Đức Phật
Ẩn sĩ Siddhattha đã trở thành Phật. Người Giác Ngộ. Phật nán lại bên Cây Giác Ngộ thêm mấy tuần nữa. Người sống với niềm vui của người vừa tìm thấy một báu vật. Mất bao công lao mới tìm thấy vật này, ta sẽ giữ lại cho riêng mình, sẽ sống cô độc trong các khu rừng, hưởng niềm vui chỉ một Người Giác Ngộ mới có? Hay là ta sẽ mang cho mọi người cùng được thấy? Khi ấy báu vật trở thành tài sản chung của thiên hạ.
Nhưng ai là người đã được chuẩn bi để nhìn thấy vật này? Biết bao nhiêu năm con người sống trong tăm tối và mù quáng, liệu họ có thể nhìn thấy và hiểu đúng giá trị của vật quý hay không? Hay là họ sẽ không phân biệt nổi đâu là viên ngọc đâu là hòn sỏi, đâu là vàng đâu là thau? Tất nhiên ta là người tìm ra con đường chấm dứt đau khổ cho con người. Nhưng ngay cả một ông Phật cũng không thể xóa bỏ được khổ đau cho con người, nếu như người ta không gắng giúp đỡ chính mình trước. Người bệnh phải muốn lành bệnh, trước khi một thầy thuốc bắt tay vào chạy chữa cho họ. Cũng như vậy, người ta phải muốn nghe những lời giảng giải về chân lý, trước khi một người nào đó có thể đến giảng cho mình.
Cuối cùng Phật nhớ đến năm ẩn sĩ đã cùng tu khổ hạnh với mình dạo trước. Rất có thể họ sẵn lòng nghe. Người bèn rời Cây Giác Ngộ, vượt hơn hai trăm dặm đường rừng để tới vườn Sarnath.
Năm ẩn số khổ hạnh nhìn thấy Buddha từ xa, bảo nhau cứ phớt lờ kẻ đã từ bỏ việc tu hành xác, đừng có lên tiếng chào hỏi làm.gì. Nhưng chuyện diễn ra khác hẳn. Phật tiến lại gần, thái độ cư xử của Người khiến tất cả năm ẩn sĩ phải đứng dậy, chắp tay đáp lễ. Phút tái ngộ mừng mừng tủi tủi.
- Các người vẫn còn nhớ ta chăng? Phật hỏi.
Một người đáp.
- Dạ thưa, ẩn sĩ là Siddhattha, chúng tôi còn nhớ.
- Không đâu, ta không còn là Siddhattha nữa. Cả thế gian đang mê muội say ngủ. Nhưng người nào phát hiện ra chân lý, người ấy được xem như đã bừng tỉnh dậy. Giờ thì ta đã tỉnh thức, đã tìm ra chân lý. Tất cả những ai tỉnh thức, đã giác ngộ, đều được gọi là Buddha: Ta là Phật, là Người Giác Ngộ.
- Vậy thì thưa Đức Phật, xin Người hãy truyền dạy những điều Người biết, để các đệ tử này có thể được giác ngộ.
Năm người cùng nói.
Họ sắp xếp cho Phật một chỗ ngồi rồi ngồi quây tròn trước mặt Người.
Phật giảng rằng có Bốn Chân Lý Diệu Kỳ.Thứ nhất là chân lý về nỗi đau khổ. Cuộc đời chất chứa đầy những đau khổ. Tuổi già, ốm đau, các tan rã dần ở trong thân ngoài thân, bất hạnh và cái chết. Ngay cả khi tìm được lạc thú, thì liền sau đó con người cũng mỏi mệt vì chính lạc thú ấy. Ở đó không có chỗ cho sự thỏa mãn và an lạc thực sự.
Thứ hai là chân lý về nguyên nhân của đau khổ. Khi trong người chất nặng lòng tham và sự thèm muốn, thì người đó chỉ nhận được nỗi khổ mà thôi. Ở đó sẽ còn có mặt sự bất mãn, sân hận và mê muội dẫn đến bất hạnh.Ví như một nhà giàu luẩn quẩn với của cải thì tính luẩn quẩn ấy sẽ chẳng đem lại cho anh ta điều gì, ngoại trừ nổi bất hạnh.
Thứ ba là chân lý về sự chấm dứt nỗi đau khổ. Khi ta diệt trừ được ham muốn và dục vọng, thì nỗi khổ đau cũng chấm dứt. Ta sẽ được an lạc và hạnh phúc.
Cuối cùng là chân lý về con đường. Con đường nàylà Chính Đạo, sẽ dẫn đến nơi chấm dứt mọi đau khổ. Nếu như ta tránh làm tổn hại đến mọi sinh linh, nếu như ta lắng suy tâm tư cảm xúc, nếu mài sắc trí tuệ và tiếp thụ được tri thức thực sự, thì mỗi chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc trọn vẹn, nơi chấm dứt mọi khổ ải.
Đó là bài giảng đầu tiên của Phật, gọi tên là kinh Chuyển Pháp Luân, quay bánh xe chân lý. Và năm ẩn sĩ kia được xem là năm tín đồ đầu tiên của Phật giáo.