← Quay lại trang sách

Chương 9 VÒNG LUẨN QUẨN

Thời gian tôi sống ở gia đình Turnbough được tính theo từng ngày. Rồi một tuần, hai tuần... Tôi vẫn luôn tự hỏi không biết nơi nào là chốn dừng chân của tôi. Trái lại với cảm giác lo lắng của tôi, Alice không chút nóng lòng. Bà đã đưa tôi trở lại trường trung học Parkside. Dù rất vui vì lại được đi học, được gặp lại các thầy cô, tôi vẫn thấy lòng mình nặng trĩu vì đám mây u ám vẫn vần vũ trên đầu. Tôi sợ phải về nhà Alice sau giờ học. Tôi cứ dáo dác nhìn quanh góc đường xem có chiếc xe nào của chính quyền không, vì biết rằng sớm muộn gì tôi cũng bị đưa đi thôi. Hàng ngày, tôi đánh bạo theo sát Alice, cố nghe ngóng thông tin về Gordon Hutchenson. Thật tệ khi phải trải qua những ngày lấp lửng, chẳng biết số phận của mình ngày mai sẽ ra sao.

Một tháng trôi qua... Tôi vẫn còn ở nhà Alice, vẫn ngủ trên trường kỷ và sống qua ngày bên cạnh túi đồ cũ kỹ của mình. Quần áo của tôi đã trở nên cũ sờn và mốc meo bởi tôi chỉ có thể giặt đồ hai lần trong tuần, là sau ba giờ chiều thứ Bảy và ngày Chủ nhật - tôi biết chỉ những lúc đó, người ta mới không đến đưa tôi đi. Sau lần bỏ quên con rùa cưng của mình ở nhà Catanze, tôi không muốn đánh mất bất cứ thứ gì khác. Hàng đêm, khi mọi người đã say giấc, tôi lại ngồi trên ghế, cầu nguyện cho ngày hôm sau Gordon sẽ đến và quyết định số phận của tôi.

Một ngày nọ, khi tôi vừa đi học về, Alice bảo tôi ngồi xuống để nói chuyện. Tôi hồi hộp vô cùng và gồng mình chờ đợi tin xấu. Nhưng chẳng có tin xấu nào cả. Alice chỉ nói rằng bà muốn tôi gặp một vị bác sĩ tâm lý vào ngày hôm sau. Tôi lắc đầu từ chối. Alice tiếp tục giải thích rằng bà ấy hiểu những rắc rối của tôi về ông bác sĩ lần trước. Tôi rất ngạc nhiên vì bà ấy biết quá nhiều về quá khứ của tôi, trong khi tôi không hề nói với bà bất cứ điều gì.

- Vậy là bà đã nói chuyện với quản chế của con, nhưng ông ấy cũng không đến đây gặp con ạ? - Tôi buột miệng nói luôn suy nghĩ trong đầu và không khỏi cảm thấy xấu hổ.

Alice giải thích rằng bà đang thực hiện những thủ tục để tôi được ở lại gia đình bà ấy, và phải thêm một thời gian nữa, bà ấy mới được cấp phép để nhận nuôi con trai.

- Nhưng con đừng lo, - bà quả quyết, - Harold và ta đã thống nhất là chúng ta muốn con ở lại nhà chúng ta một thời gian đấy.

Không chút ngần ngại, tôi nhào đến ôm hôn Alice. Rồi tôi nhìn bà thắc mắc:

- Ý bà là Harold cũng muốn con ở lại?

Alice cười vang:

- Harold không trò chuyện nhiều với con không có nghĩa là ông ấy không thích con đâu. Chỉ là ông ấy cần thời gian để hiểu con. Ta chắc rằng nhiều người cũng sẽ làm như thế. Nhưng con phải biết rằng nếu Harold không thích con thì con đã không thể ở lại đây rồi. - Lúc này, những ngón tay gầy còm nhỏ bé của tôi nằm gọn trong lòng bàn tay bà ấy. - Này, Leo yêu quý con nhiều hơn là con tưởng đấy nhé.

Lời bộc bạch của Alice về Harold rất ý nghĩa đối với tôi. Kể từ khi tôi buột miệng thốt ra với ông ấy chuyện ở cùng phòng với một cô gái, tôi có cảm giác Harold nghĩ tôi là một thằng bé lạ thường. Dường như ông ấy chẳng bao giờ nói chuyện với tôi. Thỉnh thoảng ông cũng nói với tôi vài lời, nhưng chủ yếu là nhắc tôi hãy đọc sách thay vì chúi mũi vào màn hình ti-vi. Mỗi buổi tối, sau bữa ăn, như đã được lập trình sẵn, Harold luôn lôi ra một cuốn sách để đọc, tay cầm điếu thuốc lá hiệu Camel và đi ngủ chính xác vào lúc chín giờ tối.

Tôi rất ngưỡng mộ Harold, dù ông không bao giờ biết được điều đó. Ông là thợ mộc, và ông có niềm dam mê mãnh liệt đối với nghề nghiệp của mình. Tôi mong mình sẽ được sống trong gia đình Tumbough đủ lâu để có thể học nhiều điều bổ ích từ Harold. Từ khi còn bé, tôi đã mơ ước một ngày nào đó mình sẽ xây được một căn nhà nhỏ bằng gỗ bên Dòng Sông Nga, vì vậy thỉnh thoảng tôi vẫn tưởng tượng đến viễn cảnh Harold và tôi cùng nhau thực hiện một dự án nào đó, với hy vọng điều đó sẽ mang chúng tôi đến gần nhau hơn. Tôi còn nghĩ rằng đó sẽ là một cơ hội để tôi chứng tỏ bản thân mình với ông ấy.

Ngày hôm sau, trước sự thúc giục của Alice, tôi nhảy lên xe buýt để đến gặp vị bác sĩ tâm lý mới, bác sĩ Robertson. Ông có cách ứng xử trái ngược hoàn toàn với “ông bác sĩ vĩ đại” tôi đã gặp trước đây. Ông ấy chào đón tôi bằng một cái bắt tay và bảo tôi cứ gọi ông bằng tên, Donald. Cả văn phòng của ông ấy tràn ngập ánh mặt trời tươi sáng và ấm áp, nhưng điều quan trọng nhất là bác sĩ Robertson đối xử với tôi như với một con người.

Trong những cuộc gặp gỡ hàng tuần của tôi với bác sĩ Robertson, tôi không bao giờ cảm thấy bị áp lực phải nói về bất cứ thứ gì. Tôi hào hứng và chủ động trò chuyện với ông về quá khứ của mình. Tôi đặt câu hỏi với bác sĩ Robertson về mọi thứ, kể cả việc liệu tôi có đi theo vết xe đổ của mẹ hay không. Trước những câu hỏi đó, bác sĩ Robertson luôn cố gắng lái câu chuyện sang hướng khác, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn muốn đào sâu khoảng thời gian đen tối đó để tìm ra câu trả lời cho cuộc đời mình. Tôi dần đặt niềm tin vào bác sĩ Robertson bởi tôi cảm nhận được tình cảm của ông khi ông luôn sẵn sàng cùng tôi tìm hiểu bản chất của những vấn đề rối rắm và nhạy cảm trong quá khứ của tôi.

Như cảm nhận được điều gì đó ở tôi, bác sĩ Robertson bắt đầu gợi ý tôi hãy đọc vài quyển sách để nghiên cứu thêm về tâm lý học cơ bản. Chẳng bao lâu sau, Harold và tôi cứ hay tranh cãi với nhau về việc ai đã bẻ cong cái đèn bàn bên trường kỷ để đọc sách. Khoảng thời gian đó tôi bắt đầu đọc những quyển sách tâm lý về lòng tự trọng của Norman Vincent Peale và một số quyển thuộc các đề tài khác, như quyển Your Erroneous Zones (tạm dịch: Những vùng sai lầm của bạn). Càng lúc tôi càng nhận thấy rõ mình bị hấp dẫn bởi những học thuyết cơ bản về những bí quyết tiêu biểu để vượt qua nghịch cảnh và sống sót như những gì bác sĩ Abraham Maslow đã viết trong tác phẩm của ông. Đôi khi, tôi bị lúng túng trước những từ ngữ khó hiểu, nhưng với lòng kiên trì, tôi nhanh chóng khám phá ra rằng việc mất thời gian để tìm hiểu đã giúp cho sự hiểu biết của tôi thêm sâu. Tận một góc khuất nào đó trong lòng, thỉnh thoảng tôi vẫn không khỏi cảm thấy ngượng nghịu và trống rỗng, nhưng tôi nhận ra mình mạnh mẽ hơn hầu hết những bạn bè cùng trang lứa ở trường, những người vẫn đang sống trong thế giới “bình thường” yên bình của họ.

Ở nhà Alice, tôi cảm thấy mình có thể bộc bạch với bà về mọi thứ, vào bất cứ lúc nào tôi muốn. Có những lúc bà ấy và tôi ngồi tán gẫu với nhau mãi đến khi trời gần sáng. Nói chuyện với bà, tôi cảm thấy thật sự thoải mái. Bất cứ khi nào tôi có cảm giác lo lắng, bất an và bắt đầu nói lắp, Alice lại chỉ cho tôi cách để suy nghĩ của mình dịu lại và yêu cầu tôi hình dung ra mình sẽ nói gì trước khi thốt nên lời. Chỉ trong vài tuần lễ, khả năng diễn đạt của tôi được cải thiện rõ rệt.

Mỗi chiều thứ Bảy, sau khi đã nhảy một điệu jig* quen thuộc theo American Bandstand, Alice và tôi sẽ cùng đi men theo đường ray xe lửa để đến trung tâm mua sắm, cũng là nơi bà Catanze đã đưa tôi đến để mua sắm quần áo trước đây. Chúng tôi cũng thường xem phim cùng nhau, và đó là cách duy nhất Alice có thể khiến tôi ngồi yên trong một khoảng thời gian dài nào đó. Ngồi yên lặng cạnh bà ấy, tôi siết chặt tay chăm chú theo dõi từng cảnh phim. Tôi thường đoán trước được diễn biến của một cảnh phim đơn giản. Tôi như bị thôi miên bởi những cảnh phim rắc rối, phức tạp và bởi cái cách mà đạo diễn đã gắn các tiểu cảnh lại với nhau thành một bộ phim hoàn chỉnh. Sau mỗi bộ phim, Alice và tôi lại hào hứng cùng nhau bình luận.

Một điệu nhảy dân gian, được kết hợp với các giai điệu vui nhộn và rất phổ biến ở Ai-len

Thỉnh thoảng, chẳng vì một lý do đặc biệt nào cả, bà lại mua cho tôi những món đồ chơi mà bà gọi là những món đồ “gọi là”. Ban đầu, tôi lúng túng và thấy mình không xứng đáng, một phần vì xưa nay tôi không quen được tặng quà, một lý do nữa là tôi biết Harold đã phải làm việc vất vả và ông ấy đã tiết kiệm từng đồng như thế nào. Cuối cùng, tôi cũng cho phép mình nhận những món quà để làm vui lòng Alice. Đối với tôi, đó là một việc làm khá khó khăn.

Món quà ý nghĩa nhất mà gia đình Tumbough dành cho tôi chính là cơ hội để tôi thể hiện tình cảm đối với họ, lần cuối cùng khi tôi là một đứa trẻ đang ở ngưỡng cửa bước vào giai đoạn trưởng thành. Một buổi chiều nọ, tại bàn ăn trong nhà bếp - cũng là “bàn họp gia đình”, tôi đã rất muốn thể hiện tình cảm của mình với Harold và Alice, muốn cho họ biết rằng họ có ý nghĩa với tôi biết nhường nào. Tôi lôi trong túi quần ra một mảnh giấy xỉn màu đã bị vấy bẩn và xé nó thành từng mảnh vụn.

- Điều đó có nghĩa là gì thế con? - Harold nhíu mày, trong khi nước mắt đã bắt đầu chảy dài trên khuôn mặt Alice.

- Con không cần nó nữa. - Tôi hùng hồn tuyên bố. - Và con đã nhớ được số điện thoại của nhà mình rồi. Cha mẹ có muốn nghe không? - Alice gật đầu. - 555-2647. - Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt màu xanh của Harold, đọc rõ ràng từng con số. Ông nhìn tôi nháy mắt. Tôi nghĩ là mình có thể cảm nhận được ánh mắt ấy.

Những khi Alice và tôi nói chuyện lâu với nhau, đề tài chủ yếu thường xoay quanh cuộc sống tương lai của tôi. Chỉ một câu hỏi đơn giản “Khi lớn lên, con muốn làm gì, hả David?” cũng khiến tôi thấy lo sợ. Tôi luôn nghĩ đến hình ảnh của Chris, người anh em của tôi ở nhà bà Catanze, và nỗi đau khổ của anh ấy khi bước sang tuổi mười tám. Nhưng tôi chưa từng nghĩ xa như vậy. Trước kia, để sống sót sau những trận đòn thừa sống thiếu chết của mẹ, tôi phải tính toán kế hoạch cho cuộc sống của mình từng giờ, từng ngày. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ xa hơn. Nhung tôi vẫn luôn cảm nhận một nỗi sợ hãi mơ hồ khi hình dung mình sống một mình trong một thế giới rộng lớn. Những lúc đó, tôi lại trở nên căng thẳng và sợ hãi đến nỗi bắt đầu nói lắp. Và Alice lại giúp tôi xoa dịu mọi chuyện. Nhưng vào ban đêm, khi chỉ còn lại một mình trong phòng riêng, tôi run rẩy với nỗi sợ không biết sẽ phải tự tìm cái ăn và chỗ ở như thế nào. Tôi suy nghĩ nhiều đến nỗi thiếp đi trong cơn nhức đầu kinh khủng. Đối với tôi, mười lăm tuổi là thời điểm có thể bắt đầu lo nghĩ về những chuyện đó.

Tôi bắt đầu nghĩ cách kiếm tiền. Tôi xin phép Harold và Alice được ra ngoài làm công việc đánh giày. Ngày đầu tiên lăn lộn ở bên ngoài, tôi kiếm được hai mươi mốt đô-la sau khi đánh hàng chục đôi giày trong chưa đầy sáu tiếng. Lòng tôi lâng lâng một niềm vui và niềm tự hào khó tả khi một tay tôi cầm hộp đồ nghề đánh giày cùng một túi bánh rán, tay còn lại tôi cầm một bó hoa cho Alice và hai quyển sách cho Harold. Sau đó, tôi làm thêm một nghề nữa tại một xưởng sửa đồng hồ. Tại đây tôi làm việc hai mươi giờ mỗi tuần để có được mười đô-la hai mươi lăm xu. Thật ra tôi không quá quan trọng giá trị những đồng tiền tôi kiếm được. Cuối mỗi tuần làm việc, mắt tôi nặng trĩu vì buồn ngủ nhưng lòng cảm thấy rất vui vì mình đã làm được một điều gì đó có ích - và đó mới chính là điều quan trọng nhất. Trong khi những người bạn đồng trang lứa thỏa thích chơi đá banh ngoài đường hay lang thang mua sắm trong siêu thị, tôi đang dần trở thành một người biết tự lập.

Dường như tôi và bọn bạn ở trường không có điểm chung. Bọn bạn tôi phần lớn đều cố gắng tạo ấn tượng với người khác bằng cách tỏ ra dễ thương, đáng mến. Tôi biết mình không quen làm như vậy, nên tôi cũng không quan tâm nhiều. Thỉnh thoảng, tôi cũng làm vài trò vui chọc cả lớp cười, nhưng tôi cũng không quan tâm nhiều đến những gì bạn bè cùng lớp nghĩ về tôi. Khi họ kháo nhau về những chuyến trượt tuyết cuối tuần, tôi lại ngồi nghĩ cách phải làm thế nào để tập trung sức lực trong một giờ làm thêm.

Một hôm thứ Sáu nọ, vài tuần trước khi tôi tốt nghiệp trường trung học Parkside, một đám học sinh con nhà giàu khoe khoang với nhau về các kế hoạch đi Dysneyland hay du lịch đến bờ biển Hawaii lừng danh. Thay vì mặc cảm, tủi thân, sau giờ học chiều hôm ấy, tôi chạy thật nhanh từ trạm xe buýt về nhà và suýt đâm sầm vào cửa.

- Chuyện gì thế? - Alice kêu lên.

Tôi nốc cạn một ly nước rồi thong thả trả lời. Tôi sắp mười bảy tuổi và tôi chưa biết nấu nướng gì cả. Alice trấn an tôi rằng đến lúc đó, bà sẽ dạy cho tôi. Tôi khăng khăng không chịu. Tôi muốn biết nấu ăn ngay. Tôi nhìn bà bằng ánh mắt rất nghiêm túc, kiểu nhìn tôi đã học được từ bà Catanze. Điều đó quả có tác dụng. Mặc dù đã dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị cho buổi chơi bài brit sắp diễn ra trong hai giờ nữa, bà ấy quyết định hướng dẫn tôi làm món bánh nướng.

Quyết định của Alice đã gây nên nhiều điều tai hại. Trong một khoảng thời gian ngắn, tôi đã làm tiêu hết hai hộp hỗn hợp làm bánh hiệu Bisquick, bốn mươi tám cái trứng và gần tám lít sữa. Khắp nơi trên bếp nhớp nháp, màu trắng của bột, trứng, sữa đóng thành một lớp dày cộp, còn trần nhà thì lốm đốm bột bánh chín bị bắn lên. Sàn nhà lúc ấy trông như thể vừa có một trận bão tuyết càn qua, và cả Alice và tôi gần như bị ngộp thở trong đám bụi bột trắng mù mịt. Khuôn mặt Alice lộ rõ vẻ căng thẳng, nhưng bà vẫn cười với tôi - và kiên nhẫn chỉ bảo tôi cho đến khi tôi làm được một cái bánh ra trò.

Mỗi ngày đối với tôi dường như là một cuộc phiêu lưu mới. Thỉnh thoảng sau khi đi học về, tôi lại ở trong phòng khách chơi trò xếp hình với bộ Lego hay bộ Erector. Nhưng cũng có những lúc tôi đóng vai trò như một người đàn ông thực thụ, tranh thủ về nhà để thay quần áo rồi chạy vèo đi làm. Lần đầu tiên trong đời, tôi có một cuộc sống thực sự.

Tháng Bảy năm 1976, cuộc đời tôi rẽ sang một bước ngoặt mới. Tôi bắt đầu cảm thấy chán đi làm bằng xe đạp mỗi sáng trong lúc mọi người vẫn còn đang say ngủ. Rồi một buổi chiều nọ, sau một ngày làm việc vất vả, tôi mệt mỏi quay về nhà và nhận ra không phải một mà những hai đứa con trai nuôi khác vừa dọn đến. Tôi không có thiện cảm ngay với Bruce, một trong hai đứa đó, một phần vì tôi phải chia sẻ căn phòng vốn dĩ của riêng mình cho cậu ta, một phần vì cậu ta luôn tìm cách nịnh bợ để lấy lòng bà Alice. Cả hai đều đã mười bảy tuổi nhưng hầu như không chút quan tâm đến việc tự lo cho bản thân mình. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu với cả hai. Trong khi tôi hộc tốc đến chỗ làm, thì hai người họ lại ung dung đi mua sắm với Alice. Theo một chiều hướng cảm xúc kỳ quặc, tôi cảm thấy bị đe dọa và bị xâm phạm trước sự có mặt của họ. Tôi biết khoảng thời gian thơ trẻ của tôi với Alice đã không còn nữa, thế nhưng, theo một lẽ tự nhiên, tôi chỉ muốn kéo dài thời gian ấm áp đó thêm một ít nữa trước khi tôi thực sự trưởng thành.

Sau đó vài tuần, tôi phát hiện ra tiền tiết kiệm cùng vài thứ lặt vặt tôi đã mua bằng tiền kiếm được không còn nữa. Ban đầu, tôi nghĩ mình đã để lộn chỗ đâu đó nên không nhớ ra. Nhưng một ngày nọ, tôi đột nhiên hiểu ra tất cả. Tôi đến trước mặt Alice và mạnh miệng yêu cầu rằng hoặc là hai người đó rời khỏi nhà Alice, hoặc là tôi. Tôi biết mình đã hành động như một đứa hỗn xược, hư hỏng, nhưng tôi không thể chịu đựng thêm nữa việc lúc nào cũng phải tìm cách giấu giếm đồ đạc của mình, rồi trong lúc đi làm thì phải nghĩ ngợi xem làm thế nào để kiếm lại được số tiền đã bị lấy mất. Tôi đã làm việc cật lực để có mọi thứ, để rồi nhìn chúng dần dần biến mất hết. Tôi hy vọng Alice sẽ nhượng bộ, nhưng sau cùng thì người phải thu dọn quần áo ra đi lại là tôi. Tôi tự thấy mình đã rời khỏi nhà Tumbough như một thằng ngốc. Đối với tôi, đó là một hành động của danh dự - tôi phải chịu trách nhiệm với điều mình đã nói ra.

Tôi ở tại Cục bảo vệ trẻ em trong vài tuần, cho đến khi người quản chế mới của tôi là bà O’Ryan sắp xếp cho tôi đến ở với gia đình của John và Linda Walsh, một cặp vợ chồng trẻ chưa đến ba mươi tuổi đã có ba đứa con. John có mái tóc dài màu đen, chơi piano cho một ban nhạc rock ‘n’ roll, còn Linda là một chuyên viên tư vấn sắc đẹp làm việc tại nhà thuốc Walgreen của địa phương. Cả hai người rất tử tế, và tôi cực kỳ ngạc nhiên trước thái độ sống vô tư lự, thảnh thơi của họ. Họ hoàn toàn cho phép tôi làm những gì tôi thích. Khi tôi muốn mua một chiếc xe đạp, John đồng ý ngay. Một hôm nọ, tôi rụt rè nhờ ông ấy chở đến cửa hàng đồ thể thao của địa phương để mua một khẩu súng BB, ông ấy trả lời ngay: “Đi nào”. Tôi rất sửng sốt. Nếu còn sống cùng gia đình Tumbough, tôi chưa bao giờ dám nghĩ mình có thể đề nghị với họ điều này, còn John thì thoải mái đến độ không có một cái nhíu mày. Điều kiện duy nhất của John là ông sẽ dạy cho tôi những quy tắc an toàn khi dùng súng, và tôi chỉ có thể bắn bằng giấy trước sự giám sát của ông mà thôi. Tôi nhanh chóng quên đi việc tìm kiếm một công việc khác và hội nhập với cách sống thoải mái của gia đình Walsh.

Vài tuần trước khi tôi bước vào năm đầu tiên ở trường trung học phổ thông, John và Linda nói với tôi rằng họ sẽ chuyển đi. Vừa nghe xong, tôi đã lao như điên lên phòng và gom hết mọi thứ của mình vào trong một cái túi. Tôi giận điên người. Có vẻ như cứ mỗi khi, mỗi khi tôi hòa nhập được với cuộc sống mới, thì lại có điều gì đó xảy ra. Tôi xách cái túi trở lại phòng khách.

- Được rồi, chúng ta đi nào! Đưa con đến Hillcrest đi!

John và Linda cùng nhìn nhau cười to.

- Không phải đâu, nhóc. - John phất tay phân trần. Ta nói là chúng ta sẽ chuyển đi, và con sẽ cùng đi với chúng ta. Con không thích vậy à?

Tôi thấy bối rối và ngượng ngùng. Vì thế tôi cứ đứng im lặng một lúc lâu trước mặt họ, chẳng biết nói gì. Sau cùng tôi gãi tai và cười gượng:

- Con không biết hai người đang cười chuyện gì, con chuẩn bị đồ xong rồi đây này!

Linda huých vào người John:

- Một cậu nhóc thông minh.

Ngày hôm sau, John lái chiếc U-Haul lớn đưa cả nhà ra ngoại thành. Tôi nhảy xuống xe, không thể tin được vào những gì được trông thấy. Như thể chúng tôi vừa dọn đến một nơi tương tự trong phim Leave It to Beave vậy. Tôi đi vòng quanh chiếc U-Haul và trố mắt nhìn toàn bộ khu dân cư. Mỗi bãi cỏ được cắt tỉa cực kỳ cẩn thận. Những căn nhà không chê vào đâu được này trông như những tòa lâu đài thu nhỏ, và từng chiếc xe trước mỗi căn nhà đều sáng bóng như thể chúng vừa được khui từ trong thùng ra. Tôi tản bộ xuống khu trung tâm Duinsmoore, hít thở không khí trong lành của hoa cỏ và nghe cả tiếng gió lùa xào xạc qua rặng liễu xanh rì đong đưa trước gió.

Tôi không thể tin tất cả những điều này là sự thật, và mỉm cười một mình.

- Phải, - tôi la lên, - mình có thể sống ở đây rồi!

Tôi làm quen với Paul Brazell và Dave Howard, hai bạn hàng xóm trạc tuổi tôi. Họ mê mẩn nhìn ngắm chiếc xe đạp màu đỏ sậm và cây súng BB Daisy của tôi. Đôi mắt họ ánh lên ham muốn được khám phá. Được cùng những người bạn mới của mình thỏa chí mạo hiểm, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Hai người bạn mới của tôi cũng có xe đạp, thế là cả ba nhanh chóng rong ruổi trong những cuộc đua xe trên con đường dài vô tận. Paul luôn giành chiến thắng, vì hai lý do: xe của cậu ấy không có thắng, và cậu ta nhẹ ký hơn tôi.

Sau hàng trăm cuộc đua, tôi chỉ thắng có một. Một hôm nọ, trong lúc cả ba đang cùng lướt nhanh trên con đường gần nhà, xe tôi bị đứt thắng. Tôi phải hãm phanh bằng cách chà chân xuống đường. Trong lúc đó, vạt áo sơ-mi của tôi lại mắc vào bánh xích. Tôi bị ngã, cả thân người đập mạnh xuống đường và còn bị kéo lê đi một đoạn dài. Chiếc xe bị hất tung và mắc vào một bụi cây.

Trong lúc tôi còn đang lồm cồm bò dậy thì Dave nhảy xuống xe, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Paul cũng dừng lại. Mắt cậu ta mở to như vừa nhìn thấy tiền:

- Trời ơi, thật tuyệt, thật quá sức tưởng tượng! Cậu làm lại như vậy một lần nữa được không?

Tôi phủi phủi rồi đứng lên. Mấy người hàng xóm đang xén cỏ gần đấy liếc nhìn về phía chúng tôi. Có vẻ như họ quan tâm xem bụi cây kia có bị hư hại gì không hơn là việc tôi có bị làm sao hay không. Tôi cố không để ý đến những ánh nhìn thiếu thiện cảm của họ, lật áo xem vết thương rồi lại cười toe toét với Paul. Từ đó trở đi, tôi được phong làm “Cát-ca-đơ bậc thầy của Duinsmoore”.

Tối hôm đó, cả ba đứa tôi lại bàn tính kế hoạch cho chuyến mạo hiểm tiếp theo. Cha mẹ của Paul có một máy quay phim, vì thế, cậu ta quyết định cả nhóm sẽ làm một bộ phim mang màu sắc điệp viên James Bond, và tôi sẽ là diễn viên chính. Bối cảnh của bộ phim sẽ nói về việc ông bác sĩ Strange, do Dave thủ vai, kéo lê Bond trên đường. Paul sẽ đóng vai trò là nhà quay phim để ghi hết mọi góc độ. Tôi nói với Paul là tôi không chắc có nên thử trò nguy hiểm này hay không, trong khi đó thì Dave có vẻ hào hứng khi nói rằng cậu ta sẽ không khóc rống lên khi thấy các khuỷu tay chân của tôi đỏ au như thịt bò. Dave còn đóng vai trò điều phối viên cho màn mạo hiểm của tôi, có trách nhiệm giữ cho con đường không có bóng dáng người lái xe nào dưới mười tuổi và chuẩn bị sẵn một bộ đồ cứu thương khi màn trình diễn của tôi kết thúc. Tôi thầm cảm ơn trời vì ngày hôm sau thì máy quay của Paul bị hỏng.

Một ngày nọ, Paul giúp tôi chuẩn bị mọi thứ để gặp gỡ một cô gái cũng sống gần khu nhà của bọn tôi. Tôi chưa từng nói chuyện với cô gái nào trước đó. Và để chuẩn bị cho sự kiện này, Paul đã cho tôi mượn chiếc áo sơ-mi đẹp nhất của cậu ấy và chỉ cho tôi cách nói chuyện. Tôi cứ lóng ngóng trước gương, tự nói chuyện một mình để quen dần với cách nói lòng vòng mà Paul đã chỉ. Sau khi chải đầu, tôi hít một hơi thật sâu để lấy bình tĩnh. Sau khi dặn dò tôi thêm vài câu, Paul đẩy tôi ra khỏi nhà bằng một cái vỗ vai chắc nịch. Tôi rảo bước xuống Duinsmoore. Lúc rẽ vào góc đường, tôi chợt nghĩ, mình cũng đang được sống một cuộc sống bình thường như bao người khác. Tôi được sống ở một nơi có những người hàng xóm tốt bụng, cha mẹ nuôi của tôi để tôi được làm gì tôi thích, tôi không phải đi làm, và điều quan trọng nhất là xung quanh tôi có những người bạn tốt nhất thế gian.

Vài phút sau, tôi dừng chân trước ngôi nhà có khu vườn rải đầy sỏi trắng. Bãi cỏ xanh mướt chạy dài từ cổng trước vào tận bậc thang dẫn vào nhà. Tôi còn nghe được cả tiếng lích rích của mấy con chim non ẩn mình đâu đó trong bụi cây. Một cảm giác yên bình. Tôi gõ cửa và nín thở chờ đợi. Tay tôi run lên. Tôi cảm giác chân mình như không thể đứng vững thêm được nữa. Tôi thấy mình sao mà nông nổi bồng bột quá. Mồ hôi bắt đầu túa ra. Cảm giác hồi hộp lan dần rồi choán hết tâm trí tôi. Có vẻ như tôi đang hoảng sợ. Nhưng đây là nỗi sợ đáng yêu nhất mà tôi từng có. Cánh cửa hé mở, tôi khẽ siết chặt hai tay và hít một hơi thật sâu. Tôi cảm giác rõ cả người mình như run lên khi tôi nhìn vào gương mặt của cô gái xinh đẹp nhất tôi từng gặp. Nàng khẽ chào tôi bằng một nụ cười duyên dáng. Giọng nói dịu dàng và nhỏ nhẹ của nàng khiến tôi yên tâm và cảm thấy tự tin hơn. Tôi không thể tin làm cho một cô gái cười lại dễ như vậy. Tôi cảm thấy vô cùng sung sướng - cho đến khi mẹ của nàng đẩy nàng sang một bên.

Phải mất một lúc lâu tôi mới định thần được. Tôi ngước nhìn người phụ nữ. Bà ấy trông giống một quý bà trong vở kịch The Brady Bunch hơn là một người mẹ bình thường. Bà chỉ tay vào mặt tôi mà rằng:

- Cậu là thằng nhỏ... thằng nhỏ con nuôi, có đúng không? - Bà ấy cười đầy khinh miệt.

Tôi sững sờ không thốt nên lời.

- Cậu không có tí lễ phép nào với người lớn à? Cậu trả lời tôi đi chứ!

- Thưa bà? - Tôi lắc đầu không hiểu ý bà ấy.

- Nghe đây, - bà ta rít lên, - tôi biết tất cả về cậu và... Các cậu đã gây nên sự ồn ào, làm ầm ĩ, làm đinh tai nhức óc hết mọi người ở đây và đã phá hoại một cách cố ý tài sản riêng của người khác. Làm sao người ta có thể cho phép... thứ người như cậu được sinh sống ở chỗ chúng tôi chứ nhỉ. Tôi biết hết về cái loại người như cậu. Cậu là một thằng ranh du côn bẩn thỉu! Nhìn bộ dạng của cậu kìa - nặc mùi đầu đường xó chợ. Tôi không biết lũ trẻ ranh các cậu làm gì để trở thành... lũ con nuôi, - bà ta vừa nói vừa lấy tay bịt miệng lại như thể mình vừa văng tục chửi thề, - nhưng tôi chắc chắn là các cậu đã làm thứ gì đó mờ ám, đúng vậy không? - Khuôn mặt người phụ nữ đỏ bừng khiến tôi nghĩ bà ấy sắp phát rồ. - Đừng có bén mảng đến nhà tôi hay lân la trò chuyện với con tôi nữa, đừng bao giờ, nghe rõ chưa?!

Tôi đứng như bị thôi miên khi ngón tay sơn đỏ được cắt giũa cẩn thận của bà ấy dí sát vào mặt.

- Còn một lời khuyên nhỏ cho cậu nữa. - Người phụ nữ tiếp tục. - Đừng phí thời gian cố gắng làm gì. Cậu không biết tác hại của việc cậu làm đâu. Tôi thì biết! Tin tôi đi, tôi thực sự đang ban cho cậu một ân huệ lớn đấy! - Bà ta cười mỉa. - Cậu sẽ thấy! Tôi là một người rất rộng rãi và cũng rất biết điều. Vì thế, nếu cậu biết thân biết phận của một đứa con nuôi thì hãy mau mau biến sớm đi giùm cho! Đi mà đàn đúm với đồng loại của cậu ấy!

Tôi chưa kịp nói bất kỳ điều gì thì bà đã kéo con gái vào rồi đóng sầm cửa lại với tất cả sự giận dữ. Tôi lặng người đi. Tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi thấy như người mình dài thượt ra. Tôi nhìn đăm đăm vào tay chiếc áo màu đỏ đen bằng vải flanen của Paul. Hai tay áo hơi ngắn, nhưng tôi nghĩ cái áo rất đẹp. Tôi nghĩ mái tóc đang vuốt keo bóng loáng của mình cũng không đến nỗi tệ. Mình nghĩ rằng mình cần phải tắm một cái, tôi lẩm bẩm. Tôi nghĩ rằng, cho dù bề ngoài của tôi có thể hơi lập dị quái gở một chút, nhưng tôi rất tự tin với con người thật của mình. Tôi đã cố gắng hết sức để làm một con người bình thường. Tôi chỉ muốn thích nghi. Tôi chỉ muốn được giống như bao đứa trẻ bình thường khác.

Tôi lầm lũi quay về nhà Paul, đầu cúi gằm. Cậu ta nhảy dựng lên khi nhìn thấy tôi, luôn miệng hỏi tôi bao nhiêu thứ về cuộc hẹn với cô gái. Tôi không nói gì, trả áo rồi từ giã người bạn thân nhất của mình. Chiều tối hôm ấy, tôi nhốt mình trong phòng.

Chiều hôm sau, trong lúc tôi đang loay hoay sửa chiếc xe đạp của mình, một người đàn ông cao lớn đi thẳng đến trước mặt tôi, một tay ông ấy cầm ly bia, tay còn lại đẩy một cái xe tập đi của trẻ em.

- Này, cậu chính là mối hiểm họa của hàng xóm đấy hả? - Ông ta vừa nói vừa cười tinh quái. Tôi vẫn cúi đầu, nhưng cảm nhận rõ máu trong người đang sôi lên. Không nói gì thêm, ông ta bỏ đi.

Khoảng nửa giờ sau đó, người đàn ông lại xuất hiện. Tôi chờ đợi màn hạ nhục tiếp theo của ông ấy, trong đầu đã sẵn sàng trả đũa. Lần này ông ta chỉ cười và nói:

- Khá lắm, cậu bé! Cứ như thế nhé!

Tôi lắc đầu, nghĩ rằng mình vừa nghe nhầm. Mình khá lắm? Cứ như thế nhé? Như thế là thế nào? Tôi tự hỏi.

Tôi đứng lên, lau vết dầu nhớt dính đầy tay, nhìn theo bóng người đàn ông đang đi về phía bên kia đường. Ông ấy quay lại gật đầu với tôi một lần nữa rồi biến mất vào ga-ra. Tôi lấy làm lạ về những gì người đàn ông đã nói với mình. Tôi ngồi bệt xuống đất suy nghĩ. Hẳn là ông ấy muốn ngụ ý điều gì đó với tôi.

Chiều hôm sau nữa, cũng vào khoảng thời gian hôm trước, người đàn ông lại xuất hiện với cùng một bộ dạng: quần soọc ngắn quá gối, chiếc áo thun có in chữ “Fudpuckers - Chúng Ta Biết Bay Từ Khi Thế Giới Trở Nên Bằng Phẳng”, đầu đội một cái mũ bóng chày có lông vũ đính ở giữa, và miệng thì ngậm một điếu thuốc lá. Một tay ông cũng cầm ly bia, tay kia đẩy chiếc xe đạp tập đi của trẻ em. Ông dừng lại gần chỗ tôi và nháy mắt:

- Cậu không có cánh để bay, nhưng đừng lo, nhóc ạ; mỗi con chó đều có ngày của nó. - Nói rồi ông ấy đẩy xe đi.

Tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại câu nói của ông ấy để có thể hiểu được “mỗi con chó đều có ngày của nó” nghĩa là gì. Khoảng ba mươi phút sau, ông ấy quay lại chỗ tôi. Tôi đứng bật dậy, có ý đợi xem ông ấy sẽ tiếp tục nói gì.

- Phải biết điều này, - ông ấy gật gù, - đằng sau sự hỗn độn nào cũng ẩn chứa những điều quý giá.

- Này, ông ơi... - Tôi gọi với theo khi ông vừa quay bước.

Ông ta quay lại.

- Cậu gọi ta à?

Tôi ngập ngừng chưa biết phải trả lời ông ấy thế nào. Ông ấy khẽ mỉm cười:

- Nếu cậu rửa tay và thay quần áo, cậu có thể ghé thăm tệ xá của ta.

Nghe thế, tôi liền chạy ào vô nhà, tắm rửa sạch sẽ, thay bộ quần áo khác rồi phóng qua nhà người đàn ông kỳ lạ. Tôi chưa kịp gõ cửa thì cánh cửa đã bật mở, vừa bước vào tôi đã bị một cánh tay lực lưỡng giáng vào giữa ngực một cái đau điếng. Tôi ôm ngực khom người nhăn nhó. Vậy mà ông ta vẫn nhìn tôi cười như không có chuyện gì.

- Thử lại lần nữa không? - Ông ta vừa hỏi vừa đẩy tôi ra ngoài rồi đóng cửa lại.

Tôi thấy hơi bực mình.

- Bất lịch sự quá! - Tôi la lên.

Ngay lúc đó, tôi nghĩ rằng mình lại bị đối xử theo kiểu của quý bà The Brady Bunch nữa rồi. Tôi quay lưng dợm bước đi thì một giọng nói nghèn nghẹt phía sau cánh cửa vang lên:

- Gõ cửa đi.

Tôi hơi khó chịu, nhưng vẫn đưa tay gõ cửa. Cánh cửa bật mở. Người đàn ông vẫy tay, ra hiệu tôi hãy vào nhà. Ông ta cười và tự giới thiệu:

- Micheal Marsh: Người canh giữ lòng trung thành, chiến binh của vận mệnh và Người thợ độc ác của các tay lái Duinsmoore.

Đó chính là khởi đầu cho cuộc viếng thăm của tôi tới “Tệ xá của Marsh”. Vài ngày sau, tôi gặp vợ của ông Marsh, bà Sandra, một người phụ nữ trầm lặng, nhút nhát so với người chồng lập dị của mình. Tôi nhanh chóng làm quen với hai người con trai của họ, William và Eric. Nhìn Eric, đứa con chỉ mới biết đi của họ nhểu nhảo nước miếng khi nó bò lê quanh nhà khiến tôi nhớ tới Kevin, đứa em nhỏ của mình khi thằng bé ở cùng độ tuổi với Eric.

Gia đình Marsh đối xử với tôi như với một con người thực sự. Mỗi khi hai vợ chồng Walsh cãi nhau to tiếng suốt nhiều giờ liền, thì gia đình Marsh là nơi trú ẩn an toàn cho tôi. Bất cứ khi nào không hưởng ứng những trò nghịch ngợm của Paul và Dave, tôi sẽ ngồi hàng giờ trong một góc nhà của Micheal để đọc sách về phim ảnh, xe đua và máy bay.

Dù không được phép mang bất kỳ quyển sách nào của Marsh về nhà, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn lén lấy một quyển và thức cả đêm, say sưa đọc về những sự kiện có thật của những viên phi công chiến đấu trong Thế chiến thứ hai hay về sự phát triển của loại máy bay chuyên biệt như Chim két Lockheed SR-71. Thư viện của Micheal đã mở ra trước mắt tôi cả một thế giới mới. Lần đầu tiên trong đời, tôi tự hỏi không biết cảm giác khi bay sang nước khác trên một chiếc máy bay thực sự sẽ như thế nào. Có lẽ, tôi nghĩ, chỉ một ngày gần đây thôi...

Cha của Paul, Dan Brazell được mọi người gọi là ông Goodwrench của riêng hàng xóm. Ông ấy cũng là người có ảnh hưởng đối với tôi giống như Marsh vậy. Ban đầu, ông Brazell khá thận trọng với tôi, nhưng sau một thời gian, ông đã tỏ ra thoải mái mỗi khi tôi lân la lại gần nhìn ông làm việc. Thỉnh thoảng, Paul, Dave và tôi lại cùng nhau nhìn trộm vào ga-ra của Brazell để chiêm ngưỡng những thành quả của ông ấy. Những lúc ông không có trong ga-ra, Paul liền hiên ngang bước vào, còn Dave và tôi rụt rè đi theo sau. Chúng tôi chỉ nhìn ngắm chứ không dám đụng vào bất cứ vật gì vì sợ sẽ làm xáo trộn trật tự của ông. Ngay khi có tiếng cửa mở, cả ba chúng tôi nhanh chóng chạy biến ra ngoài, không để Dan nhìn thấy. Chúng tôi còn biết rằng ga-ra là nơi mà Dan, Michael và một số người đàn ông khác thường tụ tập để trao đổi về bất kỳ điều gì họ quan tâm.

Thỉnh thoảng trong các cuộc họp bàn về “sự sụt giảm giá trị bất động sản trong khu vực địa phương”, vài người đàn ông thường cau mày, khó chịu trước sự có mặt của tôi. Những lúc đó, Marsh luôn là người giải cứu cho tôi.

- Đi chỗ khác chơi, mấy đứa. - Michael có lần cảnh báo. - Tôi có kế hoạch cho chàng trai trẻ của mình. Tôi dự đoán rằng ngài Pelzer đang có mặt ở đây sẽ trở thành Chuck Yeager hay Charles Manson thứ hai. Như mọi người thấy đấy, tôi vẫn đang làm việc theo kế hoạch chi tiết đây.

Tôi mỉm cười trước lời ca tụng ấy. Nhưng rồi tôi thực sự thấy mình ngốc nghếch khi đã nhầm lẫn Charles Manson là viên phi công chiến đấu ưu tú nhất.

Thời gian tôi ở Duinsmoore là khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong thời niên thiếu. Ban đêm, sau khi đọc sách xong, tôi sẽ chìm vào giấc ngủ trong hương hoa thơm ngát thoảng trong cơn gió nhẹ lùa vào từ mái hiên. Mỗi ngày sau giờ tan học, cả một cuộc hành trình mới mẻ thú vị chờ đón hai người bạn của tôi và tôi cùng khám phá.

Không khí ở nhà Walsh không còn được như trước nữa. Những cuộc khẩu chiến diễn ra hàng ngày; có lúc hai người họ giận nhau và bỏ đi đâu đó, để mặc tôi trông nom mấy đứa nhỏ. Thỉnh thoảng tôi còn biết trước là John và Linda sẽ đánh nhau, thế nên tôi sẽ bế đứa nhỏ nhất và bảo hai đứa còn lại theo mình đi ra ngoài, chờ đến khi nào không khí dịu lại mới trở về.

Mặc dù rất yêu mến Duinsmoore, nhưng tôi biết mình không thể tiếp tục sống như vậy nữa. Tôi cảm thấy mình cần phải làm gì đó. Cuối cùng, sau một trận cãi vã nảy lửa của ông bà Walsh, tôi đã gọi cho bà O' Ryan, người quản chế của tôi và khẩn khoản xin cho mình được chuyển đi, cho dù điều đó đồng nghĩa với việc tôi phải trở lại Hillcrest. Bà O’Ryan có vẻ đồng tình với quyết định của tôi và nghĩ rằng bà ấy có thể thuyết phục gia đình Tumbough nhận tôi trở lại.

Rời bỏ Duinsmoore là một trong những quyết định khó khăn nhất mà tôi phải thực hiện. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, với những mảng ký ức dù nhỏ bé nhất của cuộc đời mình, Duinsmoore đã cho tôi quá nhiều, hơn cả những gì tôi mong đợi.

Tôi quyết định không nói lời từ biệt. Cả Paul, Dave và tôi đều buồn đến chết lặng, nhưng chúng tôi đã biết giấu cảm xúc của mình dù tuổi đời chưa lớn lắm.

Giây phút cuối, Dave ôm tôi thật chặt. Ông Brazell mỉm cười chào tôi, cố ghìm nén nỗi buồn chia ly; còn ông Marsh tặng tôi một quyển sách về máy bay - cuốn sách mà tôi đã lén mang ra khỏi nhà ông ấy hàng chục lần. “Như thế này để cậu không phải đột nhập vào nhà ta... nhóc lưu manh ạ”. Marsh cũng tặng cho tôi một tấm bưu thiếp về Công ty hàng không Delta với chữ ký của ông. Trong thiệp, ông còn ghi lại địa chỉ và số điện thoại của mình. “Giữ liên lạc nhé, cậu nhóc.” - Michael vỗ vỗ vai tôi khi thấy tôi bắt đầu sụt sịt. “Bất kể đêm hay ngày, Sandra và ta luôn ở đây với cháu. Cố gắng lên, Airbome! Cứ thế nhé!”.

Trước khi leo lên chiếc Chevy màu xanh trắng cũ kỹ của Harold Tumbough, tôi lấy hơi rồi dõng dạc nói bằng giọng của Michael Marsh:

- Không được khóc, không lo lắng... vì... cháu sẽ trở lại!

Khi xe ra khỏi con đường dẫn vào Duinsmoore, tôi nhìn thấy người phụ nữ The Brandy Bunch đang đứng trước mái hiên nhà, khoanh tay trước ngực. Bà ấy lại cười tôi giễu cợt. Tôi cười đáp lại rồi la lớn:

- Cháu cũng yêu bà nữa đấy!

Chưa đầy một giờ sau, tôi háo hức chạy ào vào nhà Alice Tumbough. Bà ấy ôm hôn nhẹ tôi một lát rồi đẩy tôi ra xa.

- Đây là lần cuối cùng, - bà cảnh báo. - Hãy nói ngay hoặc con mãi mãi đừng mở lời nữa.

Tôi gật đầu rồi đáp lời bà:

- Con biết mình thuộc về nơi nào: 555-2647!