Tôi
Savitri và tôi đi tàu hỏa đến Gorakhpur. Từ đó đi xe khách thêm năm chục cây số nữa mới đến Kushinagar. Kushinagar là tên mới, ngày xưa là Kusinara. Rừng cây sa la được trồng lại từ giữa thế kỷ hai mươi. Những cây sa la mọc thành đôi xanh tốt. Nơi Phật nằm rồi ra đi, bây giờ là một bảo tháp hình bán cầu, đỉnh tròn. Tháp Maha Patinirvana. Đại Niết Bàn. Bên cạnh là ngôi chùa kiến trúc theo kiểu tinh xá bằng tre lá thời Phật. Người ta uốn cong những cây tre dai nhất thành hình bán cầu rồi cứ thế lợp tranh lá lên trên. Chùa này cũng hình dáng như vậy, chỉ có điều chùa xây bằng gạch đá. Trong chùa có tượng Phật nhập Niết Bàn. Người nằm nghiêng vê bên phải, đầu hướng về phương bắc, tay áp dưới má. Pho tượng bằng sa thạch nguyên khối, dài hơn sáu mét. Pho tượng được khai quật lên từ dưới lòng đất vào đầu thế kỷ mười chín. Toàn bộ khu bảo tháp và chùa chiền ở đây cũng được khai quật và phát hiện lại vào khoảng thời gian ấy. Trước đó là nhiều thế kỷ bị hủy diệt và lãng quên.
Buổi chiều chúng tôi ngồi bên bảo tháp đánh dấu nơi làm lễ hỏa táng di hài Phật. Đám tang Phật thì vắng người, nhưng hỏa táng xong thì nhiều sứ thần đã kịp có mặt đòi chia phần xá lợi. Những cư sĩ bản địa không ngờ lại có đòi hỏi như vậy. Chút nữa thì họ đã chôn cái bình đất đựng tro cất đi rồi. Thế là chỗ cốt tro được chia làm tám phần cho tám xứ. Một bộ tộc đến muộn xin phần tro trên giàn hỏa táng. Một giáo sĩ Ba La Môn xin giữ cái bình đựng cốt tro ban đầu. Như vậy toàn bộ có mười di vật, được thờ trong mười bảo tháp ở các vùng. Bảo tháp ở điểm hỏa táng xây bằng gạch, hình dạng một quả đồi nhỏ. Cả chỗ này nữa, tôi cũng đã qua lại mấy lần. Chuyến này trở lại cùng với Savitri là để lần theo dấu mà nghe một câu chuyện. Chuyện của nàng Savitri.
- Sau đây trở về anh sẽ làm gì?
Savitri hỏi. Lẽ ra phải là tôi hỏi câu ấy. Mỗi chuyến đi với một người khách như thế này, mất của cô mười ngày đến nửa tháng. Không chỉ là đi hướng dẫn du lịch. Sau một chuyến du hành qua đời Phật, người ta không còn là người của trước chuyến đi nữa.
- Tôi sẽ viết một cuốn sách.
Tôi nói. Tôi đưa cho Savitri cặp kính râm của mình. Cô đang nheo nheo mắt vì nắng. Trước đây tôi đã viết, nhưng bây giờ sẽ viết lại. Có thể đưa thêm chuyện nàng Savitri vào đó.
- Tôi nói thầm.
- Anh nhớ gửi cho tôi cuốn sách ấy
Cô dặn.
- Có thể vì cuốn sách mà sẽ có thêm du khách đến tìm tôi.
Savitri nói như một chuyện tất nhiên. Cô không đùa bằng chuyện đòi bản quyền. Lúc ấy chợt xảy ra một chuyện lạ. Không gian tự động vàng phơ phơ ra. Có lẽ cũng không lạ lắm. Trước một cơn dông, trời đất cũng hay đổi màu vàng như vậy. Vàng nhờn nhợt. Vàng như một cái kẹo nhạt. Đất trời cứ bợt dần ra chờ đến khi trời tối.
Savitri bỏ cặp kính râm ra trả lại tôi. Cô vội vàng đứng dậy quờ tay nhặt mấy cái bao tải.
- Về thôi anh, có thể còn kịp.
Cô làm tôi cũng vội theo.Tôi đứng dậy ngay. Không hỏi xem cái gì còn kịp. Savỉtri xách mỗi tay ba cái bao tải đi trước. Mỗi cái bao có một âm tiết, tách ra từ câu tiếng Sankrit, Om mani padme hum. Thần chú. Rồi dần dần thành câu cửa miệng. Trong hoa sen có ngọc. Ngọc quý ở trong hoa sen. Thậm chí không dịch nghĩa. Hiểu thế nào là tuỳ tâm tùy trí từng người.
Một bước được một đoạn, Savitri đứng sững lại. Mắt cô nhắm nghiền như vừa bị bụi ập vào cả hai mắt. Trời không gió. Màu vàng đã nhợt đi chuyển dần sang nhá nhem. Đây là lúc chạng vạng
- Tôi không nhìn thấy gì nữa.
Savitri bảo.
Lẽ ra chúng tôi phải quay về sớm hơn từ hôm đi với cô đến giờ, chúng tôi chưa bao giờ ở ngoài đường vào lúc này nên tôi không biết.
Dường như cô mắc một chứng giống bệnh quáng gà. Người quáng gà thường lóa mắt vào lúc chạng vạng, lúc gà cuống cuồng vào chuồng. Đi đứng đâm quàng đâm xiên. Savitri không chỉ bị lóa. Những lúc như thế này cô hoàn toàn không thấy gì. Tối như bưng lấy mắt. Cô thường tínhđể lúc trời nhá nhem thì đang ngồi đâu đó, chờ tối hẳn mới đi tiếp.
Tôi dẫn Savitri đi. Nhớ cái lần nửa đêm về sáng cô dẫn tôi đi trong bóng tối vàothăm cây bồ đề của Phật.Cô đi trước. Tôi bám hai vai cô đi theo như người mù. Bây giờ đổi vị trí, ngược lại. Nhưng cô không thể bám hai tay lên vai tôi. Hai tay cô không bao giờ rời sáu cái bao tải. Sau rốt, Savitri chấp nhận để tôi đi saulưng cô. Hai tay tôi giữ hai bên hông cô như cầm vô lăng xe hơi. Cô đi. Tôi lái. Tránh người tránh xe mà không lao sang vệ đường. Những cái bao tải căng phồng mà rất nhẹ. Tôi cũng sẽ không hỏi cô trong ấy đựng gì.
Nhưng rồi tôi vẫn có câu để hỏi:
- Có thể kể chuyện mà không lục tay trong những cái bao tải hay không?
- Savitri là một cái đĩa CD. Anh có thể nghe được âm thanh trong một cái CD mà không cần máy đọc CD hay không?
Cô hỏi lại. Rồi cô cười rộ như nói đùa.
Hai chúng tôi cứ thế mà dắt nhau đi. Y như ông vua mù Dhritarashtra trong sử thi Mahabharata.Lúc một trăm con trai của ông ra chiến trường đánh nhau với năm anh em con nhà ông chú, ông vua mù cũng được dắt tay dò dẫm đi ra. Quan sát chiến trường bằng giác quan của người mù. Đến đâu rồi? Muôn tâu, bãi chiến trường Kurukshetra ở ngay trước mặt. Một trăm thằng con ta đâu? Các chàng ở về bên tả. Năm thằng cháu ta đâu? Các chàng ở về bên hữu. Hòa bình không còn cứu vãn được ư? Thưa, binh mã đã sẵn sàng, gươm giáo đã tuốt trần... Bà vợ của ông, khi về làm dâu, thấy chồng mù, bà cũng tự nguyện suốt đời không nhìn gì nữa. Bà lấy một băng vải che ngang mắt suốt đời. Một ông vua và một hoàng hậu. Đều không nhìn đời. Hai người không nhìn đời cứ thế dắt nhau đi, điềm nhiên trước một cuộc đời cứ diễn tiến không như mong ước của họ. Đi qua rừng cây sa la của Phật, tôi bảo:
- Ta có thể ngồi đây chờ cho trời tối hẳn. Lúc ấy thì có thể ngược lại, cô sẽ dắt tôi đi. Savitri cười:
- Thế cũng được.
Không gian cứ vàng nhợt mãi ra như bị giặt quá tay. Chúng tôi không dừng mà cứ đi tiếp. Savitri đeo kính râm của tôi đi trước. Vẫn nhắm nghiền mắt. Tôi đi sau, nhưng thực ra là đang lái cô đi. Xuyên qua đêm tối. Với cô lúc này đang là đêm tối. Còn với đôi đây là một buổi chạng vạng bình thường. Một ban ngày đang nhợt ra thoi thóp để sửa soạn nhập diệt vào đêm tối.