← Quay lại trang sách

Chương 8 HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG THEO SẤM VỀ TRỜI

Hay Chuyện vườn An Lạc Đức Ông hiển thánh

Năm Trùng Hưng thứ 7 (1291), sau trận Bạch Đằng ba năm.

Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn dâng biểu xin vua về trí sĩ. Ngài lui về ở hẳn tại hương Vạn Kiếp. Quan Gia Trần Nhân Tông muốn lưu Ngài lại kinh thành nhưng Vương từ chối: “Thần đã làm xong việc cần làm, bây giờ chỉ muốn sáng ngắm cây nghe chim hót, chiều đọc sách, tối xem hoa nở và nghiền ngẫm mọi sự ở đời rồi viết sách. Xin Quan Gia chiếu cố cho thần cuối đời được thảnh thơi.”

Thật sự thì Vương cũng bắt đầu cảm thấy mỏi mệt. Dù là một vị tướng quân có sức địch muôn người, nhưng cũng không ai chống được tuổi trời. Ba cuộc chiến chinh với quân cường địch đã làm hao tổn nhiều sức lực, trí lực của Ngài. Trải qua những thời khắc sinh tử, những lúc hiểm nghèo cùng với giang sơn đất nước, Vương cũng thấu hiểu thêm được nhiều điều. Vương biết lẽ đời “Sinh - Lão - Bệnh - Tử” không chừa một ai. Và luật “Thịnh - Suy” cho mọi vương triều cũng không có ngoại lệ. Vương muốn dùng thời gian còn lại của đời mình vào việc viết sách để lại cho đời sau.

Về trí sĩ tại Vạn Kiếp, Vương thấy thật thoải mái. Lục Đầu Giang mênh mông sóng nước đã yên bình. Không còn tiếng gươm đao. Hằng ngày rộn ràng tiếng thuyền đánh cá, thuyền buôn xuôi ngược. Dãy núi Phượng Hoàng hết bóng quân thù, cây cối lại xanh tươi bốn mùa, hương hoa thơm ngát.

Dân chúng cả vùng no đủ, nhà nhà hoan ca. Họ kính cẩn Vương như cha. Họ bảo nhau lập sinh từ thờ Ngài ngay tại hương Vạn Kiếp. Quan Gia còn đích thân xuống viết văn bia lưu lại. Vương cũng vui vẻ đón nhận sự trọng thị của dân chúng và triều đình dành cho mình. Bởi Vương hiểu rằng, đó là lòng dân muốn vậy.

Vương sai người nhà làm một cái vườn trồng nhiều cây thuốc quý bên Lục Đầu Giang để khi cần quân dân trong vùng có cái chữa bệnh. Vườn An Lạc, cũng là nơi Vương lui tới hàng ngày. Kể từ khi Ô Mã Nhi đánh vào thái ấp rồi tàn phá hết cả nhà cửa cây cối năm Thiệu Bảo thứ 7 (1285), dù sau này Vương đã cho xây lại bề thế khang trang, nhưng giò phong lan Quế Lan Hương thì không sao tìm gây lại được nữa. Vương nhiều đêm thở dài tiếc nuối, dường như người con gái trinh trắng đẹp đẽ bên bờ sông Thiên Đức lướt qua đời Vương như một cơn mộng mị. Đứa con trai tài giỏi tuấn tú của Vương với nàng, trong trận chiến cuối cùng trên sông Bạch Đằng cũng đã không trở về nữa. Thượng Thư Bộ Hộ Trần Hưng Hồng, người đã góp công lớn cho hai cuộc chiến với quân Nguyên Mông với vai trò hậu cần, nhưng Hưng Hồng là một chàng trai trẻ, lại mang trong mình dòng máu thượng võ của nhà Đông A, biết cha đang chuẩn bị đánh trận Bạch Đằng, chàng không thể ngồi yên trên kinh thành. Trần Hưng Hồng về quê, chiêu tập trai tráng trong vùng, rèn khí giới, đóng thuyền chiến, xuôi theo sông Thiên Đức xuống thẳng Bạch Đằng trợ chiến với cha. Đội quân của Trần Hưng Hồng chiến đấu rất hăng, giết nhiều kẻ thù. Thế nhưng Trần Hưng Hồng mất tích trong đám loạn quân. Vương sai người đi tìm ròng rã hàng tháng trời trên sông vẫn không thấy. Đứa con trai của Vương đã về trời theo mẹ mà không để lại dấu tích gì. Vương đau xót vô cùng. Ngài xin vua ban chiếu cho dân Trầm Chỉ thờ Trần Hưng Hồng làm thành hoàng làng. Con trai Ngài sẽ được dân thờ phụng hương khói đến muôn đời…

Những năm cuối đời của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn êm đềm trôi bên Lục Đầu Giang.

Buổi sáng Ngài thường ra vườn An Lạc, ngắm cây, tỉa cành, hướng dẫn bảo ban người làm bên những hương thơm của quế, bạc hà, hương nhu, sả… thoang thoảng trong làn gió. Ngài ngắm cây cỏ, đất trời, nhìn mái tranh…

Buổi chiều, Ngài thường sai gia nhân đưa một chiếc ghế ra đặt bên bờ Lục Đầu Giang, ngồi hóng mát. Dân trong vùng, thuyền bè đi dưới lòng sông luôn được thấy Ngài râu tóc bạc trắng, yên lặng hiền từ như một ông tiên, ngồi trông cho con cháu yên nghiệp làm ăn.

Buổi tối, Vương ngồi ở thư phòng đọc sách đến khuya.

Bốn vương tử lập công lớn, đã được triều đình ban thưởng, phong tước và bổ đi trấn nhậm các nơi, thỉnh thoảng thay nhau về thăm cha.

Lâu lâu Quan Gia lại sai mệnh quan triều đình về vấn an và ban quà. Đức vua Trần Nhân Tông đã xuất gia, lên núi Yên Tử gần đấy cũng thỉnh thoảng xuống đàm đạo cùng Ngài.

—★—

Dạo này Vương hay bị mất ngủ.

Vương ngồi bên cửa sổ thư phòng đọc sách thông đêm. Quyển sách mà Vương hay đem ra đọc lại dịp này là quyển của ông đồ Dương Đức Tụng.

Tại thiên thứ bảy, ông đồ viết:

Nhân gian hay luận rằng trên đời, thứ gì là quý nhất? Vàng ngọc là quý nhất? Sừng tê, đồi mồi là quý nhất? Nhà cao cửa rộng, ruộng đất thẳng cánh cò bay, sản nghiệp to lớn là quý nhất?... Xin thưa là sai cả! Con người mới là cái quý nhất trên thế gian này. Nếu không có con người, vàng ngọc cũng chỉ như cục sắt, cục đồng. Nếu không có con người, tê giác đồi mồi chết mục, chả ai biết để mà nâng niu quý báu. Nếu không có con người sinh sống, ruộng đồng chỉ là bãi hoang rừng rậm, sao có được lầu son gác tía huy hoàng tráng lệ? Vậy thì cái quý giá nhất cõi nhân gian chẳng phải là sự sống của con người vậy, chứ không phải là ngọn núi tấc sông như cổ nhân thỉnh thoảng có người ngoa truyền. Kẻ hậu thế đọc sách người xưa không nên nhất nhất tuân theo mù quáng mà phải tỉnh trí suy xét. Thế người ta mới gọi là bậc trí giả vậy.

Hay. Lạ. Vương thầm thốt lên trong đêm, rồi tự rót một chén trà nóng khoan khoái thưởng thức. Khi phu nhân Thiên Thành còn sống, mỗi khi Vương đọc sách, bà sẽ pha cho Vương một ấm trà ướp sen hồ Dâm Đàm của hoàng gia từ trên kinh thành gửi xuống. Nay phu nhân đã mất, Vương thường tự làm việc này mà không khiến ai.

Tổng quản Trương Hán Siêu đã ở Vạn Kiếp từ khi là một thư sinh trẻ tuổi, trải qua hai cuộc chiến chinh, sát cánh bên Vương cùng nhau bàn bạc lo toan từ việc quân việc nước đến việc nhà, nay Vương đã tiến cử lên triều. Trương Hán Siêu đã là mệnh quan triều đình, nhưng vẫn thường xuyên về Vạn Kiếp thăm hỏi, đàm đạo thơ văn với Vương. Hai người vốn tâm đắc, họ bàn bạc với nhau cả về những cuốn sách sẽ viết lưu lại cho đời sau. Vương nói sẽ biên lại một cuốn sách về cách dùng binh, để lại cho đời sau làm kế sách giữ nước, mong cho vương nghiệp Đông A trường tồn. Trương Hán Siêu thì khát vọng viết nên một bản hùng ca tráng khí về cái thời chưa xa. Thời Hán Siêu được bên Vương lúc khuya sớm cũng như lúc mịt mù tên đạn, cái chết bay vèo vèo gang tấc…

Vương là người mẫn tiệp tự chủ, mọi việc từ nhỏ đến to, từ việc dân việc nước cho đến việc riêng của mình, Vương đều tính toán vẹn toàn. Là võ tướng, Vương rất biết cách rèn mình, giữ sức. Là người đọc nhiều sách thiên hạ, Vương thấu hiểu cái lý của trời đất. Dẫu biết vậy nhưng Vương cũng không khỏi buồn lòng khi nghĩ về những người thân cứ lần lượt rời xa mình.

Cuộc đời võ công oanh liệt, vinh quang tột đỉnh, như mọi vương hầu của nhà Trần, Vương cũng có nhiều tỳ thiếp, kẻ hầu người hạ, nhưng chỉ có ba người đàn bà được Vương khắc sâu hình ảnh trong lòng đến tận lúc cuối đời. Thế nhưng cả ba người đàn bà ấy đều bỏ Vương đi trước.

Quế Lan, người con gái bên bờ sông Thiên Đức, dường như nàng là tinh tú trên trời, thác sinh ra chỉ để gặp Vương, sinh cho Vương một đứa con trai đẹp đẽ, thông minh, tài giỏi, để trợ giúp Vương trong hai lần binh lửa, rồi nàng lại về trời. Vài năm sau, đến Mẫu - Thụy Bà công chúa, người nuôi nấng Vương từ nhỏ, người luôn dành tình mẫu tử cho Vương một cách trọn vẹn nhất, cũng về cõi trên. Thế rồi khi chiến cuộc vừa xong, Vương nghĩ đã hoàn thành công nghiệp của đời mình, các vương tử cũng trưởng thành nơi chiến trận, đều đảm đương những chức vụ trọng yếu của nước nhà. Là lúc có thể nghĩ chuyện hưởng thú an nhàn thì người vợ yêu quý của Vương, phu nhân Thiên Thành lại từ giã cõi đời.

Sau cái chết của phu nhân Thiên Thành, Vương chỉ còn niềm vui đọc sách và viết sách.

Cuốn sách Vạn kiếp tông bí truyền thư Vương đã nghĩ từ lâu, nay có thời gian rảnh rỗi, Vương bắt đầu đặt bút viết. Vương muốn viết quyển sách này để truyền lại cho con cháu nhà Đông A những tinh hoa võ thuật của dòng họ, một trong những điều đã làm nên võ công ba lần đánh tan quân Mông Thát. Vương viết:

Tổ nhà ta nguyên sinh sống ở đất Mân, bên này sông Dương Tử, thuộc đất Bách Việt. Năm xưa thủy tổ Trần Tự Minh làm quan cho Triệu Đà, đế vương của nước Nam Việt. Sau người về theo An Dương Vương. Thành Cổ Loa thất thủ, An Dương Vương phải trẫm mình ở bể Diễn Châu, tổ về ẩn dật tại vùng Kinh Bắc. Vùng này khí hậu hiền hòa, núi sông tươi tốt, đồng ruộng phì nhiêu nên họ nhà ta thịnh vượng, sinh nhiều con cái, phúc phần được mở rộng. Các chi họ Trần trong vùng ngày càng lớn mạnh. Thục nữ chăm nghề cấy lúa trồng dâu. Nam nhân cày ruộng đánh cá, nhưng không quên nếp nhà chăm chỉ luyện tập võ nghệ, cùng nhau lập ra môn phái võ Đông A. Thời tiền triều, trưởng môn phái võ Đông A nhà ta là Trần Tự An có xung đột tranh chấp quyền bá chủ võ lâm Nam Việt với Hoa Sơn phái, cũng phát tích tại vùng Kinh Bắc. Hai môn phái Đông A và Hoa Sơn đã tỉ thí nhiều lần ở các võ đài nhưng bất phân thắng bại. Môn phái Hoa Sơn vốn xuất thân núi Mẫu Đơn, có mối rường buộc với hương Cổ Pháp nên đã xuất sư phò triều Lý, có phần muốn lấn át họ ta. Nhưng vì cả hai môn phái đều thờ Thiền Tông Phật làm tổ nên không dám manh động. Trưởng môn Trần Tự An thấy cứ ở đây lâu bất lợi, vả lại sông núi nước Nam ta rộng rãi, đủ để tìm chỗ khác ẩn nhẫn luyện võ chờ thời nên chuyển gia về An Sinh, Quảng Yên. Sau lại sang hương Tức Mặc rồi mới về Thái Đường lập nghiệp. Đúng khi con tạo xoay vần, nhà Lý hết vận, họ ta nổi lên. Rồi dần chiếm được ngôi cao vậy. Công này phải kể đến đức Ngài Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ và phu nhân Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, như là người khai nghiệp đế vương cho dòng họ Trần nhà ta.

Dựng nghiệp đế vương từ thời thượng cổ đến nay phải có thiên mệnh. Nhưng còn phải có võ công hiển hách mới chinh phục được thiên hạ. Môn phái Đông A của ta lưu truyền tới nay đã hơn ngàn năm, kể từ khi thủy tổ Trần Tự Minh khai sáng. Nhờ có môn phái võ nghệ cao cường, họ ta lấy được thiên hạ, lại đánh cho kẻ cừu thù Mông Thát ba lần thất điên bát đảo. Ta nhân thời buổi thái bình thịnh trị, gặp lúc thanh nhàn thảnh thơi tập hợp những tinh truyền võ học của họ Đông A và trận đồ của các nhà kê cứu, soạn lại thành sách này dạy bảo con cháu làm gia truyền, không tiết lộ ra ngoài. Thế nhưng chúng bay học bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận, không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không làm được thế thì không chỉ thân mình phải chịu tai ương mà còn vạ lây đến con cháu. Đó chính là cái vạ tiết lộ thiên cơ vậy.

Quyển sách này gồm 49 thiên. Vương viết ròng rã từ mùa xuân năm Trùng Hưng thứ 7 (1291) đến mùa xuân năm Hưng Long thứ 8 (1300) mới xong. Sau đó, Vương sai người đón thợ khắc ván tới thái ấp Vạn Kiếp làm mộc bản in ra thành nhiều quyển trao cho mỗi vương hầu, tướng lĩnh trong họ một bản làm sách gia truyền võ thuật của môn phái Đông A.

—★—

Đêm 19 tháng Tám năm Hưng Long thứ 8 (1300).

Hưng Đạo Đại Vương ngồi khoan khoái thưởng trà trong thư phòng. Ngài cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm, thấy mọi việc đời hình như đã làm xong. Mấy hôm trước Trúc Lâm Đại Sĩ Trần Nhân Tông xuống núi ghé thăm Ngài, hai người có một buổi đàm đạo trong thư phòng của Vương về mọi lẽ đạo, lẽ đời. Trúc Lâm Đại Sĩ nói: “Đọc xong quyển sách của Quốc Công Thượng Phụ thấy Ngài thật là bậc thiên tướng. Mọi đường đi nước bước để hộ vệ cho giang san khỏi sự nhòm ngó của kẻ cừu thù, Ngài đã tính cả cho muôn đời. Ngài thật là bậc thánh nhân chứ không phải người phàm.” Vương vuốt râu cả cười: “Trúc Lâm Đại Sĩ quá lời. Ta tự biết mình còn nhiều điểm để người đời chê trách chứ không được toàn bích như Trúc Lâm Đại Sĩ nói. Chuyện ta sai Yết Kiêu bí mật đi theo thuyền rồi dìm chết Ô Mã Nhi ngoài bể, nhiều kẻ bây giờ đã chê ta là người bất tín đó thôi.”

“Ô Mã Nhi là kẻ ngông cuồng láo xược, đã dám xâm phạm đến cả Chiêu Lăng. Tội của y đáng phải đem tùng xẻo, bêu đầu trước lăng tiên vương kia. Quốc Công Thượng Phụ xử thế là hợp lẽ.”

“Ta cũng nghĩ như Trúc Lâm Đại Sĩ, muốn đem Ô Mã Nhi chém đầu tế trước Chiêu Lăng mới hả. Nhưng nghĩ đến việc muốn dứt nạn binh đao cho muôn dân, ta phải cố kìm. Nhưng lại nghĩ, Ô Mã Nhi là kẻ gian hùng, hai lần đem quân càn quét nước ta, đã từng làm vua ta nguy khốn mấy phen. Đường đi lối lại trong nước mình nó đều thuộc cả, nếu để nó sống sót trở về, vạn nhất Hốt Tất Liệt không nuốt được cái nhục bại vong của con trai, sai nó sang đánh báo thù thì quân ta cũng mệt với hắn. Trừ trước là hơn. Một mình ta mang tiếng xấu nhưng bớt đi được một mối họa cho quân dân.”

“Quả thật đúng như nhân gian nói, Ngài là Thanh Tiên Đồng Tử được Ngọc Hoàng sai xuống trần cứu khổ cứu nạn cho con dân Đại Việt. Nghĩ và làm như Ngài thì chỉ có thánh nhân. Trúc Lâm Đại Sĩ này vào núi Yên Tử ngồi thiền bao năm cũng chỉ mong được bằng Ngài. Ngài đúng là cư trần lạc đạo, kiên tính thành Phật ngay giữa nhân gian.”

—★—

Hưng Đạo Đại Vương lại mở cuốn sách của ông đồ Dương Đức Tụng ra đọc.

Càng đọc, càng suy ngẫm, Vương càng cảm thấy khâm phục kiến thức, tầm hiểu biết, khả năng suy đoán luận giải của ông đồ, người mà thời trẻ Vương đã kính cẩn coi là thày học.

Những thiên ghi chép về thế núi hình sông trên đất Đại Việt của ông đã giúp ích cho Vương rất nhiều khi lập trận thế trong Bát Quái Cửu Cung Đồ thiên la địa võng, kẻ địch vào, chỉ có đường bại, không có cửa thắng.

Vương hay đọc đi đọc lại những thiên mà ông đồ luận giải về những phép an dân trị nước, về lẽ thịnh suy được mất của vạn vật phù hợp với phép ngũ hành tương sinh tương khắc. Dẫu chỉ là một thày đồ, không đỗ đạt cao, chưa từng làm quan, nhưng những kiến giải sâu sắc của ông về những điều thuộc kinh bang tế thế đều khiến Vương khâm phục.

Thiên thứ chín, ông đồ Dương Đức Tụng viết:

Người xưa dạy: “Quốc dĩ dân vi bản. Dân dĩ thực vi tiên.” Bậc vua chúa hiền minh hiểu và thực thi điều này thì nối được ý trời và thuận lẽ chúng sinh, vương nghiệp sẽ dài lâu. Nước lấy dân làm gốc. Không có dân thì sao thành nước, có đất đai ngàn triệu ức dặm mà không có dân ở cũng chỉ là bãi đất hoang. Đấng làm vua, được mệnh trời trao cho là để chăn dân, không có dân, chăn ai? Vua thành kẻ ăn mày! Có dân rồi, vua dẫn dắt khai hoang trị thủy mở mang bờ cõi, Thần Nông, tổ Bách Việt ta xưa đã chả từng làm đó sao. Chúng dân cấy lúa nuôi trâu bò gia súc lập lên xóm làng, đắp lên thành trì cung điện cho vua ở trị vì ngôi cao. Dân là gốc của nước là lẽ như vậy. Có dân là có nước. Nên kẻ làm vua phải lấy điều này làm đầu. Chúng sinh vốn tối tăm, người vua sáng phải khai minh muôn dân. Nhưng muốn khai minh cho trăm họ, trước hết phải làm cho chúng dân no đủ. Con trâu đủ rơm no cỏ sẽ khoan khoái đi cày, bụng đói cồn cào nó sẽ phá ngang tạt ngửa, la liếm kiếm miếng vào mồm. Thế gian người ta cũng vậy mà vật cũng vậy, không có miếng ăn chết đói chết rét thử hỏi lúc đó cái gì quý nhất? Chẳng phải là tính mệnh ư? Cái gì để làm nên tính mệnh? Chẳng phải là thức ăn ư? Vậy chúng dân người ta phải lấy ăn làm đầu, no cơm ấm cật rồi mới nói được đến chuyện lễ nghĩa. Người làm vua lo cho dân cũng như người nông phu lo cho con trâu, không lo cho dân ấm no được thì phỏng có còn đáng làm vua không? Nhưng đạo trị nước không chỉ có lo cho dân có miếng ăn no đủ mà còn phải chăm cho muôn họ có chỗ vui chơi, chỗ thờ phụng. Lễ nhạc phải thông suốt. Trăm họ hoan ca. Ấy mới gọi là đời thái bình thịnh trị vậy.

Đọc đến đây, Vương vươn vai đứng dậy đi ra ngoài hiên phủ, định hít thở cho sảng khoái. Vương lấy miếng ngọc thiên thanh hình lá dâu để vào quyển sách, chỗ trang đọc dở. Nụ cười như thoáng qua trên môi Vương. Mỗi lần nhìn thấy miếng ngọc thiên thanh kia Vương lại nhớ đến bãi dâu mướt mát bên bờ sông Thiên Đức năm nào…

Vương vẫy người gia nô vẫn yên lặng đứng hầu bên cửa thư phòng, đưa cho Vương cây gậy trúc. Vẫn cây gậy của Tuệ Trung Thượng Sĩ trao cho Vương khi bắt đầu cuộc chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Vương bước xuống thềm, trăng tháng Tám về khuya sáng như ban ngày. Thái ấp Vạn Kiếp ngủ yên dưới ánh vàng rờ rỡ. Cây lá, nhà cửa… muôn vật như trong một bức họa. Vương vung cây gậy trúc, định múa bài quyền bí truyền của môn phái Đông A, Trúc Lâm Nghênh Nguyệt, cho sảng khoái tinh thần. Vương mới vung tay đưa cây gậy trúc lên ngang mắt, xuống chân thủ thế thì bỗng từ từ gục xuống. Gia nô vội lao tới đỡ Vương, đưa vào phòng, rồi hô gọi mọi người tới.

Các thày thuốc của thái ấp lập tức bắt mạch, kê đơn, sắc thuốc. Tin được báo ngay về triều. Sớm hôm sau, thuyền của Quan Gia Trần Anh Tông xuôi về Vạn Kiếp mang theo cả ngự y…

Vương vẫn nằm yên lặng, hơi thở đều đặn, hai tay úp vào bụng, không mở mắt, hình như Ngài đang tự thiền để khôi phục chân khí.

Gương mặt Vương vẫn hồng hào, trông như người đang nằm ngủ.

Khi các vương tử Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Hiện, Trần Quốc Uất nghe tin chạy về lay gọi, Vương mở mắt ra chỉ vào cái khán nhỏ đặt ở đầu giường rồi nói nhỏ: “Để cho cha yên tĩnh. Nếu có mệnh hệ gì, cứ làm theo di chúc trong kia của ta.”

Trần Quốc Tảng vật vã ngoài thư phòng không dám vào, sợ trái mệnh sẽ làm cha bệnh hơn. Năm xưa, Hưng Đạo Vương đã từng rút gươm kề cổ định chém Quốc Tảng, vì có ý xui cha đang cầm binh quyền cả nước trong tay thì cướp luôn lấy ngôi vua. Vương đã tuốt thanh gươm Hộ Quốc chỉ mặt Quốc Tảng: “Loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra. Ta phải chém đầu mi để diệt trừ nghịch tặc từ trong trứng nước.” Quốc Nghiễn vội nhảy ra ôm lấy Vương cầu xin: “Em con nhất thời hồ đồ không nghĩ sâu xa, xin phụ vương rộng lòng tha tội.” Vương hầm hầm không nghe, may có Yết Kiêu, Dã Tượng mấy người xúm vào can, đuổi Quốc Tảng đi cho khuất mắt, Vương mới nguôi giận. Vương không nhìn mặt Quốc Tảng từ thủa ấy. Vương dặn mọi người: “Sau này khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mới được cho Quốc Tảng vào viếng.”

Không gian thái ấp Vạn Kiếp lặng đi.

Mọi người đều đi lại khẽ khàng, mong Vương được yên tĩnh để phục sức. Không ai hiểu Vương bị làm sao. Các thày thuốc của thái ấp, ngự y của triều đình xuống bắt mạch khám bệnh thì thấy lục phủ ngũ tạng của Vương vẫn bình thường, không có gì tổn thương. Nhưng Vương nằm bất động, không ăn uống gì kể từ khi ngã. Có lúc thấy Vương mơ màng như đang ngủ mê. Có lúc lại thấy Ngài tỉnh táo lạ thường. Không ai hiểu. Chỉ có Vương hiểu, Ngài đã dần nhận chân được sự việc, rằng đã sắp đến thời khắc của mình, về theo hầu tiên tổ…

Vương thấy mình nhẹ bỗng phiêu du…

Bỗng chốc Vương lại thấy hình ảnh mình hồi trẻ, ngồi trên tuấn mã phi như bay dọc bờ sông Cái thời Nguyên Phong, xông đến chặn quân của Ngột Lương Hợp Đài. Tiếng đao của viên mãnh tướng Thát chém vào thần giáo Pháp Lôi của Vương chát chúa… Rồi Vương lại thấy mình đang nắm tay nàng Quế Lan chạy băng băng trong bãi dâu xanh mướt mát trên bờ sông Thiên Đức… Rồi lại thấy mình trở lại như năm lên mười, hôm đầu tiên xuống luyện võ dưới Giảng Võ Đường, Vương về nhà mình mẩy đau dừ, Mẫu của Vương phải ngồi cả buổi tối bên giường xoa thuốc khắp người Vương. Bàn tay của Mẫu mềm mại dịu dàng xoa cho Vương ngủ thiếp đi… Vương lại cảm thấy bàn tay của Thiên Thành công chúa mười lăm tuổi, cũng dịu dàng nhưng nóng rực, xoa khắp người Vương đêm trăng Rằm tháng Tư năm nào, trong cung Thưởng Xuân. Thốt nhiên, trong mơ màng, Vương thấy hiện ra trước mắt mình cả ba người đàn bà, gương mặt họ hiển hiện trên cao vòi vọi, ánh mắt họ dường như đang đợi chờ Vương điều gì. Họ cầm tay nhau bay lượn khắp không trung, nhưng họ không xuống chỗ Vương. Họ mỉm cười với Vương. Họ quấn vào nhau, hòa làm một. Chỉ còn một gương mặt phụ nữ đăm đắm nhìn Vương chờ đợi. Đôi mắt xanh biếc như ánh trăng, nụ cười rạng rỡ như hoa sen, vẻ hiền từ phúc hậu của nữ nhân làm Vương chợt cất tiếng gọi thầm thì: “Mẫu… Mẫu ơi… đợi con…”

Hai viên gia tướng thân cận bây giờ đã là những mệnh quan của triều đình, Yết Kiêu, Dã Tượng nghe tin phóng ngựa như bay về thăm Vương. Khi cả hai lao vào phủ phục bên giường thì Vương mở mắt ra nhìn họ trìu mến. Vương yêu quý hai người này không khác gì con đẻ. Có những điều Vương nói với họ trước cả khi nói với con. Và hai gia tướng thân tín cũng chia sẻ với Vương mọi điều, với họ, Vương là chủ, là thầy, là cha… là tất cả. Hai người kính yêu Vương. Vương tin cậy hai người, Vương từng nói với hai người: “Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ sáu trụ cánh. Nếu không có sáu trụ cánh ấy thì cũng là chim thường mà thôi. Ta làm tướng có lập được công tích nào thì cũng do cả nơi các ngươi trợ giúp vậy.” Yết Kiêu, Dã Tượng theo hầu hộ vệ Vương trong những ngày gian khó nhất. Những trận đánh ác liệt nhất thì họ làm tướng tiên phong xông thẳng vào quân thù. Họ còn hiểu cả chút vướng bận lời cha dặn Vương lúc lâm chung. Hai người đã từng nói với Vương: “Bây giờ Ngài đã phú quý tột đỉnh, quyền nghiêng nước. Giá thử có muốn lấy ngôi chí tôn cũng dễ như trở bàn tay. Thế nhưng làm theo kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để tiếng xấu ngàn năm. Chúng con thà làm gia nô suốt đời bên Ngài chứ quyết không làm quan mà bất trung.”

Vương nhìn hai viên gia tướng của mình một lát rồi lại nhắm mắt, thở đều như ngủ. Vương lại thấy mình lãng đãng bay về bến đò Rừng, ngồi trong quán nước dưới gốc cây quếch nói chuyện với bà hàng nước về mực thủy triều sông Đằng… Rồi Vương lại thấy mình như đang đứng tại bến đò sông Tranh, nơi dân làng xin Vương cho xử tội tên giặc Phạm Nhan, nguyên đẻ nơi đây mà dám theo giặc làm phản, giết hại bao người. Bị trói chặt mà y vẫn không chừa thói hung hăng, y lớn tiếng dọa dân là y có phép thuật, chém đầu này nó mọc ra đầu khác. Vương mỉm cười, rút thanh gươm Hộ Quốc, đưa cho trai đinh trong làng bảo: “Các ngươi dùng thanh gươm báu của ta, vằm nhỏ nó ra, hất xác xuống sông cho cá ăn để xem nó mọc được đầu nào không?” Chỉ nháy mắt, tên Phạm Nhan đã bị băm nhừ như cám, gạt cả đống bầy nhầy xuống bến sông Tranh, cá chưa kịp rỉa thì từng đàn đỉa trâu đã bơi đến đen đặc bến sông, no nê tiệc máu… Dân làng bến sông Tranh ghê sợ nhổ nước bọt xuống sông bỏ đi. Vương cũng rùng mình…

Bỗng Ngài mở mắt ra. Quan Gia Trần Anh Tông từ trên kinh thành xuống đến nơi đang lay gọi. Bên cạnh là Trương Hán Siêu, khuôn mặt cả hai đều đẫm nước mắt, lo âu: “Thượng Phụ, Thượng Phụ… xin Ngài tỉnh lại, xin Ngài…” Bỗng nhiên Vương cất giọng dõng dạc: “Quan Gia xuống thần không đón được thật là thất lễ.”

“Xin Thượng Phụ tĩnh dưỡng bảo toàn sức khỏe để làm chỗ dựa cho nước nhà. Người đang trọng bệnh, mọi lễ nghi bỏ hết, chỉ có tình ông cháu họ hàng. Xin Ngài chỉ dạy thêm cho một đôi điều về kế giữ nước nếu chẳng may có mệnh hệ gì…”

“Nếu kẻ địch mà sang đánh ta thì mọi kế chống giặc ta đã viết trong sách Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư, Quan Gia chỉ cần dùng người giỏi cầm quân là được. Nhưng để giữ được lâu dài thì phải chăm lo đến muôn dân trăm họ, khiến cho nhà nhà vui tươi, người người no đủ. Dân là gốc. Khoan thư sức dân chính là để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.” Vương ngừng một lát, rướn người lên cầm hai tay Trần Anh Tông, giọng thốt nhiên thầm xuống: “Khoan… thư… sức… dân.” Rồi Ngài thở hắt ra, nhắm mắt xuôi tay.

Lúc ấy là giờ Dậu, ngày 20 tháng Tám năm Hưng Long thứ 8 (1300).

Sau ba ngày, đến 23 tháng Tám năm ấy, đám tang Vương được cử hành.

Theo lời dặn của Vương, làm hỏa táng ngay tại vườn An Lạc, bên bờ Lục Đầu Giang. Dân cả vùng đem toàn gỗ đàn hương thơm ngát đến làm lễ. Đống gỗ thơm hỏa táng chất cao như núi. Lửa rực lên suốt bảy ngày bảy đêm. Mùi thơm bảng lảng quấn quyện với hương trầm thành một mùi thơm kỳ lạ lan xa khắp nước. Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn từ trên núi Yên Tử xuống làm lễ tiễn Ngài về trời, bấm độn nói “Đúng bảy ngày bảy đêm Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ sai Bạch Long xuống đón Ngài.”

Đến đầu giờ Tý đêm 30 tháng Tám. Thốt nhiên trong đêm đen, có một tiếng nổ vang trời, một tia sét sáng lòa đánh xuống thẳng giữa Lục Đầu Giang. Một cơn mưa như trút nước sầm sập đổ xuống vùng Vạn Kiếp. Nước từ Lục Đầu Giang tự dưng vụt dâng cao tràn bờ. Gió rít lên như có tiếng của thiên binh vạn mã chạy. Trong ánh chớp liên hồi sáng rực trời, người ta nhìn thấy một con rồng trắng lóa cuộn mình từ vườn An Lạc bay vút lên trời cao…

Khoảng hai canh giờ sau, mưa tạnh gió ngừng, nước Lục Đầu Giang lại rút xuống mép sông yên ả. Mọi người đốt đuốc ra soi thì thấy tro xác cùng cả vườn An Lạc đã biến mất. Không còn mảy may dấu tích gì. Chỉ có mùi thơm ngào ngạt vẫn bao trùm cả đất trời sông nước. Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người đã hiển thánh về trời.