Tôi
Không ph ải cứ vừa nghe kể chuyện về Phật vừa đi thăm cho đủ những nơi từng in dấu chân Phật. Không phải. Nhưng tôi vẫn theo Savitri đi. Sau Lumbini nơi Người ra đời, chúng tôi lên tàu hỏa đến Boddhgaya nơi Người giác ngộ. Tứ thánh địa Phật giáo tôi đã đến rồi. Còn hơn cả tứ thánh địa nữa. Những là thành Rajagaha ngày xưa nay là thành phố Rajgir, những là Viện Đại học Phật giáo đầu tiên Nalanda, những là bảo tháp có xá lợi Phật ở Sanchi, những là hàng chục thiền viện Phật giáo trong hang động ở miền nam Ấn như Ellora và Ajanta còn lưu giữ bao nhiêu bích họa hoành tráng. Tôi đã tới cả. Nhưng lần này tôi muốn theo Savitri trở lại. Hào hứng và cả tò mò. Để xem cô sẽ đưa tôi đến những đâu. Để xem câu chuyện đời cô sẽ dẫn đến đâu. Ta kể chuyện đời ta, cô bảo. Ta là Phật và Phật là ta.
Boddhgaya. Nghĩa đen: đến đó mà thành Phật. Đến đó mà giác ngộ. Vùng này có nhiều cái tên có chữ giác ngộ trong ấy, Boddh hoặc là Buddh. Chùa Đại Giác Ngộ chẳng hạn: chùa Maha Boddhi. Chúng ta đều là đệ tử Phật, Buddha ka be ta. Thị trấn Boddhgaya đang ở vào những tháng đẹp nhất trong năm. Mùa lạnh ở miền đông bắc Ấn suốt ngày nắng vàng rực rỡ. Hoa nở vào mùa lạnh. Mùa hè thì hoa bị đốt cháy. Người ta thăm thú du ngoạn vào mùa lạnh. Trong bóng râm nhiệt độ có thể xuống đến dăm bảy độ C, nhưng trời đất vẫn nắng tưng bừng. Mùa lạnh cũng là mùa hành hương. Hàng nghìn hàng vạn người đổ về đây. Sắc áo vàng của những nhà sư tiểu thừa hoặc Á Đông. Thảng hoặc có sắc áo nâu đại thừa. Trùm lấp lên là sắc cà sa nâu đỏ của Phật tử Tây Tạng.
Mỗi lần trở lại Boddhgaya là lại một lần nhớ tiếc. Chỉcần sau dăm ba năm là thấy rõ sự yên bình thanh tịnh đang mất dần. Phật tử hành hương. Mà Phật tử sinh sôi sang đến tận phương Tây, tận Âu Mỹ. Thương mại phát triển để phục vụ Phật tử. Chùa chiền cũng xây nhà nghỉ khách sạn đón phật tử. Hàng quán mọc chen chúc che lấp cảnh quan. Mỗi mét vuông bức tường quanh quần thể chùa Đại Giác cũng là không gian phải trả bằng tiền để bán hàng.Năm năm trước không thế. Mười năm trước không thế. Mười lăm năm trước tôi còn tha thẩn khắp cái thị trấn vắng lặng và thanh sạch này. Hàng ngày chỉ thấy lác đác bóng người hành hương.
Savitri và tôi đi thẳng vào chùa Đại Giác. Không tìm đâu ra một chỗ thanh tịnh. Cả quần thể chùa lớn là thế xung quanh ngôi chùa cao đến sáu chục mét, giờ trở nên chật hẹp. Từng mét vuông một cũng là cách để người người chen chúc. Bên gốc cây bồ đề nơi Phật bừng ngộ, bên tả là những Phật tử Nhật Bản, bên hữu là đám phật tử Sri Lanka. Họ trải chiếu ngồi mà tụng kinh theo kiểu sẽ không bao giờ đứng đậy nữa. Bao nhiêu là mảnh vải thiêng quấn quanh gốc cây để tỏ lòng thành kính. Nghìn nghịt người chen chúc vào chính điện. Đoàn đoàn người nối bước đi ra hồ sen. Người người trải chiếu trải thảm quanh những gốc cây trên bãi cỏ. Cầu nguyện.Nhắm mắt cầu nguyện coi như không nhìn thấy đoàn đoàn lũ lũ kéo qua trước mặt sau lưng. Cầu nguyện giữa một nơi phải xê dịch từng phân vuông như thế, phải thực sự cảm phục các Phật tử mộ đạo Tây Tạng. Đang từ thế đứng, họ lao mình về phía trước, phủ phục xuống, hai bàn tay xỏ vào hai chiếc guốc để trượt thẳng, tư thế nằm sấp duỗi dài. Xong. Lại đứng dậy lại sửa soạn cho một lần phủ phục mới, sức lực toàn thân tập trung vào đôi tay xỏ hai chiếc guốc mà trượt tới. Phật tử Tây Tạng có thể hành hương hàng trăm cây số bằng cách ấy. Hành hương bằng mồ hôi và cả máu.
- Bây giờ không phải lúc để viếng thăm Phật.
Savitri ra hiệu cho tôi quay ra:
- Lúc nào cũng thế mà thôi.
Tôi nói nhưng cũng nhanh chóng ra theo cô.
- Anh nhầm. Đi với tôi rồi anh sẽ thấy.
Chúng tôi vào nhận phòng khách sạn. Khách sạn ở đây ai cũng biết Savitri. Kumari đã về. Họ reo lên. Kumariđã về chứ không phải Kumari đã đến. Chứng tỏ cô là chủ quen thân chỗ người nhà. Không phải kiểu quen biết của những hướng dẫn viên du lịch với khách sạn thân thiết. Tôi xác định được ngay vị trí của khách sạn trong cái thị trấn mình đã quen. Savitri chọn một khách sạn ở bên lề thị trấn, cách chùa chính một khoảng vừa đủ không phải chịu tiếng ồn vọng tới.
* *
Nửa đêm, Savitri sang gõ cửa phòng tôi. Phải một lúctôi mới tỉnh. Tôi vừa mơ thấy sắc áo cà sa màu vàng. Cả một tấm áo trải đài trên đường đi trước mắt. Người tu hành, mơ thấy như vậy là linh lắm, là như được ân phúc từ kiếp trước. Người suốt ngày nhìn thấy cả. nghìn cả vạn tấm áo cà sa như tôi, không mơ mới là chuyện lạ.
Đúng lúc ấy, Savitri sang gọi. Cô không gọi điện thoại sang phòng mà đến gõ cửa. Một sự lựa chọn đúng cách với giấc mơ có tấm áo cà. Tôi quờ tay bật cái đèn bàn ở phía đầu giường. Mất điện. Tôi lên tiếng bảo cô đợi cho một lát rồi quờ quạng định hướng theo trí nhớ. Va quệt đụng chạm một lát. Rốt cuộc tôi cũng tìm được cây nến và bao diêm tôi nhớ đã đặt sẵn trên mặt bàn viết, trước một cái gương lớn. Châm được ngọn nến. Ánh sáng vừa đủ làm những việc cần thiết trước khi bước ta khỏi phòng.
Savitri đứng đợi ở ngoài hành lang. Hai tay vẫn xách sáu cái bao tải. Tôi không còn thắc mắc bao tải đựng gì mà nhẹ thế. Đi với nhau đã hơn bảy bước chân, người ta không hỏi nữa. Trên hành lang cách một quãng lại đặt một đĩa đèn bằng đất nung đựng dầu lạc. Đủ nhìn thấy đường đi. Chúng tôi lặng lẽ đi ra khỏi khoảng sân khách sạn.
Qua khỏi cổng thì tôi đứng sững lại. Gần như bật ngược trở lại. Hết ánh đèn. Một bức tường đen kịt thình lình dựng ngay trước mắt. Bưng ngay lấy mắt. Tôi đinh hỏi Savitri có mang theo đèn nến gì không thì cô bảo:
- Yên tâm nào. Bám lấy vai tôi, ta đi nhé.
Hai tay tôi bám lấy đôi vai cô từ phía sau. Cứ thế mà đi. Như một người mù bám theo người sáng mắt.
Khoảng một giờ sáng. Toàn thị trấn mất điện. Lạ lùng. Giờ thì tôi đã hiểu, Savitri kéo tôi ra khỏi chùa Đại Giác lúc chiều hôm qua là để bây giờ quay lại. Chọn lúc nửa đêm để quay lại. Giờ này hoàn toàn yên tĩnh. Những người mộ đạo nhất cũng đã phải ra khỏi quần thể chùa. Ngày trước, đã có lần tôi vào chùa lúc năm giờ sáng để nhặt một chiếc lá bồ đề rụng. Hiếm hoi lắm. Trong ngày, hễ có một chiếc lá rụng là có người nhặt ngay, chẳng đến lượt mình. Ngày ấy, người hành hương chưa chen chúc như bây giờ, chùa chưa phải làm hàng rào bảo vệ như bây giờ, lúc tảng sáng ra vào chùa tự do. Bây giờ thì không thế. Tôi tự hỏi làm sao chúng tôi có thể vào chùa lúc nửa đêm như thế này.
Tôi đã biết Savitri có khả năng nhìn thấy đường trong sương mù. Bây giờ mới biết cô còn thấy đường trong đêm tối. Hay chỉ đơn giản là cô đã đi qua đi lại con đường này hàng nghìn lần? Cô thuộc đường?
Savitri khoan thai đi trước. Sáu cái bao tải va vào nhau loạt soạt.
- Anh nhận ra chưa? Đây là con đường ẩn sĩ Siddhattha đã chọn để đi vào trấn Boddhgaya, thuở ấy là rừng rậm.Ngươi vừa lội qua sôngNeranjana, đang mùa nước cạn, chỗ sâu nhất chỉ đến bụng. Lên đến bờ sông, người đi theo lối mòn này.
Như thể tôi cũng nhìn thấy con dường ở dưới chân mình. Cô nói mà tin tôi cũng nhìn thấy. Tôi đoán chúng tôi bắt đầu qua một hàng c ây bồ đề trên con đường chính hướng về phía chùa Đại Giác. Saoẩn sĩ lại vào đây? Savitri tự đặt câu hỏi phản biện, rồi tự trả lời. Bởi lẽ rừng là nơi vắng người qua lại, xa hẳn cõi tục, ẩn sĩ một mình với thiên nhiên, khả năng tập trung hành thiền ở mức cao nhất. Tinh thần thanh trong, trí óc sáng láng, những mớ bòng bong của tư tưởng được gỡ dần ra, được chắt nói rồi cuộn xếp thành hệ thống mạch lạc. Hãy lưu ý một điều rằng các nhà tư tưởng cổ đại theo truyền thống Bà La Môn không chuyển hóa tư tưởng thành chữ viết. Tư tưởng thánh hiền là thứ phải được tạo dựng sắp xếp ở trong đầu và truyền miệng để lưu giữ. Ẩn sĩ Siddhattha cũng vậy.
- Không thấy tài liệu nào nói rằng Đấng Giác Ngộ biết chữ.
Tôi nói. Nói xong thì vấp một cái đau điếng.
- Cẩn thận đấy. Nhấc cao chân lên một chút. Con đường này hơi mấp thô. Savitri nhắc. Rồi cô nói tiếp:
- Cũng không sách vở nào nới các hiền giả cổ đại biết chữ. Truyền thống Bà La Môn xem thường kỹ năng viết chữ, anh đã biết rồi. Hiền triết Vyasa có biết chữ không? Hay là trường ca Mahabharatacũng là do Ganesha nghe Vyasa đọc mà chép lại? Đến cổng chùa rồi. Savitri lại nhắc. Lấy hơi thở cho đều, bước đều chân, tính toán chính xác từng bước chân để bước từ trên xuống những tầng cấp. Tôi làm theo.Đây là hướng chính. Ken két nhè nhẹ, cái cổng sắt mở ra. Tôi nghe thấy chứ không trông thấy. Ngày xưa hoàng tử Siddhattha nửa đêm ra khỏi kinh thành, cánh cổng trong đêm đen cũng ken két thở ra như thế này đây. Còn chúng tôi bây giờ thì thản nhiên mở cánh cổng đi qua mà không một người bảo vệ nào nhìn thấy hỏi han.
- Anh đếm được bao nhiêu bậc đi xuống rồi?
- Tôi không đếm.
- Không đếm. Tức là nó đã hết. Bây giờ chúng tađã xuống đến khoảng sân ngay trước chính điện. Thẳng hướng trước mặt chúng ta là photượng Đức Phật ở thế ngồi thiền. Người nhìn về phía mặt trời mọc ở đằng đông, lúc tư tưởng của Người đã thành tựu. Ta đang nhìn Người. Người nhìn ta.
Giữa đêm đen, tôi chắp tay kính cẩn trước pho tượng Phật tổ. Người ngồi trong chính điện mà nhìn ra. Tôi cầu gì? Tôi cầu cho xứ sở tôi mãi mãi bình yên thịnh vượng. Tôi cầu cho chúng sinh có văn minh máy móc mà không giả dối tàn ác lầm lạc nhem nhuốc mãi thế này. Tôi cầu cho người thân bạn hữu của tôi thành đạt và khỏe mạnh cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Tôi cầu.
Người nhìn tôi. Tôi nhìn người. Cầu xong thả tay xuống rồi, yên lặng một lúc rồi, lại tự hỏi mình cầu thế có nhiều quá hay không.
- Nào ta đi. Men theo bức tường đá này mà vòng ra đằng sau, đến với cây bồ đề của Phật.
Tôi đặt tay phải lên vai Savitri, tay trái lần lần chạm vào hàng rào đá theo lời cô dặn. Tay tôi chạm vào những phù điêu hoa sen, di vật hiếm hoi cồn sót lại từ thời hoàng đế Asoka. Hàng rào đá này đổ nát vùi lấp trong rừng bao nhiêu thế kỷ, mãi về sau mới được khai quật, được dựng lại ở đây. Đi đến tận góc hàng rào, đúng cái góc vuông của hàng rào, Savitri ngoặt phải, dẫn tôi đi thêm mười bước. Đã đến đối mặt với cây bồ đề.
Những chiếc lá hình trái tim reo lao xao trên đầu. Cả nghìn vạn chiếc lá hình trái tim cùng xôn xao trong gió đêm. Mát rượi. Không gian thế này làm trí não bừng tỉnh đến li ti từng tế bào. Không nhìn thấy gì nhưng tôi nhận biết. Nhận biết hình động trái tim và cái đuôi rất dài của chiếc lá chẳng hạn. Nhận biết Savitriđã đưa tay lên bắt một chiếc lá rơi rồi đặt vào tay tôi chẳng hạn. Chiếc lá. Giữa đêm đen.
Savitri lại mở một cánh cửa nữa, Cánh cửa của bức tường rào bao quanh cây bồ đề cổ thụ. Tiếng ken két giữa đêm thanh vắng không gây ra một phản ứng nào. Ngủ. Cả thế gian đang mê muội say ngủ. Người tỉnh thức là người tới được. Savitri dắt tôi vào. Tay tôi đã chạm đến thân cây bồ đề cổ thụ. Những dải khăn thiêng, những lá cờ nhiều màu bàn tay du khách quấn vào lúc ban ngày, giờ đã được gỡ hết. Tay chạm tới là tới ngay thân cây. Tay chạm tới là tới ngay Tòa Kim Cương. Phiến đá hình chữ nhật dưới gốc bồ đề đánh dấu nơi Phật ngồi. Những ngón tay tôi không run, nhưng lòng rưng rưng. Người tình thức là người tới được.
- Các học giả cổ đại không có kiểu viện nghiên cứu như chúng ta ngày nay. Ẩn viện của họ chính là viện nghiên cứu vậy. Có khi những nơi chốn vắng người thuận lợi cho tu học cũng là viện nghiên cứu. Gốc bồ đề này đã là một cái viện nghiên cứu vĩ đại. Hàng nghìn năm sau các viện nghiên cứu nguy nga trên khắp thế giới còn phải biết ơn nó.
Savitri nói.
- Ẩn sĩ Siddhattha là nhà nghiên cứu đích thực. Không cần đến giấy bút máy chữ máy tính. Bao nhiêu trang giấy nháp ở trong đầu. Dập xóađi rồi tháo lại. Bao nhiêu trang bản thảo trong đầu cho đến khi nó hoàn chỉnh thành một hệ thống. Tất cả đều ở trong đầu. Tôi tiếp lời cô.
Sau khi tạo dựng được luận thuyết của mình, Đức Phật không vội ra đi ngay. Người còn lưu lại quanh gốc bồ đề thêm nhiều tuần nữa. Người đắn đo không biết có nên đem phổ biến điều mình tìm được hay không. Ta có một báu vật, ta có nên đưa ta cho mọi người cùng xem, họ đã sẵn sàng chưa, hay là người đời chẳng biết phân biệt vàng thau, họ thấy nó cũng chẳng khác gì đồ giả. Người đi đi lại lại rất nhiều lần trên những lối đi này. Suy tính. Savitri bảo tôi cúi mình sờ tay vào những phiến đá hình cầu trên lối đi, những phiến đá đánh dấu bước chân đắn đo của Phật. Rồi cô dắt tôi đi khắp vườn chùa, ra đến hồ sen Phật xuống tắm vào tuần thứ sáu sau khi bừng ngộ. Hôm ấy bất chợt mưa gió sấm sét đùng đùng. Cây cối đổ ngổn ngang. Bất ngờ Phật tỉnh ra đã thấy có một con rắn lớn quấn quanh che đỡ cho mình. Chuyện này không thấy trong các tài liệu lịch sử. Tất nhiên. Nhưng nó có trong huyền thoại Phật giáo. Muông thú cũng chở che cho Người. Nó có trong pho tượng đặt giữa hồ kia mà hai chúng tôi đang nhìn ra. Phật ngồi tĩnh tại trong khi một con rắn đang vươn bành ra làm thành một cái ôche trên đầu Người. Savitri thu xếp chỗ ngồi. Trong bóng tối, cô sột soạt lần tay vào một cái bao tải và bắt đầu kể. Thánh địa này cũng được hoàng đế Asoka ghi dấu. Ngài đến đây đánh lễ trước cây bồ đề rồi cho xây một ngôi chùa lớn. Ngày nào ngài cũng đến đây. Hoàng hậu cả ghen. Bà rình rập để thấy hoàng đế ngày nào cũng đến với cây bồ đề. Hoàng hậu ghen cả với cây. Bà bí mật cho chặt cây. Hoàng đế Asoka khiấy sau bao nhiêu cuộc chinh phạt đẩmmáu đã từ bỏ sát sinh. Ngài không trừng phạt ai về việc chặt cây mà chọn cách ngồi xuống bên cây bồ đề chỉ còn trơ lại gốc. Ngồi thiền. Hoàng đế thề sẽ không đứng dậy nếu cây bồ đề không mọc lại. Người ta phải xây hàng ràođá quanh gốc cây, phải dùng sữa bò linh thiêngđể tưới cho đến khi từ gốc bồ đề mọc nhánhmới. Về sau, Asoka gửi con trai Mahinda, cũng là một Phật tử, sang Sri Lanka truyền bá đạo Phật. Suốt hành trình truyền giáo dài dằng dặc, Mahinda mang theo một cây bồ đề non băng từ gốc bồ đề của Phật. Cây bồ đề ấy qua nhiều đời cháu con tiếp nối, vẫn còn đến bây giờ.
Cây bồ đề ở nơi Phật ngồi thì trải lắm truân chuyên. Bị hoàng hậu chặt. Có khi bị sét đánh. Nhiều thế kỷ sau, cây bị một vị tiểu vương vùng Bengal đốn ngã. Cho đến cuối thế kỷ mười chín, việc bảo tồn chính thức được đặt ra, một cây con được bứng từ cây bồ đề ở Sri Lanka về trồng lại vào chỗ cũ.
Ngôi chùa hoàng đế Asoka dựng vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên cúng phải dựng đi dựng lại nhiều lần. Đổ nát. Bị bỏ quên trong rừng. Dựng lại thìbị giặc dã kỳ thị tôn giáo phá tan hoang.Ngôi chùa Đại Giác bây giờ được xây dựng lại cách đây chừng bốn thế kỷ. Cao sáu chục mét. Kiến trúc hình tháp đặc trưng Ấn Độ. Bốn góc có bốn tháp nhỏ hình dáng giống hệt tháp chính, tạo sự cân xứng hài hỏa với cả quẩn thể.
Vẫn là đêm. Bóng tối dày đặc. Chúng tôi leo lên những bậc đá cẩm thạch mát lạnh, đẩy cửa chùa đi ra. Tôi lại bám vai Savitri mà đi. Trở ra với đời trần tục. Tôi đoán đang đi qua dãy hàng quán ken dày bên conđường dài trước cổng chùa. Hàng quán giờ này cũng sập cửa ngủ say. Không một ánh điện. Đêm dài cổ đại.
- Ta đang đi qua hai ngôi chùa Tây Tạng. Bên phải là chùa của phái áo vàng, bên trái là chùa phái áo nâu.
Savitri thuyết minh.
Từ đây tôi bắt đầu tự định hướng. Tự nhìn. Nhìn qua lời thuyết minh của Savitri. Qua chùa Tây Tạng một quãng là đen chùa Nhật Bản. Pho tượng Phật bằng đá trắng cao năm chục mét, đá khối được đưa từ Nhật sang lắp ráp lại, chi phí một triệu đô la Mỹ.
Savitri đưa tôi đi thăm viếng đất Phật bồ đề trong đêm. Cả một quần thể chùa chiền các nước ở đây. Những tòa sứ Phật giáo các nước ở đây. Quây quần trên vùng đất ghi dấu chân Phật. Chùa Thái Lan. Chùa Trung Quốc. Chùa MiếnĐiện. Chùa Hàn Quốc.
- Và kia là chùa Việt Nam.
Tôi biết là trong bóng đêm, Savitri đã dừng lại đặt mấy cáibao tải xuống và đưa tay chỉ. Ngang qua một cánh đồng lúa mì là Việt Nam Phật Quốc Tự. Ở Lumbini nơi Phật ra đời cũng có một Việt Nam Phật Quốc tự như thế này. Một mái chùa kiến trúc Việt Nam thấp thoáng trong rừng cây. Quần thể chùa trồng nhiều loại cây gắn với cuộc đời Phật. Cây đã mọc lên thành rừng bao quanh ngôi chùa rộng là cây vô ưu, cây sa la song thọ, cây nimba, cây doi cây tre cây trúc. Cả những cây cỏ của đất Việt nữa. Tôi chắp tay cảm tạ qua cánh đồng. Trong đêm đen, tôi chắp tay cúi đầu trước cả Savitri. Chắc chắn là cô nhìn thấy cử chỉ biết ơn của tôi.
Savitriđưa tôi trở về khách sạn thì mới hơn bốn giờ sáng. Vẫn mất điện. Trời vẫn còn tối đen như mực. Tôi lại nhớ lời Phật. Cả thế gian đang mê muội say ngủ.
Chính ở nơi ẩn sĩ Siddhattha trở thành người được giác ngộ, Savitri kể tôi nghe chuyện cô trở thành Nữ Thần Đồng Trinh.
Nữ thần Đồng Trinh là một vị thần sống, bằng xương bằng thịt, là hiện thân trên cõi trần của Parvati, còn gọi là Durga. Nàng hiện diện để bảo hộ cho cuộc đời trần thế này. Dân chúng ngóng về lâu đài của Nữ Thần Đồng Trinh mà yên tâm nàng đang ở đó canh cho họ làmăn phát đạt, canh cho đời sống yên bình không giặc giã. Trong dịp lễ rước Indra Yatra vào tháng chín hàng năm, nhà vua đến viếng thăm Nữ Thần Đồng Trinh,cúi đầu cung kính trước nữ thần có khi mới dăm bảy tuổi, được nữ thần tự tay quệt lên trán ngài vệt son đỏ tika ban phước. Sau đó cả một xa giá đồ sộ trang trí lộng lẫy đưa nàng diễu qua khắp thành phố. Xa giá của riêng nàng, mỗi năm chỉ lăn bánh trên đường có một lần. Mỗi năm phố phường chỉ có một lần ấy được nữ thần diễu quaban phước.Ngày thường thì người ta phải đến tận lâu đài của nàng để chiêm ngưỡng. Khách du lịch cũng được phép viếng thăm lâu đài, được thấy nàng trên ngai giữa lầu son gác tía. Một vùng đều có một Nữ Thần Đồng Trinh Kumari. Ở thủ đô thì có Nữ Thần Đồng Trinh tối cao, gọi là Kumari Devi. Kumari Hoàng gia. Savitri từng là Kumari Hoàng gia ở thủ đô. Tục tôn phong và thờ phụng Nữ Thần Đồng Trinh bắt đầu từ những truyền thuyết khác nhau. Dân tình vẫn thường kể.
Truyền thuyết thứ nhất: dưới triều một ông vua của bộ tộc Malla ngày nọ có một cô bé tự xưng mình là Nữ Thần Đồng Trinh. Nhà vua nổi giận đày cô bé đi thật xa, vào sâu trong dãy Himalaya. Chỉ đến khi hoàng hậu đổ bệnh, ốm lăn ốm lóc, nhà vua mới hoảng sợ cho đón cô bé về chính thức đưa lên ngôi nữ thần, canh giữ cho cả đất nước khỏi bệnh tật.
Truyền thuyết thứ hai: vẫn là thuộc triều đại Malla. Một ông vua khác giao cấu với một cô bé vị thành niên. Cô bé chết. Nhà vua tự hành xác bằng những cách khổ nhục nhất rồi tôn một cô bé lên làm Nữ Thần Đồng Trinh để ngày ngày thờ phụng sám hối.
Truyền thuyết thứ ba: một ông vua Mallathường chơi trò xúc xắc với nữ thần Taleju, một hiện thân của Parvati. Từ chơi xúc xắc dẫn đến việc nhà vua định cưỡng bức nàng. Nữ thần tức giận đe dọa sẽ không tiếp tục bảo hộ cho xứ sở này nữa. Nhà vua sám hối, cả thần dân cầu xin, cuối cùng nữ thần bớt giận làm lành, hứa sẽ trở lại trong hình hài một cô bé đồng trinh. Savitri là một Kumari Hoàng gia. Người ta tìm thấy cô lúc cô mới lên sáu. Đủ các tiêu chuẩn. Thuộc đẳng cấp chuyến hành nghề làm vàng bạc. Theo đạo Phật. Tử vi lập ra toàn những điều tốt đẹp.Trên người có đầy đủ ba mươi hai quý tướng. Màu da, màu mắt, hàm răng, mái tóc, nốt ruồi, các huyệt. Đủ cả. Lúc ấy sáu cô bé ứng cử viên mới phải qua những cuộc sát hạch hoặc thử thách. Không khác gì những cuộc tuyển lựa để tìm một vị Đa Lai Lạt Ma của người Tây Tạng. Vòng một của cuộc tuyển chọn: lúc nửa đêm, từng cô bé bị đẩy vào một căn phòng ẩm thấp ngột ngạt tạnh tưởi. Cả phòng chỉ có một ngọn nến chạy leo lét. Những cái mặt nạ ghê rợn treo trên tường. Những tiếng hú hét rú rít, tiếng vạc dầu sôi, tiếng người rên rỉ khóc lóc. Hệ thống âm thanh vòm bố trí kín đáo trong căn phòng làmtăng hiệu quả lúc nửa đêm. Một mình. Con bé dò dẫm đi từng bước thì giẫm phải một vật kềnh càng lông lá. Nhìn kỹ thì ra một cái đầu trâu mới chặt, máu me bê bết, cặp mắt thô lố toàn tròng trắng. Trên nên đất lênh láng máu, lăn lóc những cái đầu trâu đầu đê đầu cừu.
Mặc dù đã được gia đình huấn luyện dặn dò từ trước về cuộc thử thách lòng dũng cảm, đến lúc này hầu như con bé nào cũng rú lên. Gọi mẹ.
Có con bé lăn đùng ra ngất xỉu. Có con bé cọ rúm trong một góc phòng, run rẩy ngồi suốt hai tiếng đồng hồ cho đến khi được giải phóng. Có con bé gào khóc, chạy lung tung, vấp ngã lăn lộn trong vũng máu, tay cào cấu đứt tóc như hóa dại. Bị loại. Nữ Thần Đồng Trinh còn phải bảo vệ cho cả một đất nước, không thể là những kẻ hèn nhát.
Cuối cùng còn lại ba con bé can đảm nhất. Khi người ta mở cửa phòng đi vào còn thấy Savitri đang cưỡi lên một cái đầu trâu, nhún nhún như đang phi ngựa chạy khắp thung lũng. Vòng hai. Cũng là lúc nửa đêm, cũng từng con bé bị đẩy vào một cái phòng kho.Căn phòng sặc mùi ẩm mốc cũng chỉ có một ngọn nến tranh tối tranh sáng. Hãy vào đi và hãy chọn lấy thứ gì mình thích nhất.
Hai con bé kia hí hửng tìm ra hai bộ sari mới tinh mà người quản khố mới bỏ vào. Đến lượt Savitri. Ánh nến leo lét làm nó quáng mắt. Nó khum tay che trước trán để nhìn khắp căn phòng. Những tấm áo choàng phủ bụi. Những vương miện kim loại đã phai mờ theo thời gian. Những bộ yên cương đã lâu không dùng đến. Chói. Quáng nữa. Nó sốt ruột bước tới thổi phụt ngọn nến. Bóng tối trùm lên. Tốt rồi. Giờ thì nó đã nhìn rõ mọi thứ trong phòng. Thêm những vòng vàng xuyến bạc, vòng cổ vòng tay vòng chân. Thêm những tư trang cũ kỹ của phụ nữ mà nó chưa hiểu là cái gì. Nó nhìn lướt qua tất cả một lượt. Thêm một lượt nữa. Phải đến lúc này nó mới nhận ra trên kệ gỗ có một cái khăn xếp màu đỏ. Kiểu khăn xếp của đàn ông. Một tấm vải dài quấn thành hơn chục nếp, nếp này nhỉnh cao hơn nếp kia một tí tạo thành những nếp song song, kết thúc thành một cái chóp hơi nhọn ở đỉnh đầu. Cô bé nâng cái khăn lên ngắm nghía. Chính lúcấy Savitri thấy mọi vật trong phòng đều mờ đi, đều không sánh được với cái khăn xếp. Cô bé nhẹ nhàng phủi bụi trên cái khăn. Nhìn xuyên qua bóng tối đen đặc, nó thấy những hạt bụi li ti bong ra khỏi chiếc khăn, làm lộ dần một màu đỏ thắm. Savitri ôm cái khăn trước ngực định quay đi thì chợt nhìn thấy một vật khác trên mặt bàn. Một cái lông công. Cô bé nhặt chiếc lông công cắm lên trên chiếc khắn xếp. Hai vật riêng rẽ như chỉ chờ đến lúc này để trở nên ăn khớp. Bây giờ thì đã ổn rồi. Thốt nhiên cô bé nhìn thấy trước mắt một khúc sông Hằng nước xiết, một xoáy nước đang hút vào có tất cả những gì bập bềnh trên mặt nước. Một cái khăn xếp đỏ cắm chiếc lông công vẫn bình thản trôi qua mà không hút vào xoáy nước. Thong dong. Đường ta ta đi.
Savitri ôm cái khăn xếp ra trước cửa phòng. Ánh điện rực rỡ bên ngoài đưa cô bé sang một thế giới khác. Tất cả những người đứng bên ngoài đều sững sờ mất một lúc. Chiếc khăn xếp là vật sở hữu của một kiếp trước, được để lẫn vào giữa rất nhiều đồ vật, người ta muốn thử thách xem Nữ Thần Đồng Trinh có nhận ra kiếp trước của mình hay không.
Đồng loạt, bà quản trị trưởng, bà nhũ mẫu và toàn bộ ban quản lý lâu đài nữ thần phủ phục xuống. Cả một trận mưa hoa dội xuống đầu Savitri. Đã tìm được Nữ Thần Đồng Trinh.