Tôi
Không biết Phật phải đi bộ bao lâu từ cây bồ đề đến nơi giảng bài kinh đầu tiên. Hai mươi lăm dặm yojana. Hai trăm năm mươi cây số. Chúng tôi thì lên tàu hỏa, dăm bảy tiếng sau đã vào đến vườn Sarnath.
Savỉtri lại tiếp tục câu chuyện theo dấu chân Phật.
- Hoàng đế Asoka cũng dựng lên ở đây tấm bia và cột đá ghi dấu thánh địa Phật. Di tích đáng kể nhất ở Sarnath này là phần chân và phần đỉnh cột đá được tìm thấy. Phần chân thạch trụ này chỉ còn cao khoảng một mét. Những bàn tay hận thù tôn giáo đã đốn ngã chiếc cột bằng đá. Cột bị vùi lấp dưới nhiều tầng đất. Qua nhiều thế kỷ, cây mọc thành rừng, toàn bộ thánh địa bị lãng quên. Mãi đến đầu thế kỷ mười chín, các nhà khảo cổ mới bắt đầu khai quật thánh địa. Phần trên của cột đá Asoka được tìm thấy. Tất cả đều sững sờ trước một tác phẩm điêu khắc tuyệt vời.
Savitri và tôi đứng đối điện quần tượng đặt trên đỉnh thạch trụ. Trong bảo tàng Sarnath. Bốn con sư tử chụm lưng vào nhau nhìn về bốn hương. Hầu như ai từng đặt chân đến Ấn Độ đều đã nhìn thấy chúng, đơn giản là quần tượng này được lấy làm quốc huy nước Cộng hòa Ấn Độ. Đất nước vĩ đại đa tôn giáo, ở buổi bình minh của nền cộng hòa đã không chọn gì khác mà lấy tư tưởng hòa bình thân thiện của Phật giáo làm thông điệp gửi ra thế giới. Bốn con tư tử tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm và đức tin đứng trên một bánh xe chakra 24 nan để tưởng nhớ Bánh xe Chân lý của Đức Phật. Bên dưới đó, có bốn con vật được chạm khắc xung quanh để canh bốn hướng: sư tử ở hướng bắc, voi ở hướng đông, ngựa ở hướng nam, bò ở hướng tây. Bốn phần của vũ trụ. Đây còn là sự tiếp tục của huyền thoại Vệ Đà gợi nhở rằng kinh RigVeda coi sư tử là vua của rừng rậm, con ngựa phi tốc tượng trưng cỗ xe của Thần Mặt Trời, bò tượng trưng cỗ xe của Ngọc Hoàng Indra. Pho tượng cũng nhắc nhở đến hình ảnh Đức Phật thông qua Sakya Simba (sư tử của bộ tộc Thích Ca), dòng dõi của Đức Phật.
Toàn bộ nhóm tượng đặt trên một tòa sen, tượng trưng cho nguồn nước sự sống và cảm hứng sáng tạo. Bên dưới quốc huy có một dòng chữ bằng ký tự Devanagari: Satyameya Jayate, chỉ có chân lý chiến thắng.Biểu tượng của vương triều Maurya này được làm bẳng sa thạch Chunar. Hình dáng sư tử thật dũng mãnh. Khuôn mặt sinh động, bờm tung bay, các đường nét đậm của vóc hình tròn trịa và trạng thái thư giãn. Từ hình dáng cho đến từng chi tiết đều chứng tỏ tư duy cân đối và chính xác của nghệ nhân thời Maurya. Nước phủ bóng làmtăng độ bền cho pho tượng sư tử và chiếc cột Asoka, tạo cho chúng vẻ mềm mại cua ánh ngọc bích và một sức sống bất chấp hàng nghìn năm phơi trong mưa nắng cát bụi. Người thợ đá chắc hẳn đã học được kỹ thuật đánh bóng cho bề mặt, bí quyết của nền văn minh thung lũng sông Indus, từ 3.000 năm trước Công nguyên đến triều đại Maurya, 300 năm trước Công nguyên. Nước phủ tạo vẻ long lanh như pha lê cho bề mặt pho tượng có thể được chế biến rất công phu từ mã não. Vẫn còn là một bí ẩn.
- Sau khi hoàng đế Asoka đến đây, Sarnath trở thành một quần thể Phật giáo đông đúc. Di tích nền nhà kia cho thấy những thiền viện nhiều tầng, mỗi tầng nhiều phòng cho môn sinh tín đồ hành thiền. Thiền viện bắt đầu bị đốt phá vào thế kỷ mười hai. Khi khai quật, người ta tìm thấy nhiều vật bị cháy: cơm, gạo, bánh.
Bảo tháp Dhamek vẫn còn sừng sững hơn ba chục mét giữa trời. Một khối tinhđặc trong ruột, chứa bên trong nó tro cốt của những vị cao tăng. Sử sách còn ghi một chuyện trớ trêu. Năm 1794 vị thủ hiến của thành Varanasi quyết định xây dựng một cái chợ cho thành phố bên bờ sông Hằng tấp nập người hành hương, nhưng lại thiếu nguyên vật liệu. Ông thủ hiến Jagat Singh bỗng nhớ đến thiền viện Phật giáo bị bỏ hoang đã lâu ông cho người tới đập phá cái bảo tháp cao hơn ba chục mét để lấy gạch đá. Trong lòng đài tưởng niệm này, người ta phát hiện ra một cái tiểu bằng đá cẩm thạch, bên trong có một bình đựng tro xương. Đó là một phần xá lợi của Đức Phật. Chẳng biết phải làm gì với di vật tìm được, vị thủ hiến đã tuân theo phong tục của đạo Hindu, đem rải tro cốt của Đức Phật xuống sông Hằng, dòng sông thiêng liêng nhất của người theo đạo Hindu.
Lúc Phật bước chân vào khu vườn rộng như một cánh rừng này, chỉ thấy nhiều nhất là hươu nai. Thảng hoặc có những đám trai gái đùa giỡn chạy qua. Họ từ thành Varanasi kéo đến đó vui chơi giữa thiên nhiên. Tìm một lúc Phật mới gặp được năm ẩn sĩ khổ hạnh. Ở Sarnath bây giờ có một quản tượng, Đức Phật với hai bàn tay đặt phía trước ngực trong thế bắt ấn: ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải gặp ngón trỏ của bàn tay trái. Năm tín đồ đầu tiên của đạo Phật ngồi quây tròn phía trước, đầu hơi cúi đôi bàn tay chắp trước ngực, nghe giảng bài kinh đầu tiên. Savitri và tôi tìm một chỗ ngồi trong vườn nai. Cô lại lần tay trong những cái bao tải sột soạt mà kể chuyện.
- Về sau này, trong Phật tử có lưu truyền sự tích Vườn nai. Cái địa danh Sarnath cũng được giải thích rõ ràng trong đó.
Ngay tại chốn này, thời xửa thời xưa là khu rừng cư trú của loài hươu nai. Nhà vua từ kinh thành Varanasi vẫn thường đến đây săn bắn.
Cho đến một ngày, vua của loài nai gọi là Lộc Vương tìm đến thỉnh cầu:
- Tâu đại vương, chúng thần loài nai, vốn sinh ra để làm mồi cho con người. Nhưng đại vương mỗi lần đi săn đốt cháy cả khu rừng mà tiêu diệt hàng loạt. Nai thì bị chết chồng chất, mà thịt ấy để qua đêm cũng thành ôi thiu.
- Ngươi muốn ta dừng tay tàn sát cả dòng giống nhà ngươi ư?
- Thưa không dám, chúng thần xin hàng ngày đến đây nộp mạng mỗi ngày một con. Vua có thịt tươi để ăn. Chúng thần thì được kéo dài sự sống, sinh sôi nảy nở thêm.
- Ta khen cho ngươi nói phải.
Từ đó, loài nai theo thứ tự đến nộp mạng. Mỗi ngày một con. Sự đời diễn ra bình thường cho đến khi kẻ nộp mạng là một con nai bụng mang dạ chửa. Nó cầu xin Lộc Vương cho trì hoãn đến sau khi sinh con. Người ta không thể giết những gì chưa sinh thành. Lộc Vương thở dài. Đúng là tấm lòng người mẹ biết thương những gì chưa được sống. Không thể bắt kẻ khác chết thay cho nai mẹ, ai cũng quý mạng sống của mình cả, Lộc Vương đành phải đem thân đi nộp mạng thay. Cả thành Varanasi đều biết chuyện này. Người ta đổ đến xem vua của loài nai tự đem thân tới, đặt đầu lên thớt, chờ dao kề cổ. Đại vương thành Varanasi thấy sự lạ, truyền hỏi thì được biết đầu đuôi.
- Ta có được tấm thân con người nhưng tấm lòng không bằng loài nai. Con nai này mang thân nai nhưng lại có tấm lòng khác lạ hơn con người. Đại vương thở dài nói. Ngài truyền tha mạng cho loài nai. Lại cho loài nai khu rừng ấy để trú ngụ. Khu rừng mang tên Migadaya, Lộc Uyển, rừng của loài nai. Theo thời gian, khu rừng đổi tên thành Sarnath để ghi nhớ câu chuyện về vị vua của loài nai có tấm lòng nhân hậu. Sarnath. Lộc Vương.