ấy, che chở ông ấy trong những đêm giá lạnh và bảo vệ ông ấy khỏi những đau đớn, tổn thương. Gánh nặng về những mặc cảm, lỗi lầm lại đè nặng lên vai tôi hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy thật đau buồn vì mọi thứ đã xảy đến trong cuộc đời cha.
Sau lần gặp chú Lee, tôi mường tượng trong đầu rằng có lẽ tôi sẽ mua một ngôi nhà ở Guerneville và đưa cha về sống cùng. Chỉ có như vậy tôi mới có thể giúp cha chữa lành mọi vết thương lòng và chúng tôi có thể ở bên nhau mãi mãi. Nhưng, như mọi khi, tôi hiểu rằng những suy tưởng chỉ có trong mơ và thực tế mới là cuộc sống. Tôi cứ thế khóc hết đoạn đường về nhà Alice.
Vài tháng sau, suốt mùa hè năm 1978, sau hàng chục cuộc phỏng vấn, tôi được nhận vào làm nhân viên bán xe hơi. Nghề bán xe hơi thật sự làm đầu óc tôi vô cùng mệt mỏi. Những viên quản lý mới ngày hôm trước còn lơn tiếng cảnh báo với nhân viên về doanh số bán hàng, thì ngay ngày hôm sau họ lại dùng tiền để khích lệ chúng tôi. Cuộc cạnh tranh rất khốc liệt. Nhưng bằng nhiều cách, tôi luôn vượt doanh số được giao. Nếu có một ngày cuối tuần không làm việc, tôi lại chạy ngay về Duinsmoore để cùng với Paul và Dave thực hiện các trò mạo hiểm trên chiếc xe bốn bánh - chiếc xe tôi mượn của công ty mình làm việc. Một lần nọ, sau khi xem xong một bộ phim về các diễn viên đóng thế ở Hollyvvood, cả ba chúng tôi đã cùng ngồi quay mặt hết về phía trước còn tôi thì cho xe chạy lùi lại theo một đường thẳng tắp mà không quay nhìn về phía sau. Màn trình diễn của chúng tôi đã làm cho nhiều chiếc xe bị hư hỏng và cả ba đã gặp một chút rắc rối với chính quyền địa phương. Nhưng tôi biết những lần mạo hiểm liều lĩnh của chúng tôi sẽ phải kết thúc khi Paul và Dave trưởng thành và bắt đầu tìm việc làm như tôi, thế nên tôi cũng không mấy bận tâm đến hậu quả.
Một ngày nọ, Dan lái xe chở Paul đến tận nhà Alice tìm tôi để nói với tôi rằng hãy tu bỏ giấc mơ điên rồ trở thành một diễn viên đóng thế của Hollywood. Ông Brazell đã ngồi hàng giờ để phân tích cho tôi thấy tôi đã điên rồ như thế nào. Tôi lúc nào cũng yêu mến Dan. Sau khi đã hứa với Dan là sẽ từ bỏ ý tưởng ngu ngốc của mình, tôi tiễn hai cha con họ ra về. Chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác mình gần gũi với Dan còn hơn cả cha đẻ của mình nữa.
Gia đình Marsh cũng rất chu đáo. Thỉnh thoảng tôi còn giúp Sandra làm công việc nhà; qua những công việc đó, tôi đã học được nhiều điều có thể giúp tôi tự lập hơn. Ông Marsh cũng khuyên tôi nên gia nhập quân đội. Ngay lập tức, tôi nghĩ ngay đến Lực lượng Không quân, nhưng vì mới chỉ là học sinh năm đầu của bậc phổ thông trung học, tôi đã thất bại thảm hại khi tham dự các bài thi năng khiếu.
Mấy tháng hè trôi qua. Tôi sắp bước qua tuổi mười tám, thế nên một ngày nọ tôi quyết định bỏ học bậc phổ thông trung học. Alice giận đến phát điên, nhưng nghề bán xe hơi của tôi đang ở giai đoạn cực thịnh. Trong đội ngũ hơn bốn mươi nhân viên bán hàng, tôi luôn giữ vị trí của một trong năm người dẫn đầu về doanh số bán ra. Nhưng vài tháng sau sinh nhật lần thứ mười tám của tôi, mọi thứ bắt đầu rơi vào suy thoái. Giá xăng dầu tăng đột biến, tiền tiết kiệm của tôi dần cạn kiệt và tôi phải đương đầu với thực tại là mình sẽ không có nơi nào để dung thân.
Để thoát khỏi những ngột ngạt, một hôm Chủ nhật nọ tôi lái chiếc Mustang ’65 của mình nhắm thẳng hướng Bắc để tìm về Dòng Sông Nga. Tôi không biết chính xác làm thế nào để đến được đó, tôi chỉ lái xe đi theo bản năng, dựa vào ký ức tuổi thơ của mình mà thôi. Khi nhận ra con đường quen thuộc, tôi liền bẻ lái rẽ vào. Nhìn thấy bóng những ngọn cây tùng bách gỗ đỏ thấp thoáng xa xa, tôi biết mình đã đi đúng hướng. Tim tôi đập mạnh khi cho xe dừng ngay trước siêu thị Safeway xưa cũ. Tôi nhìn chăm chú vào những lối đi mà khi còn nhỏ, tôi từng luẩn quẩn quanh đó dưới chân mẹ. Tôi bước vô siêu thị mua một cây xúc xích Ý và một ổ bánh mì Pháp. Rồi tôi ghé vào một quán rượu bỏ hoang của bãi tắm Johnson và từ từ nhấm nháp bữa trưa. Nơi đây, tôi có thể nghe thấy tiếng sóng rì rầm của Dòng Sông Nga và tiếng kim loại va đập vào nhau khi những chiếc mô-tô ngoại cỡ chạy ngang qua chiếc cầu màu xanh nhỏ hẹp. Tôi thấy lòng bình yên lạ.
Để thực hiện được lời thề sẽ đến sinh sống bên bờ Sông Nga xinh đẹp, tôi biết trước tiên tôi phải tìm lại chính mình. Nếu còn để cho quá khứ luẩn quẩn trong lòng, tôi sẽ không thể làm được điều đó. Tôi phải có một bước đột phá. Tôi nhặt hết rác bẩn quanh mình và rời khỏi bến sông. Mặt trời chiếu những tia nắng ấm áp lên vai tôi. Tôi thấy lòng mình ấm lại. Tôi đã có quyết định của mình. Quay lại nhìn dòng sông một lần nữa, tôi chực muốn khóc. Nếu tôi muốn, tôi có thể chuyển đến bến sông này, nhưng tôi biết bây giờ chưa phải lúc. Tôi hít thở thật sâu và nói thật khẽ, cũng là thay đổi lời hẹn ước trọn đời của mình. Tôi sẽ trở lại.
Vài tháng sau, sau khi lấy được bằng phổ cập trung học và hoàn thành một loạt các bài sát hạch và kiểm tra kiến thức, tôi vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ. Chuyện đến tai mẹ, và bà ấy đã gọi cho tôi một ngày trước khi tôi tham gia đợt huấn luyện cơ bản. Giọng của bà ấy lúc này không còn hung tợn như ngày nào, mà chính là giọng nói ngọt ngào của người mẹ thân yêu tôi đã có từ rất lâu. Tôi như nhìn thấy gương mặt mẹ khi bà ấy khóc ở đầu dây bên kia. Bà nói rằng lúc nào bà cũng nghĩ đến tôi và rằng bà ấy không cầu mong gì khác ngoài những điều tốt đẹp nhất đến với tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau hơn một giờ đồng hồ, và tôi cố gắng lóng tai, hy vọng có thể nghe được ba từ quan trọng nhất mà tôi đã ao ước được nghe mẹ nói trong suốt cả cuộc đời mình.
Nghe thấy tôi sụt sịt trong lúc nói chuyện điện thoại, Alice nhẹ nhàng đến bên tôi. Tôi muốn đến bên mẹ. Tôi muốn nhìn thấy khuôn mặt của mẹ với hy vọng sẽ được nghe mẹ nói với tôi ba từ quan trọng ấy. Tôi nhận ra mình thật ngu ngốc, nhưng ít ra thì tôi cũng nên cố gắng. Alice cố hết sức để thuyết phục tôi không đến nhà mẹ. Tận sâu trong lòng, tôi cũng nghĩ rằng mẹ chỉ đang đùa giỡn với tình cảm của tôi mà thôi. Hơn mười tám năm qua, tôi luôn ước ao có được một thứ mà tôi biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ có được - đó là tình yêu của mẹ. Alice dang rộng tay ôm chặt tôi vào lòng. Tôi cũng ôm bà thật chặt, lòng chợt nhận ra cuộc tìm kiếm tình yêu thương của tôi cuối cùng đã kết thúc trong vòng tay của một người mẹ nuôi.
Ngày hôm sau, trước khi tôi lên đường, Harold nhìn tôi bằng đôi mắt cương nghị nhưng đầy tình cảm.
- Bây giờ thì phải cố gắng lên nhé, con trai. - Ông nói.
- Thưa vâng, con sẽ cố gắng. Cha sẽ thấy. Con sẽ làm cho mọi người tự hào về con.
Alice mỉm cười.
- Con biết con là ai mà. Con luôn luôn biết điều đó mà. - Bà vừa nói vừa trao cho tôi một chiếc chìa khóa màu vàng. - Đây là nhà của con. Nó đã là nhà của con và sẽ mãi mãi là nhà của con.
Tôi cất chiếc chìa khóa nhà mình vào túi. Sau khi hôn Alice, mẹ tôi, và bắt tay Harold, cha tôi, tôi định nói với họ điều gì đó. Nhưng vào chính khoảnh khắc ấy thì tôi nghĩ không cần bất kỳ một ngôn từ nào cả, vì chúng tôi đều hiểu rõ tình cảm và cảm xúc của nhau - đó là tình yêu thương của một gia đình.
Vài giờ sau đó, khi chiếc Boeing 727 nghiêng mình cất cánh khỏi California, tôi nhắm mắt hồi tưởng lần cuối cùng về thân phận của một đứa trẻ lạc loài. Tôi hồi tưởng về hình ảnh “vị Trung sĩ” Michael Marsh, hình dung ánh mắt ông nhắm thẳng lên bầu trời cao vút mà nói với tôi:
- Nào, chàng phi công Pelzer, suy nghĩ gì đấy?
- Vâng, - tôi đáp lời, - cháu hơi sợ một chút ạ, nhưng cháu sẽ coi đó là bước tiến của cháu. Cháu đã có một kế hoạch lớn. Cháu đang rất quyết tâm, và cháu biết rằng mình sẽ làm được.
Và người thầy đáng kính của tôi nhìn tôi mà cười:
- Tốt lắm, cậu trai nhà Pelzer ạ. Cứ thế nhé.
Ngồi trên chuyến bay đầu tiên của mình, tôi mở mắt thật to nhìn vào khoảng không rộng mở phía trước với vai trò một người đàn ông tên Dave. Tôi mỉm cười. Giờ thì cuộc hành trình bắt đầu rồi đây!