← Quay lại trang sách

Tôi

Người ta bảo cô là một Kumari.

Kumari chỉ có nghĩa là đồng trinh. Nhưng không ai gọi bất cứ một bé gái nào trước tuổi dậy thì là Kumari. Đã được gọi là Kumari thì chỉ có thể hiểu đó là Nữ Thần Đồng Trinh. Chỉ có một. Không ai hiểu khác.

Khi cô bước vào tiền sảnh khách sạn, đám nhân viên thì thầm bảo nhau rằng Kumari đã đến. Anh chàng lễ tân còn hạ giọng nói vừa đủ nghe rằng ở khách sạn Kumari được coi như người nhà. Một thiếu nữ đẹp lộng lẫy. Da trắng. Mắt búp sen. Mũi cao. Môi dày dạn. Mọi nét đều như tạc. Phong tục thờ Nữ Thần Đồng Trinh là tập quán ở thung lũng Kathmandu thuộc xứ Nepal, nhưng có ít chất Mônggôlôit mà nhiều chất Ấn Độ.

- Chào các người, chuyến này ta đi kể cũng hơi lâu sốt ruột lắm, nhưng gặp được khách thành tâm, cũng bỏ công.

- Mới gần một tháng thôi, Kumari ơi.

- Một tháng là nhiều rồi, các người có thấy mấy khi ta dẫn khách đi quá một tuần hay không?

Cách xưng hô cũng lạ. Ta. Các ngươi. Đúng kiểu đấng bậc. Một đấng bề trên, một bậc danh giá xưng hô với thuộc hạ, với cấp dưới, với thần dân.

Không có một nghề nào về hưu sớm như làm Kumari. Đúng tuổi trở thành thiếu nữ, đúng tuổi dậy thì, chính xác là đúng ngày đầu tiên có kinh nguyệt, Nữ Thần Đồng Trinh phải chấm dứt trị vì trên ngôi. Nữ Thần Sống được trở về với đời thường sau những năm tháng được sùng kính chiều chuộng. Tôi đoán cô khoảng hăm tám ba mươi tuổi. Tôi nhẩm tính cô đã thôi làm Nữ Thần Đồng Trinh ít nhất cũng mười tám năm rồi.

Tôi đang đứng trước quầy lễ tân. Đang hỏi han về tua du lịch sang bên kia biên giới. Khách sạn nằm ngay trên đường biên giới Ấn Độ Nepal, bên phía Ấn Độ. Chỉ cách đồn biên giới năm chục bước chân. Người dân bên này biên giới có thể đuổi bắt một con gà con chó chạy lạc sang phía bên kia cái thanh chắn đường. Đám lính canh cửa khẩu cũng dễ dãi linh động cho qua. Tôi đang định ngày mai sang phía bên kia, bắt đầu những ngày lang thang dưới chân dãy Himalaya của xứ Nepal. Field trip. Đi nghiên cứu thực địa. Đi điền dã. Đi thực tế. Công việc phải làm của những người nghiên cứu Ấn Độ học.

Gặp một Nữ Thần Đồng Trinh đã giải nghệ không nằm trong chương trình đi điền dã của tôi. Nhưng gặp được như thế này có lẽ cũng là sự sắp đặt. Hiếm hoi. Sắp đặt từ đâu đó rất cao và rất xa. Tôi đã đọc về tập quán thờ Nữ Thần Đồng Trinh của người dân xứ Kathmandu. Nữ Thần là hiện thân của Parvati, vợ thần Shiva. Dân chúng cần sự hiện diện của một Nữ Thần Sống. Người ta tìm chọn và phong lên một nữ thần để coi giữ đời sống tinh thần cho mình. Nữ Thần là của đạo Hindu, nhưng người ta lại đi tìm thần sống trong những gia đình theo đạo Phật. Một bằng chứng của sự hòa hợp tôn giáo xứ này. Nhà vua cũng phải cúi mình trước Nữ Thần để được ban phước. Một bằng chứng của chính quyền cúi mình trước đức tin của dân chúng. Thần được tìm trong những bé gái từ bốn đến sáu tuổi. Tất nhiên phải xinh đẹp. Da trắng mịn, không một nét sần, không một khiếm khuyết về da. Răng đều tăm tắp. Tất nhiên thần thánh là phải hoàn hảo về hình thức. Không đi đứng nhún nhảy như chim sẻ hèn mọn. Bước đi khoan thai và đầy quyền uy. Tất nhiên thần thánh phải hoàn hảo về tính tình phẩm hạnh. Không gào khóc, khóc là điềm xấu cho dân lành đang thờ phụng thần, khóc tức là người phàm trần. Đầu ngón tay phải có nhiều hoa tay. Trên người có nốt ruồi quý tướng, dấu hiệu để cho các thần thánh trên trời nhận ra thành viên trong cộng đồng thần của các vị. Mọi dấu hiệu thần linh được xác định rồi, bấy giờ các ứng cử viên mới phải trải qua thử thách. Khó khăn. Có nhiều cách để xem ứng cử viên có nhận ra tiền kiếp của mình hay không. Nhận ra như thế nào là những bí mật, chỉ một vài bậc cao trọng trong hội đồng tuyển chọn biết.

Rốt cuộc, người ta chọn được một Nữ Thần Đồng Trinh để phong lên.

Bấy giờ mới thêm một điều kiện. Thần thánh khác với người phàm trần là thần thánh không chảy máu. Nữ Thần Sống sẽ thôi là nữ thần khi nào bị chảy máu. Tuổi dậy thì là thời hạn cuối cùng. Nhiều Nữ Thần bị phế truất sớm hơn thế. Vấp ngã chảy máu. Chạy chơi leo trèo chảy máu. Đang yên đang lành rụng một cái răng. Chảy máu. Đang vui đang khỏe mắc chứng huyết lỵ. Chảy máu. Thế là Nữ Thần bị phế truất. Thế là lại bắt đầu một cuộc săn tìm và tuyển chọn mới. Tôi đang băn khoăn không biết cựu Nữ Thần Đồng Trinh trong đại sảnh khách sạn bị phế truất ở trường hợp nào. Có thế nào thì cũng đã lâu rồi, có lẽ bằng nửa số tuổi đời của cô bây giờ. Cô đưa cái ba lô vừa tháo ra khỏi lưng cho một nhân viên đứng gần xách hộ, nhưng lại tự tay xách mấy cái bao tải đến trước quầy tiếp tân. Tất cả sáu cái bao tải. Loại bao dệt bằng sợi đay, cỡ như bao xi măng năm chục cân. Không biết chúng đựng gì mà có vẻ rất nhẹ. Cô túm đầu những cái bao, mỗi tay ba cái, xách gọn. Trên mỗi cái bao tải có loằng ngoằng những chữ gì đó, cũng có thể là những vệt mực màu xanh đen đánh dấu.

Một nhân viên cầm chìa khóa phòng định dẫn Kumari đi, đúng lúc cô nhìn thấy tôi. Tôi vẫn đứng tựa lưng vào quầy gỗ. Đôi con ngươi màu nâu của cô xoáy vào tôi như đang chỉnh tiêu cự. Cái cách ta xoay xoay một chiếc đèn pin cho đến khi sinh vật trước mắt hiện ra rõ ràng hơn. Dần dần rõ ràng.

Anh chàng lễ tân đỡ lời, giới thiệu tôi là một nhà nghiên cứu, từ thủ đô New Delhi đến.

- Rất hân hạnh. Ta chọn người này.

Cô chĩa thẳng cánh tay phải tới, ngón trỏ điểm chính xác vào ngực tôi. Cung cách của người đang ngồi trên ngai thần quyền. Sau đó chỉ còn có cách là bãi triều.

- Ngươi có điều gì cần bày tỏ không?

Nhưng cô đã dừng lại để hỏi. A, cô vẫn tỉnh táo biết rằng đây không còn là Lâu đài Nữ thần ngày trước nữa.

- Thưa không, Kumari.

Tôi dùng đúng cách xưng hô của cô.

- Tốt. Ta chọn ngươi.

Ta và ngươi. Không phải ông tôi, không phải anh tôi, không phải bạn và tôi, anh và em. Ta và ngươi. Tôi nghe chính xác ngay từ khi cô bước vào khách sạn. Cô không gọi người đối diện bằng đại từ nhân xưng.Áp. Áplà ông là bà là ngài là quý vị. Giới trí thức doanh nhân thường gọi nhau như vậy. Cô không gọi người ta là tum. Tum là đằng ấy là bạn là chị là anh là em, ngang bằng, phải lứa thân mật. Đích xác cô dùng từ tu. Tu. Mày, mi, ngươi. Cái cách cực thân thiết. Hoặc ở trong nhà mẹ gọi con. Hoặc hẳn hoi là một đấng bề trên gọi kẻ dưới. Không còn cách hiểu nào khác. Cô gọi tất cả là các ngươi. Cô xưng là ta.

Tôi cũng theo mọi người ở đây mà xưng hô với cô như vậy.

* *

Sáng sớm và chiều tối, vùng biên giới thường có những trận sương mù bất chợt. Đang trời quang mây tạnh. Đang cảnh sắc trong trẻo rõ ràng. Chỉ trong chốc lát hình như cả không gian dừng sững lại, người nào vật nào ở nguyên chỗ ấy. Cây cỏ đứng im phăng phắc. Không một tiếng thì thầm rì rào lao xao. Không một thoáng gió lay động. Một lớp phim mỏng trong suốt tráng lên cảnh vật, quang dầu cho nó, đóng hộp nó, gửi đúng cái khoảnh khắc ấy vào một bảo tàng vĩnh cửu.

Chính lúc ấy một tấm chăn mây trắng từ đâu phía rặng núi trải nhanh xuống. Ập ngay vào mắt người ta một bức tường trắng xóa. Không nhìn thấy gì cách nửa mét. Không nhìn thấy gì ngay sát vành mi đang rướn lên của mình. Ngoài đường có tiếng xe hơi phanh ken két. Tiếng kêu lên của ai đó va vào ai đó. Đấy là những du khách từ xa đến chưa có kinh nghiệm. Người địa phương thì đã biết có mây mù ngay từ lúc thấy một lớp phim mỏng long lanh quang dầu lên cảnh vật. Ngay từ lúc ấy người ta đã chạy hết vào trong nhà. Ai đang đứng đâu thì ở yên đấy. Tôi đang ở dưới bể bơi. Khách sạn vùng biên, bể bơi cũng theo kiểu vùng biên. Khách sạn là một tòa nhà khá đồ sộ năm tầng, có thang máy, nhưng mặt tiền và nội thất đều ốp gỗ theo kiểu cách quán trọ cổ điển. Bể bơi ở giữa thả sen thả súng như một cái ao nửa hoang dã. Người bơi chỉ có thể bơi quanh bể mà không thể cắt ngang không thể cắt chéo. Tôi tựa lưng vào thành bể ở chỗ mực nước cao ngang ngực. Tư thế ngâm mình. Ở yên chỗ này mà ngắm hoa sen hoa súng ngay giữa bể bơi. Ngắm dãy nhà sàn quây tròn quanh bể bơi. Ngửi thấy mùi rừng mùi núi đã rất gần. Đúng lúc ấy thì sương mù. Cảm giác tức thời là mình bị chọc mù mắt. Còn kinh sợ hơn cảm giác bị bóng tối bưng lấy mắt. Trắng đục. Xốp. Rất mỏng rất nhẹ. Không thể biết bao giờ nó tan. Không thể nhìn thấy bất cứ một cái gì ngay trước mặt mình. Đám khách bơi ré lên lao lên bờ. Đấy là người ta đoán thế qua âm thanh, qua tiếng bước chân xô nhau chạy, qua tiếng ngã oành oạch, qua tiếng ai đó đâm sầm vào cánh cửa gỗ. Đoán thôi. Nào có ai nhìn thấy gì đâu. Tôi chọn cách ở yên dưới bể bơi. Y như khi ban đêm mất điện, đang ở đâu thì ở yên đấy, nội bất xuất ngoại bất nhập. Ban đêm còn có ngọn nến, cái đèn pin, một que diêm xòe lên cứu vãn. Sương mù như thế này thì không gì cứu được. Chính lúc ấy là một cảm giác vô minh. Cái tăm tối mù lòa ngu dốt. Cả thế gian cùng lúc chìm trong vô minh. Rõ ràng ta không mê muội ta không ngủ mơ. Rõ ràng ta đang tỉnh táo. Nhưng cái tỉnh táo trong chốn mù lòa dốt nát cũng vô tác dụng. Tỉnh như thế cũng không thấy được đường ra.

Tôi cứ ngâm mình dưới nước hồi lâu. Chọn cách nhắm mắt lại. Có mở mắt cũng không thấy gì, đành nhắm mắt nhập định thì nhìn thấy trong lòng mình. Tôi thấy chỉ còn lại một mình giữa bể bơi. Không nhìn cũng biết người ta đã bỏ chạy hết lên phòng rồi. Lên phòng cũng phải mở cửa ra thật khéo, mở thật nhanh và đóng ập vào ngay. Chậm một tí thì cả căn phòng cũng trắng xóa. Họ vào được phòng rồi. Đèn phòng bật lên sáng láng. Quấn mình trong khăn ấm trong chăn êm, ngồi nhấp chút rượu nghe nhạc, chuyện gẫu. Căn phòng kín ngay lập tức trở thành ốc đảo bất khả xâm phạm. Cái vô minh quây tròn bao bọc đã bị chặn lại bên ngoài cửa kính.

Chính lúc ấy tôi cảm thấy Kumari. Tiếng cánh cửa gỗ bị đẩy từ trong nhà ra phía ngoài sân. Tiếng chân người bước ra sân đi về phía bể bơi. Tiếng lẩm bẩm, ai làm bể bơi bừa bãi ra thế này?

- Cẩn thận đấy, Kumari.

Tôi lên tiếng.

- A, ông khách của ta. Ngươi vẫn còn ở dưới bể bơi đó ư?

- Cô cũng nhận ra giọng tôi?

- Ta nhìn thấy ngươi hẳn hoi đấy. Nước ngập đến ngang ngực. Đám tóc trước trán dựng lên đúng như mốt sành điệu. Chỉ có tôi mới vậy. Hễ ngụp lặn một lát, đám tóc trước trán tôi không bết xuống mà dựng lên theo kiểu của bọn con trai xanh xanh đỏ đỏ. Nói rõ đến như vậy, chứng tỏ Kumari nhìn thấy tôi xuyên qua lớp sương mù.

- Thấy mà không thấy.

Kumari lẩm bẩm.

Tiếng người va vào những chiếc ghế làm cho ghế xê xích. Cẩn thận, tôi nhắc thầm trong đầu.

- Ta đang chọn một chiếc ghế khô. Sương mù làm nó ướt hết cả. A, đây rồi, cái này khô. Nhưng màu đỏ rợ quá.

Thoáng chốc, màn sương nhạt đi. Tôi lờ mờ nhìn thấy. Đúng là Kumari đang ngồi trên một chiếc ghế màu đỏ, đối diện với tôi qua bể bơi. Sari đỏ, cô giống một nữ Thần Đồng Trinh ngồi trên ngai. Đăm chiêu. Rồi sương trở lại dày đặc như trước. Tôi lại nhắm mắt đứng dưới nước mà thiền.

- Ta đã chọn ngươi.

- Tôi biết.

- Biết thế nào?

- Kumari chọn làm hướng dẫn viên du lịch cho tôi.

Còn có cách hiểu nào khác nữa? Ngay từ chiều hôm qua, cô bước vào sảnh lớn và bảo chọn tôi.

Cô vừa mới đi làm tour guide, hướng dẫn viên du lịch cho một đoàn khách, chuyến đi gần một tháng, trở về cô lập tức chọn tôi, vị khách đang tình cờ đứng trước quầy lễ tân. Có ai cất công đến cái đồn biên này làm gì nếu không phải là đi du lịch, sang Nepal hoặc là về Ấn Độ. Sang Nepal, đi về phía trước hai mươi cây số là đến Lumbini nơi Phật sinh. Về Ấn Độ, đi ngược về sau gần một trăm cây số Kushinagar nơi Phật qua đời. Có ai đến đây mà không du lịch không hành hương.

- Ngươi suy luận đúng mà chưa đúng. Ta không phải là hướng dẫn viên. Ta là người kể chuyện chuyên nghiệp.

- Người kể chuyện? Kumari kể chuyện gì?

- Ta kể chuyện đời Phật.

Màn sương mù tan loãng đi chốc lát. Tôi mở mắt. Kumari không ngồi trên chiếc ghế đó nữa. Cô đã ngồi xuống thành bể bơi trong thế xếp bằng thiền định. Sương mù chỉ cho tôi kịp nhìn đến thế, nó lại nhanh chóng dầy hơn đặc hơn, như gắn keo vào mắt.

- Ta kể chuyện đời ta.

Cô nói thêm.

Tôi không biết trước rằng ở vùng biên này có người kể chuyện cho du khách. Lại có cả một cái nghề lâu bậc nhất của nhân loại ở đây ư? Người kể chuyện có từ trong những đêm trường cổ đại. Nhân loại khi chưa có chữ viết đã có người kể chuyện. Họ là cái băng ghi âm được sang băng từ đời này qua đời khác. Họ là kho tàng cất giữ kiến thức truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Kho báu. Ấn Độ cổ đại chỉ viết thành văn những gì có giá trị nhất thời như hợp đồng khế ước thông cáo. Những gì quý giá bền vững thì buộc phải nhập tâm và truyền miệng. Có hẳn một tầng lớp một đẳng cấp cao quý giữ sứ mệnh ấy. Những bản kinh Vệ Đà, những kiến thức tế lễ, binh pháp, y học, ngôn ngữ đều phải có họ nhập tâm. Khoa học và thần chú. Họ lưu giữ cả. Kumari là người kể chuyện. Cô lưu giữ những gì để kể lại cho du khách? Cô cần bao nhiêu du khách thì mới đủ một nhóm mà kể? Một mình tôi phải đợi thêm những ai nữa đây?

- Ngươi nhầm. Ta là người kể chuyện cho một người nghe. Mỗi lần chỉ một người.

Một người kể, một người nghe. Sử thi Mahabharata là Vyasa đọc, Ganesha chép. Đúng kiểu truyền thống Ấn Độ từ cổ đại.

Lúc này mới thấy không gian có một chút gió. Một chút rất mỏng rất khẽ. Lào xào.

- Ngươi lạnh rồi đấy. Nổi da gà lên rồi kìa. Lên đi thôi

Tôi quờ quạng bám hai bàn tay lên thành bể, nhún người bổng lên. Màn sương trắng vẫn bịt chặt lấy mắt.

- Nào, để ta dẫn ngươi lên phòng.

Kumari đã từ bên kia thành bể đi vòng sang. Một bàn tay nắm lấy tay tôi dắt đi. Tôi loạng quạng đi theo cô. Cô mở cánh cửa gỗ. Tôi nghe tiếng bản lề mà đoán như vậy. Cô dắt tôi đi theo hành lang ngách không vào trong sảnh mà theo cầu thang lối thoát khẩn cấp đi lên. Tôi vừa đi vừa đoán như vậy. Toàn bộ lối đi này là sương mù. Hành lang các tầng gác cũng sương mù. Cô dắt tôi đi đọc theo hành lang và dừng lại trước một căn phòng. Cô đọc được cả số phòng.

- Phòng 214 phải không? Đến nơi rồi đấy.

Chỉ có một bàn tay dẫn tôi đi. Ngoài ra không nhìn thấy gì hết. Không thấy gương mặt cô.

Không thấy hình dáng.

- Chiều nay bắt đầu được chưa?

- Chiều nay? Giữa lúc mù mịt như thế này hay sao?

- Ngươi lạ thật. Đi với ta nãy giờ, ngươi vẫn về đúng phòng mình đấy thôi

Kumari cười.

- Chiều nay làm gì còn sương mù. Chốc lát nữa nó sẽ tan hết.

- Thế thì được, chiều nay tôi sẵn sàng.

Kumari bỏ tay tôi ra.

- Tốt. Ngươi vào phòng đi. Ta đi đây.

Kumari không còn nắm tay tôi nữa. Tôi cũng không nhìn thấy gì qua lớp sương trắng xóa. Nhưng tôi biết cô còn nán lại ở đó. Chính chỗ đó. Cách tôi vài bước chân. Nán lại một lát rồi cô mới quay đi.

* *

Trận sương mù vùng biên tan nhanh. Chỉ trong vòng một giờ. Như một cơn mưa rào miền nhiệt đới. Người địa phương đang đi giữa đường gặp trận sương mù như ta gặp trận mưa rào, chỉ việc đỗ xe chạy vào bên đường trú tạm. Chờ sương tan mới có thể đi tiếp. Mùa sương mù có ngày vài ba trận như vậy.

Đúng như Kumari nói, buổi chiều không có sương mù. Cô gọi điện thoại lên phòng tôi, ngươi đã sẵn sàng chưa? Thưa tôi đã sẵn sàng. Lên đường được chưa? Chứ không phải là Kumari kể chuyện hay sao? Đúng, ta kể chuyện, nhưng sẽ kể trên đường. Xuống ngay nhé, giờ này sang Lumbini là vừa đẹp.

Nữ Thần Đồng Trinh nói chuyện qua điện thoại. Điều này chắc chỉ có thể phù hợp trong khung cảnh vùng biên dưới chân dãy Himalaya. Nếu không, ngôn từ đối thoại ấy nghe như cách đùa cách xưng hô giữa hai người bạn. Một hôm qua Kumari bảo cô không phải là hướng dẫn viên du lịch. Bây giờ cô lại lôi tuột tôi ra khỏi khách sạn như một hướng dẫn viên thực thụ. Chúng tôi đi bộ vài chục bước đến trước đồn biên phòng Ấn Độ. Đi thêm mười bước sang đồn biên phòng Nepal. Kumari lại có khách mới à? Viên sĩ quan Ấn Độ hỏi thay cho lời chào. Khách của Kumari nhập cảnh bao giờ quay lại xuất cảnh? Viên sĩ quan Nepal chào bằng cách hỏi. Kumari chào hỏi lại như người nhà. Khách của cô được cấp giấy thông hành ngắn hôm ngay. Cô là người bảo lãnh đáng tin cậy.

Từ trên chuyến xe khách đi vào lãnh thổ Nepal, Kumari đổi sang dùng tiếng Anh. You and I. Anh và tôi. Sắc độ hai ngôi tiếng Anh chỉ cỏn có thể hiểu như vậy. Hành khách trên xe cũng chỉ có thể đoán cô và tôi là hướng dẫn viên và khách. Thú thật khi thuật lại việc tôi gặp Kumari lần đầu tại khách sạn tôi đã định dùng đại từ nàng thay cho chữ cô. Cách xưng hô ta ta ngươi ngươi khiến cho Kumari rất hợp với chữ nàng. Gọi cựu Nữ Thần Đồng Trinh là nàng nghe rất thuận. Cô nói tiếng Hindi giọng Nepal. Tôi nói tiếng Hindi giọng của vùng bắc Ấn. Nhưng nếu gọi Kumari là nàng câu chuyện tôi đang kể dường như bị đẩy về Ấn Độ cổ đại mà giảm bớt chất đương đại.

- Kumari, cô tên là gì?

Tôi hỏi theo nhịp xe lắc lư. Cô và tôi đang ngồi ở hàng ghế cuối xe, giữa sáu cái bao tải kè kè theo cô từ lúc ra khỏi khách sạn.

- Người ta có thể hỏi tên một Kumari hay sao?

Cô mỉm cười, không có vẻ gì là căn vặn. Xe đi qua những cánh đồng hoa cải màu vàng chanh trải ngút tầm mắt. Hai bên đường là những hàng xoài sum suê trĩu quả.

- Tôi là Savitri.

Rồi cô cũng nói tên mình.

- Savitri. Biểu tượng của người vợ chung thủy. Nàng đã kiên trì đòi Thần Chết Yama làm cho chồng nàng sống lại.

Tôi đưa đẩy cuộc chuyện trò bằng cách nhắc lại tích cũ.

- Ôi tôi đã nghe chuyện ấy cả nghìn năm rồi.

Kumari đáp lại. Không phải là câu than thở. Từ bây giờ tôi sẽ gọi tên cô là Savitri, tạm gác lại danh xưng Nữ Thần Đồng Trinh cho đến khi nào thích hợp.

Hai chục cây số đến Lumbini. Vùng thánh địa nơi Phật ra đời mới được hồi sinh từ thập niên cuối của thế kỷ hai mươi. Những vườn cây sa la đã bắt đầu lớn cao. Những cây bồ đề cổ thụ tỏa bóng. Con kênh dài dẫn đến tháp Hòa Bình kiến trúc Nhật Bản. Những hồ nước lặng như tờ. Nắng nhạt hoàng hôn làm cho cảnh vật bình yên lại càng bình yên. Một góc khuất sau những ngọn núi của dãy Himalaya. Một nơi ẩn trú cho mọi sinh linh muốn tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn.

Xuống xe, nơi đầu tiên Savitri dẫn tôi đến là cột đá Asoka. Cô treo tràng hoa nhỏ lên hàng rào sắt trước cột đá, cúi đầu chắp tay lễ. Rồi cô dẫn tôi đi bảy vòng xung quanh cột đá. Bảy vòng. Người đi với người bảy vòng là thành quen biết. Người đi quanh vật bảy vòng là hình thành tin cậy tôn kính. Xong nghi lễ. Bấy giờ cô mới dắt tôi ra ngồi dưới bóng cây ngay bên cạnh, nhường lối cho du khách đang bước tới gần cột đá.

Savitri cởi sợi dây buộc túm đầu một bao tải. Cẩn trọng. Cởi dây như một nghi lễ. Lúc nãy trên xe khách và lúc này cô như một người buôn chuyến ngồi giữa sáu cái bao tải của mình. Ra khỏi khách sạn, qua hai đồn cửa khẩu, leo lên xe khách, mọi nơi mọi lúc cô tự tay túm đầu sáu cái bao tải xách đi. Không cho ai động đến mấy cái bao của mình. Tôi là người đi cùng, cô cũng không cho xách hộ. Nghi lễ cởi sợi dây đã xong, Savitri thò hai tay vào trong cái bao tìm kiếm gì đó.

Một lát. Nhưng rồi cô không lấy gì ra khỏi bao. Hai bàn tay vẫn lần tìm giở ra một cái gì bên trong, mà không rút tay ra. Lúc nãy như một bà buôn chuyến. Bây giờ thì như đang ngồi thò tay bóc lạc trong bao tải.

- Phật tử khắp nơi trên thế giới mãi mãi biết ơn trụ đá này. Vì sao ư? Chính là bởi vì từ thế kỷ mười chín trở về trước, giới khoa học vẫn tin rằng Đức Phật tổ là nhân vật huyền thoại do người đời thêu dệt mà có. Phải đến khi khai quật được cột đá này vào năm 1896, và một số trụ đá khác vào đầu thế kỷ mười chín trước đó, nhân loại mới biết rằng Đức Phật là nhân vật lịch sử, là người có thật có sinh có tử. Vậy những trụ đá này là gì mà đóng vai trò lịch sử quan trọng thế? Chúng không phải là những trụ đá tầm thường, chúng là những thông cáo những sắc dụ của hoàng đế Asoka với thần dân, chúng là những văn bản những tài liệu hoàng đế để lại cho đời sau.

Đã bắt đầu rồi. Ngôn từ rõ ràng mạch lạc truyền đạt bằng một giọng điệu hùng biện. Nội dung này thì tôi đã biết, tôi đã nghiên cứu đề tài này. Cột đá này tôi cũng đã viếng thăm một lần từ mười lăm năm trước. Ngày ấy toàn bộ vùng Lumbini còn hoang tàn, chưa có thiền viện của hàng chục nước như hiện nay. Ngày ấy đường vào Lumbini còn đi qua những đầm lầy đầy rắn rết, những bãi lau bạt ngàn trắng xóa.

- Ta biết là ngươi từng đi trên những cánh đồng hoang vu của Lumbini từ lâu rồi. Nhưng bây giờ ngươi vẫn cần nghe chuyện ta kể. Không thừa đâu.

Savitri đọc được ý nghĩ của tôi. Cô thản nhiên kể tiếp. Đúng kiểu một diễn giả thừa hiểu phản ứng của thính giả nhưng cứ làm những điều mình thấy cần làm.

- Đúng rồi. Không thừa đâu. Tôi vẫn đang nghe nàng nói đây.

Bây giờ tôi đã hiểu, khi nào ở nơi công cộng, Savitri dùng tiếng Anh không ta ta ngươi ngươi được, khi nào chỉ có hai người, cô dùng tiếng Hindi, lại ta ta ngươi ngươi. Vào chuyện thì đúng là hùng biện. Không cao giọng lớn tiếng mà hút người nghe bằng sự sinh động và lượng thông tin.

Savitri hùng biện. Hai tay vẫn lục cục trong cái bao tải. Bóc lạc.

Hoàng đế Asoka là ai mà có công lớn như vậy với Phật Giáo? Đó là vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ. Chỉ có các vị hoàng đế đạo Hồi trong toàn bộ triều đại Moghul sau này mới sánh được với Asoka, nhưng là phải mười tám thế kỷ sau ngài. Ở thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, vương quốc của Asoka đã trải rộng trên hầu khắp lãnh thổ Ấn Độ ngày nay. Ngài là người chủ mưu trong những cuộc tranh giành vương quyền, đã gây ra đổ máu ngay trong anh em hoàng tộc của mình, đã mở những cuộc chiến tranh chinh phạt xứ Kalinga, máu người chảy thành sông, thây người chồng chất trên đồng nội. Hoàng đế đã đi chân trần trên bãi chiến trường quạ che rợp trời, ra đến những dòng sông máu đỏ bầm tắc nghẽn. Hoàng đế rùng mình. Ngài đưa tay che mắt. Màu máu chói chang làm giảm thị lực của ngài. Suốt nhiều ngày ngài giam mình trong phòng tối để làm dịu cặp mắt lòa trai trẻ. Rồi ngài lập đàn làm lễ cầu siêu cho cả xứ Kalinga chiến bại. Ngài sám hối. Ngài cải từ đạo Bà La Môn sang đạo Phật là tôn giáo trước đó ngài căm ghét. Thói đời căm ghét những gì mình không hiểu. Phải qua những cuộc tắm máu ngài mới hiểu. Từ đó đạo Phật trở thành quốc giáo trên toàn vương quốc của Asoka. Asoka tên ngài trùng tên với loài cây asoka, cây vô ưu, loài đại thụ lưu niên. Asoka từ đó cũng vô ưu vô tư, nhẹ nhàng thanh thản trong suốt phần đời còn lại.

Asoka là người nhìn xa trông rộng. Ngài biết ký ức lịch sử là cái không bền vững, sẽ có ngày người đời quên lãng rồi sinh ra nghi vấn. Hoàng đế bèn đến tất cả thánh địa có dấu chân Phật trên đất Ấn Độ cổ đại, đến đâu ngài cho khắc những chỉ dụ lên đá, dựng lên ở đó những trụ đá có khắc thông cáo và mệnh lệnh của hoàng đế. Văn bia nghìn năm trên đá. Cột đá đã đổ vùi sâu trong đất, cả thánh địa hoang tàn bị bỏ quên ngìn năm trong rừng rậm. Nhưng rồi cũng có ngày tất cả được khai quật, được dựng lại ở vị trí ngày xưa.

Từ dưới gốc cây ở rất gần cột đá, Savitri chỉ tay về phía những dòng chữ khắc trên cột. Thời gian vô tình xóa mờ tất cả, nhưng vẫn thua sự tính toán của con người. Thua cái tâm của con người.

- Ngươi thấy không, tiếng Magadhi cổ, viết bằng ký tự Brahmin?Đức Phật, nhà hiền triết, người của bộ tộc Thích Ca, đã đản sinh nơi đây.

Nguyên văn dòng chữ hoàng đế Asoka cho viết trên cột đá năm 245 trước công nguyên như thế này:

Hai mươi lăm năm sau khi lên ngôi, quốc vương Asoka, danh xưng Devanampiya Piyadasi, đến viếng thăm nơi Đức Phật, nhà hiền triết, người của bộ tộc Thích Ca. Hoàng đế truyền lệnh tạc một pho tượng bằng đá và dựng lên một thạch trụ. Ngài miển thuế đất ở làng Lumbini và giảm thuế hoa màu từ ¼ theo lệ thường xuống 1/8.

Rõ ràng chu đáo chính xác. Văn bản thông cáo trên đá còn bày tỏ cả lòng biết ơn đối với mảnh đất mang đến cho nhân loại một vĩ nhân.

Ngay chính nơi này, chính nơi chúng tôi đang ngồi đây, hoàng hậu Maya đã ghé vào khu vườn Lumbini vì bà trở dạ giữa đường. Không sinh con ở kinh thành chồng bà. Không kịp sinh con ở kinh thành cha mẹ bà. Maya sinh ở giữa đường. Giữa đường là sự ngẫu nhiên hay có bàn tay định mệnh sắp xếp? Chọn hay là không được chọn? Một nơi hoàn toàn bình thường, thậm chí hẻo lánh. Cái ao ngay trước mặt chúng tôi là nơi hoàng hậu Maya xuống tắm. Ao bây giờ được kè gạch, khuôn theo hình chữ nhất. Tắm xong, Maya lên bờ, đi đến đây thì bà trở dạ. Người ta đã đặt ở đây một phiến đá ghi dấu, một phù điêu kể chuyện Maya sinh nở. Tay phải bà giơ lên cao quá đầu níu lấy một cành cây sa la. Bà đã sinh ra Đức Phật trong tư thế đứng như vậy. Tôi được biết rằng đẻ đứng là tập quán từ Ấn Độ cổ đại.

- Đúng vậy Savitri xác nhận ý nghĩ trong đầu tôi Hoàng tử Siddhattha ra đời một cách bình thường, không có gì là siêu phàm khác người ở đây cả.

Bỗng nhiên tôi muốn thử xem Savitri có khả năng đọc được ý nghĩ của người khác đến mức nào.

Tôi sẽ thử thách cô ngay bây giờ đây. Tôi muốn hỏi cô chúng tôi sẽ ngồi lại trong khu vườn Lumbini này bao lâu, bao lâu nữa chúng tôi có thể quay trở về biên giới. Nào, cô hãy trả lời đi.

- Một mình thời gian không làm nên lịch sử. Hoàng đế Asoka đã cắm vào thời gian một cái dấu mốc, gửi nó lại cho thời gian gìn giữ, nhờ người đời sau gìn giữ, mới được như ngày hôm nay.

Có nhắc đến thời gian. Nhưng chưa thể coi đây là câu trả lời cho băn khoăn của tôi. Hay là Savitri không coi câu hỏi ấy là đáng trả lời vào lúc này? Tôi không hề nghi ngờ lòng tôn kính của mình trước những vấn đề nghiêm túc, nhưng cùng lúc tôi cũng muốn thử xem có thể làm cho Savitri sao lãng hay không. Nào, Savitri, hãy cho tôi biết cô có được những kiến thức này từ đâu?

- Không chỉ có con người mà ngay cả lịch sử cũng thường xuyên phân tâm.

Ghê chưa, đến mức này thì tôi không thể biết cô có đọc được ý nghĩ hay không, hay là đọc được mà cũng coi như không, hay là biết trò đùa của tôi mà thể tất.

Đúng rồi, lịch sử cũng thường phân tâm. Từ thời hoàng đế Asoka, nhiều thiền viện Phật giáo đã được dựng lên trong khu vườn Lumbini này. Theo thời gian số lượng chùa chiền đã lên tới cả nghìn. Nhưng sau ba thế kỷ cực thịnh, Phật giáo bắt đầu suy tàn trước sự phục hưng của Bà La Môn giáo. Lịch sử bắt đầu phân tâm. Bao nhiêu thánh địa Phật giáo chìm vào giấc ngủ trăm năm, thành chỗ cho rừng rậm lan tràn. Nhà sư Trung Hoa tên là Pháp Hiển đến đây năm 403 chỉ thấy cảnh tan hoang. Một nhà sư Trung Hoa khác là Huyền Trang, tức Đường Tăng, miêu tả rằng vào năm 636 có khoảng một nghìn thiền viện ở Lumbini, tất cả đã hoang vắng, thậm chí cột đá Asoka cũng đã bị sét đánh, nằm lăn lóc trên mặt đất. Cuối thế kỷ mười lăm, các hoàng đế Hồi giáo đến, Lumbini bắt đầu từ đó mới hoàn toàn tan nát. Phân tâm. Phân tâm và lãng quên hoàn toàn. Sự phân tâm và lãng quên đủ biến một nhà hiền triết bằng xương bằng thịt thành một nhân vật huyền thoại. Phải đến cuối thế kỷ mười chín, nhờ có ngài thủ hiến Khadga Shumsher Rang khai quật Lumbini, ký ức lịch sử mới bắt đầu phục hồi.

Đôi tay vẫn loạt soạt trong cái bao tải, Savitri kể chuyện. Tôi cũng tập trung tư tưởng nghe cô nói, coi như một cách tọa thiền. Tập trung để tỏ lòng kính cẩn. Tập trung vì tôi cũng hoang mang, chẳng thể kết luận rằng cô có thể đọc được ý nghĩ người khác hay không. Khi ta không hiểu gì về người đối thoại, ta chỉ có cách duy nhất là tập trung.

- Ngay khi chúng ta đang ở đây, nàng có thể cho biết nàng chọn niên đại nào? Chính xác là năm nào hoàng hậu Maya đặt chân vào khu vườn này và hạ sinh Đức Phật?

- Năm 563 trước Công nguyên. Chắc chắn là như vậy.

- Nàng chọn niên đại mà hầu hết học giả Ấn Độ và học giả phương Tây tán đồng hay sao?

- Có đôi khi số đông lại đúng.

Savitri thở ra một hơi nhè nhẹ. Hình như là một tiếng thở dài.

Trước khi rời Lumbini, tôi có một yêu cầu. Tôi không động tay vào mấy cái bao tải của Savitri, tôi chỉ muốn cô tự tay quay những nét vạch trên mỗi cái bao cho tôi xem. Những nét vạch bằng mực xanh đen làm tôi băn khoăn từ hôm qua đến giờ. Có thể cô đọc được băn khoăn ấy trong đầu tôi, nhưng cô đã lờ đi. Giờ thì Savitri chấp nhận. Cô quay từng cái bao thẳng hướng về phía tôi. Thì ra là những con chữ Sanskrit. Tôi lờ mờ đoán được vì chữ cái Hindi cũng có một số nét giống chữ Sanskrit. Sáu cái bao. Sáu âm tiết. Thành một hàng chữ. Thành một câu hẳn hoi. Om mani padme hum. Úm ma ni bát mê hồng. Chữ mani và chữ padme tách thành hai âm tiết, mỗi âm viết lên một cái bao. Vừa đủ sáu cái bao. Câu thần chú được truyền tụng bậc nhất.

Một lát. Đủ cho tôi đánh vần và hiểu ra dòng chữ. Rồi Savitri lại túm đầu sáu cái bao, nhẹ nhàng xách đi.

Tôi đi theo cô ra đường, trèo lên một chiếc xích lô để ra bến xe khách. Chúng tôi ngồi giữa những cái bao tải như hai người buôn chuyến. Khung cảnh này, câu chuyện đang kể này khiến tôi không khỏi thắc mắc. Ví dụ tại sao lại là câu thần chú này? Ví dụ những cái bao tải đựng gì, trông cồng kềnh mà có vẻ nhẹ nhàng?

Nhưng tôi không hỏi.

Sinh thời, Đức Phật có lần ngồi nghỉ cùng đồ đệ dưới bóng một cây vô ưu. Người nhặt một nắm lá rụng trên mặt đất mà hỏi:

- Này các đệ tử, lá trong tay ta nhiều hơn hay lá trên cây kia nhiều hơn?

- Thưa Đấng Giác Ngộ, lá trên cây nhiều hơn.

- Đúng vậy. Kiến thức như lá trên cây kia, nhưng những điều ta nói với các con chỉ như nắm lá trong tay này. Vì sao vậy? Vì ta chỉ nói những điều cần thiết phải làm để đạt tới giải thoát mọi khổ đau, để được khai sáng, được giác ngộ. Những điều khác thì vô vàn trên thế gian, nhưng chúng không có ích lợi gì, không phụng sự cho mục đích của chúng ta, ta không nói.

Tôi đã không hỏi Savitri. Và có lẽ sẽ không bao giờ hỏi.