Chương 7 ĐẠI CHIẾN BẠCH ĐẰNG GIANG
Hay Truyền thuyết về dòng sông đỏ máu tự ngàn xưa
Ngày mùng 6 tháng Sáu năm Thiệu Bảo thứ 7 (1285) hai vua trở lại kinh thành Thăng Long.
Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đầu quan võ, Thượng Tướng Thái Sư Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải dẫn đầu quan văn vào lạy mừng. Thái Sư Trần Quang Khải cảm khái ứng khẩu đọc bài thơ mừng quân dân thắng trận:
Bến Chương Dương cướp giáo
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ muôn thu.
Quan Gia Trần Nhân Tông tươi cười rạng rỡ nói:
“Hôm nay được chứng kiến tài xuất khẩu thành thơ của Chiêu Minh Vương, quả thật là đúng như lời đồn. Ta chỉ tiếc là dịp đánh trận vừa rồi, chưa được xem Quốc Công múa cây thần giáo Pháp Lôi như năm xưa Ngài đánh Ngột Lương Hợp Đài. Nếu được chứng kiến sức mạnh phi phàm của thần giáo trong tay Thượng Phụ nữa thì thật là thỏa lòng.”
Hưng Đạo Vương cười lớn:
“Bẩm Quan Gia, cây thần giáo Pháp Lôi là do chính phụ thân, tiên vương và Đức ông Trần Thủ Độ sai người kén sắt, rèn cho thần. Lại được Quốc Sư Phù Vân trên núi Yên Tử xuống ban phép. Ngọn thần giáo ấy là linh khí võ nghệ nhà Đông A ta. Hồi Nguyên Phong thần đã đánh nhiều trận, giết nhiều giặc Thát bằng cây giáo đó. Năm nay ra trận, thần tuy tuổi đã cao nhưng còn đủ sức múa thần giáo Pháp Lôi xông vào trận tiền. Nhưng tinh thần tướng sĩ của ta hăng hái lập công, giành đánh hết cả, thành ra thần chưa có dịp nào xử cây thần giáo Pháp Lôi hầu bệ hạ thưởng lãm ạ.”
Thượng Tướng Thái Sư Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải cũng cười vang:
“Quốc Công mới chỉ vung gậy trúc thì lũ giặc Nguyên Mông đã chạy như vịt rồi. Nếu chúng còn dám sang xâm phạm nước ta lần nữa thì Quốc Công sẽ ra uy để cho chúng nó biết thế nào là linh khí tổ tông, là hào khí nhà Đông A ta! Để cho chúng không bao giờ dám xâm phạm đất Đại Việt ta nữa.”
Nhà vua trẻ cảm kích:
“Trẫm được tổ tông phù hộ, trên có Thái Thượng Hoàng anh minh chỉ bảo. Lại được sách Bát Quái Cửu Cung Đồ của Quốc Công chỉ dẫn từng đường nước tiến thoái, định liệu sẵn mọi việc như thần. Dưới có các bậc võ tướng văn quan xuất chúng phò trợ, quân dân cả nước đồng lòng nên đã đánh đuổi được quân thù. Chiến công này là của cả triều đình Đông A. Là của toàn dân Đại Việt. Các khanh nên nhớ dân là nước, việc binh đao mới tạm lui, hãy về chăm lo cho đời sống muôn dân, sao cho mọi mặt đời sống phục hồi, bởi kẻ thù mạnh vẫn còn đang rập rình trên ải Bắc. Hãy làm sao cho nhân gian được thấm ân nghĩa của triều đình, khắp nơi vang tiếng hoan ca, không còn khóc than sầu thảm. Làm được thế thì khi xã tắc có chiến chinh, cả nước lại đồng lòng, toàn dân ra trận. Thì không một kẻ địch cường bạo nào có thể khuất phục được Đại Việt ta.”
Xong buổi chầu định công ban thưởng tại điện Trùng Quang, Hưng Đạo Vương vừa về tới phủ trên kinh thành thì Hộ Bộ Thượng Thư Trần Hưng Hồng đến vấn an. Chuyện Trần Hưng Hồng là con trai của Vương chỉ trong nội tộc hoàng gia thân cận được biết, là vì mẹ Hưng Hồng chưa kịp làm lễ cáo tổ tiên thì đã mất. Lệ dòng họ Trần, đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện hiển nhiên, chỉ cần chồng ngỏ ý nạp thêm thiếp là chính thất phu nhân sẽ đích thân làm mọi thủ tục đón về. Trong đó quan trọng nhất là cái lễ kính cáo tổ tiên, rằng hôm nay họ Trần có thêm người. Thế nhưng nàng Quế Lan chưa làm việc đó. Và hình như nàng cũng không có ý định làm. Vương tôn trọng quyết định của nàng, nhưng không vì thế mà Vương giảm bớt tình cảm dành cho nàng. Chẳng may nàng yểu mệnh, bao nhiêu tình cảm dành cho nàng trước kia, Vương lại để vào đứa con trai của mình nơi thôn dã. Vương cùng với ông đồ Dương Đức Tụng đã trực tiếp rèn cặp cho Trần Hưng Hồng mọi mặt. Và Trần Hưng Hồng cũng không phụ công Vương, phụ công ông ngoại, Hưng Hồng đã trở thành mệnh quan trụ cột của triều đình…
Trải gần năm trời lo việc chiến chinh, hai cha con không có dịp gặp mặt. Vì Trần Hưng Hồng được Vương giao cho lo việc quân lương, vũ khí, nơi trú ẩn của binh sĩ những lúc tạm lui trên khắp chiến trường cả nước. Nhờ chuẩn bị trước nên những lúc quân ta thất thế phải rút lui mà binh sĩ có nơi ở, có lương thực vũ khí bổ sung ngay, những người bị thương được cứu chữa kịp thời. Chính vì vậy mà khi cần tập trung quân để tấn công, thì lập tức lại có nhiều quân sĩ khỏe mạnh trở về chiến đấu. Công này của Trần Hưng Hồng rất lớn. Thái Thượng Hoàng và Quan Gia đã có lời đặc biệt ngợi khen và ban thưởng xứng đáng.
Vương âu yếm ngắm đứa con trai của mình với nàng Quế Lan, nay đã là Thượng Thư đứng đầu một bộ quan trọng của triều đình. Nhìn Hưng Hồng, Vương lại nhớ đến người con gái bên bờ sông Thiên Đức năm xưa, dường như hình bóng nàng đã được lưu lại trên khuôn mặt thanh tú khôi ngô của chàng trai trẻ này. Nhưng những đường nét đặc sắc của con nhà võ Đông A thì cũng hiển hiện trên đó, không lẫn đi đâu được. Một đứa con trai là sự kết tinh của mối duyên phận trời se, dù ngắn ngủi. Vương nói với con trai mình:
“Khá khen con ta đã làm đúng những gì cha chỉ bảo. Quân ta bảo toàn được lực lượng, khỏe mạnh, có đủ lương ăn, có vũ khí đánh giặc, công của con trong việc này rất lớn. Ta cũng định dịp nào thuận tiện, sẽ xin Thái Thượng Hoàng và Quan Gia phong tước cho con, để cho con chính thức được mang tước vị của nhà ta.”
“Dạ xin cha không phải bận tâm vào việc đó đâu ạ. Con được là con cha, mang tên họ của cha là con mãn nguyện rồi. Con nguyện theo lời chỉ dặn của cha để giúp nước, đỡ đần cho cha, tránh bớt cho nhân gian nỗi cực khổ lầm than. Con không màng đến danh vị, con chỉ cần được mang chút tài trí hèn mọn này ra cùng cha giúp đời là đủ rồi ạ.”
“Kha kha kha…” Vương cười vang sảng khoái “quả đúng là con trai ta. Có điều con còn mang dòng máu của ông ngoại, của mẹ con vậy! Thôi tùy ý con, ta vốn cũng không coi trọng những cái hư danh, nghĩ kẻ trượng phu sống ở đời phải làm nên những công tích, giúp ích được cho muôn dân mới xứng. Nhưng xin con hãy nhớ rằng, rất có thể Hốt Tất Liệt sẽ xua quân đánh ta một lần nữa. Cả một vương triều hùng mạnh, đánh đâu thắng đó, mà sang ta bị thua đau đớn nhục nhã… Chúng khó lòng nuốt trôi được thất bại này lắm, cho nên nhiệm vụ của con sẽ còn rất nặng nề.”
“Vâng thưa cha, con hiểu. Mọi việc cha tin tưởng, triều đình giao phó, con xin hết sức mình hoàn thành để cha bớt đi một nỗi lo. Con mong cha giữ gìn sức khỏe để cho chúng con và dân nước Đại Việt được nhờ ạ.”
Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp trên đoàn thuyền chiến của mình theo dòng sông Thiên Đức.
Đến bến Hồng Hạc, Vương ra hiệu cho ghé thuyền vào, như năm xưa, Vương lại một mình lên bãi dâu. Ngài đi thẳng đến mộ phần của Quế Lan. Ngôi mộ nàng đã được Vương sai người an táng ngay gần bờ sông để mỗi dịp Ngài đi qua nếu lúc nào việc quân vội vã, không kịp rẽ vào cũng có thể nhìn thấy mà vọng tưởng. Đứng trước ngôi mộ người con gái chết trẻ nhưng đã kịp sinh cho mình một đứa con trai khôi ngô tuấn tú giỏi giang, Vương bùi ngùi. Ngài thầm khấn: “Quế Lan, duyên phận kiếp này chúng ta chỉ được có thế thôi. Nhưng xin nàng hãy ngậm cười nơi chín suối. Đứa con trai kết tinh máu thịt của hai ta nay đã trưởng thành. Nó đã lập công lớn giúp dân, giúp nước. Xin nàng hãy phù hộ độ trì cho con chúng ta trên từng bước đường của nó. Nàng hãy đợi ta, khi nào ta trả hết nợ nhân gian sẽ về miền cực lạc cùng nàng vui kiếp thần tiên.”
Thế nhưng nợ nhân gian của Vương còn nhiều.
Khi Vương sinh ra, ông thày tướng nổi tiếng nhất nước Đại Việt nhìn thấy đã nói: “Người này sau có thể cứu nước giúp đời.”
Thân sinh ra Vương, Đức ông An Sinh Vương Trần Liễu đã không tiếc tiền mời thày giỏi, mua sách hay về dạy dỗ cho Vương. Ở trên kinh thành với Mẫu Thụy Bà từ bé, Vương càng có điều kiện để lĩnh hội những tinh hoa của học thuật và võ thuật. Quốc Tử Giám và Giảng Võ Đường là hai nơi lui tới hàng ngày của Vương thời trai trẻ. Công chúa Thụy Bà, Mẫu của Vương là một người đàn bà kỳ lạ trong nhà Đông A. Bà không lấy chồng, tình nguyện ở vậy vun vén, lo toan cho công việc của anh em dòng họ. Bà là chị, là em nhưng thật sự trong hoàng gia nhà Trần buổi đầu, bà như là một người mẹ, một quản gia đắc lực giúp Trần Thái Tông cai quản yên ổn nội cung. Sau này mọi việc đã nền nếp, bà yên tâm ở phủ riêng của mình bên cạnh cung vua, toàn tâm toàn ý nuôi Quốc Tuấn. Đến khi Trần Quốc Tuấn trưởng thành, lập công lớn trong lần đánh quân Mông Thát năm Đinh Tỵ thì dường như bà cảm thấy mình đã xong nợ trần gian. Mấy năm sau, bà từ giã cõi đời nhẹ nhàng, thanh thản và siêu thoát. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lại không cảm thấy thanh thản, Vương luôn nhớ về Mẫu với một lòng kính yêu vô bờ và luôn xen vào đó có một nỗi gì gần như xót xa. Vương biết Mẫu cả đời hết lo cho anh em, xong lại lo cho cháu. Ở với Mẫu từ nhỏ, Vương cảm nhận được tình thương vô bờ bến mà Mẫu dành cho mình. Vương thầm tự hứa mình sẽ phải thuyết phục và đưa Mẫu về ở Vạn Kiếp, để ngày đêm được chăm sóc thì mới an lòng. Vương chưa kịp làm điều đó thì Mẫu đã ra đi. Năm ấy, khi Vương nhận được tin Mẫu ốm, từ Vạn Kiếp lên thì Mẫu đã hóa người trời. Mẫu nằm nhắm mắt, khuôn mặt vẫn bình thản như đang ngủ, dưới gối là một bức thư gửi lại cho Vương. Vương đã thuộc từng lời trong bức thư đó: “Quốc Tuấn con. Mẫu vô cùng mãn nguyện khi xuống suối vàng theo hầu tổ tông. Mọi việc dương thế Mẫu đã hoàn thành. Con đã trở thành trụ cột của nước nhà, Mẫu tự hào vì điều đó. Nhưng con ơi, trước khi nhắm mắt xuôi tay, Mẫu chỉ muốn nói với con một điều cuối cùng: Anh trai ta - cha đẻ con, đã di chúc cho con điều gì thì dù con không nói ra, Mẫu cũng biết. Ta biết anh ta có mối hận lòng và đã nung nấu muốn trả mối hận đó. Nhưng con là một trang tuấn kiệt, sinh ra để cứu nước giúp đời chứ không phải chỉ để lo việc nhà. Nên Mẫu tin rằng con sẽ có những suy xét quảng đại hơn cha mình. Đấy là phúc của cả nhà, cả họ Đông A.
Cho nên Mẫu chỉ muốn nói điều cuối cùng với con là:
“Con làm gì cũng phải nghĩ đến muôn dân nước Đại Việt và sự trường tồn của cả dòng họ Đông A nhà ta.”
Lan man theo dòng suy nghĩ chả mấy chốc đoàn thuyền của Vương đã qua bến Bình Than, vào cửa Mỹ Lộc rồi cập bến Lục Đầu Giang.
Vương nhanh chóng đi thẳng về phủ mà không cần đón rước. Cuộc chiến vừa qua quá khốc liệt tang thương. Những vết thương còn đang nhức nhối khắp nơi. Quân dân cần có thời gian nghỉ ngơi hồi phục sức lực. Vương không muốn mọi người phải nhọc công đưa đón mình làm gì. Buổi sáng nay, Vương không sang bên Bãi Soi cũng vì thế. Vương chỉ cho người mang thư khen và quà của mình cho dân Bãi Soi, dân Trầm Chỉ và dân huyện Siêu Loại đã anh dũng đánh giặc Nguyên Mông năm qua.
Phu nhân Thiên Thành, bốn vương tử cùng các gia tướng thân cận đã tề tựu tại mấy gian nhà tạm do Trương Hán Siêu tổng quản, sai gia nhân dựng lên chờ đón Vương. Công việc xây cất lại vương phủ, kho tàng, nơi ăn chốn ở của quân sĩ đang bắt đầu. Vương không rẽ vào chỗ mọi người đợi ngay mà đi tới nền cao của vương phủ cũ đứng nhìn ra bốn phía thái ấp Vạn Kiếp. Tên tướng Nguyên hung bạo Ô Mã Nhi, khi tạm chiếm được đất này đã cay cú đốt phá sạch thái ấp. Kể cả cây muỗm cổ thụ bên cạnh thư phòng Vương, có giò hoa của nàng Quế Lan hắn cũng sai hạ xuống lấy gỗ làm thành trên núi. Giò phong lan ấy chắc đã bị quân hung tàn khát máu giày xéo tan tành rồi. Bất giác Vương cảm thấy toàn thân mình đau đớn, như đang bị những móng sắt của vó ngựa Nguyên Mông xéo lên da thịt mình. Vương nhìn nền nhà, gốc cây trơ trụi, trong lòng tràn sôi một nỗi căm hận tên giặc khốn kiếp. Vương thầm nghiến răng tự thề với mình, nếu mà có lần sau gặp mặt đối chiến, Vương sẽ không cho Ô Mã Nhi còn đường thoát thân.
Vương quay lại gian nhà tạm, trìu mến nhìn khắp lượt mọi người rồi cất giọng ấm áp: “Giặc lui rồi, bây giờ mọi người cùng nhau nhanh chóng xây dựng nhà cửa ổn định cuộc sống. Các tướng về quân của mình thăm hỏi vỗ về binh sĩ. Ai chưa lành vết thương thì chạy chữa cho khỏi. Những binh sĩ đã hy sinh thì chăm nom hỏi han gia quyến, chu cấp ruộng vườn cho bố mẹ vợ con họ đủ để sinh sống. Lại phải chú ý đắp điếm mồ mả tử sĩ cho vẹn toàn. Đến ngày Rằm này, lập đàn cầu siêu cho linh hồn quân sĩ ta hy sinh vì nước, mời Tuệ Trung Thượng Sĩ xuống núi làm chủ tế. Lại cũng nên gom nhặt xương cốt quân Nguyên chết các nơi về chôn chung vào một chỗ, cho xây cái miếu nhỏ lên trên làm chỗ thắp cho họ nén hương. Tử là tận, chết là hết, mọi oán thù cởi bỏ, thắp nén hương, đọc cho họ bài kinh để siêu thoát đó là việc nên làm vậy.”
Bốn vương tử cùng các tướng vòng tay kính cẩn: “Xin vâng lệnh Vương.”
Mọi người ai đi việc nấy rồi, chỉ còn có phu nhân Thiên Thành ngồi lại cùng Vương. Phu nhân pha một ấm trà ướp hương nhài thơm ngát rồi tự tay rót, mời Vương: “Phu quân thưởng trà đi, Ngài vất vả chiến chinh chắc chẳng có dịp nào mà uống trà như ở nhà. Mới chỉ có mấy tháng mà tóc râu Ngài bạc nhanh quá, trắng xóa hết rồi.” Vương nâng chén trà phu nhân vừa trao uống một ngụm, hương nhài thơm mát làm Vương thấy sảng khoái. Ngắm nhìn người vợ của mình, vốn là công chúa cành vàng lá ngọc trong cung, nay cũng đã ngoài năm mươi mà vẫn phải lao tâm khổ tứ đủ bề chăm lo hậu phương cho Vương yên tâm cầm quân đánh dẹp.
Vương mỉm cười âu yếm: “Phu nhân cũng vất vả quá. Một mình phu nhân cáng đáng bao việc quân lương. Lại phải lo bao bọc cho người già trẻ em tránh giặc. Lòng còn nỗi khổ lo chồng lo con ngoài chiến trường canh cánh tấc dạ. Thật công phu nhân lớn lắm. Quả là cao xanh có mắt đem phu nhân đến cho ta thì ta mới được thế này.”
“Phu quân, Ngài khen thiếp hơi quá lời rồi. Ngài là trụ cột của nước nhà, ngày xuất giá theo ngài về Vạn Kiếp, phụ vương đã dặn thiếp phải lo mọi việc nhà thật chu toàn ấm êm để Ngài chuyên tâm lo việc quốc gia đại sự. Đó cũng chỉ là những việc trong bổn phận của thiếp mà thôi.”
Vương và phu nhân cùng ngồi thưởng trà trên hương ấp Vạn Kiếp đang rộn ràng xây cất lại cơ đồ. Đâu đó vang lên những tiếng cười đùa của trai gái và những câu hò hát đối nhau tình tứ… Vương bất giác buông một tiếng thở dài. Không để cho Thiên Thành kịp hỏi, Vương nói: “Kẻ cừu thù vẫn đang rình rập trên ải Bắc, ta thở dài vì nỗi xót thương con dân Đại Việt không biết bao giờ thì mới vĩnh viễn hết nạn chiến chinh, đầu rơi máu chảy đây.”
Phu nhân Thiên Thành nhìn Vương không nói gì. Yên lặng. Mà phu nhân biết nói gì với chồng mình đây. Chí lớn của bậc nam nhi đại trượng phu bao trùm trời đất, là một người vợ, phu nhân chỉ biết tận tâm làm theo những gì chồng mình sắp đặt và chăm sóc Vương sao cho chu đáo nhất. Phu nhân mở chiếc rương, lấy ra trong đó cuốn sách và nhẹ nhàng đặt trước mặt Vương. Cuốn sách mà Vương yêu quý nhất, khi mà chiến chinh nổ ra, trước khi ra trận, Vương đã tự tay trao cuốn sách đó cho phu nhân Thiên Thành, dặn khi lánh giặc hãy mang theo bên mình. Hưng Đạo Vương nhìn cuốn sách của ông đồ Kinh Bắc Dương Đức Tụng, cảm kích nói với Thiên Thành: “Người hiểu ta nhất trên đời này chỉ có thể là phu nhân vậy. Cám ơn phu nhân đã giữ gìn cẩn thận cho ta cuốn sách quý.” Nói rồi Vương cầm quyển sách lên mở ra. Miếng ngọc thiên thanh hình lá dâu xanh mướt mát với chữ Trần khảm ở giữa vẫn trong quyển sách. Bỗng nhiên Vương như lại thấy một mùi thơm thanh khiết vấn vít khắp trong gian phòng. Vương tưởng như mùi hương của những nhành hoa Quế Lan Hương trên cây muỗm già lại đang tỏa ra nồng nàn mê hoặc như xưa. Vương hít một hơi dài rồi cúi xuống quyển sách. Tại thiên thứ tư, ông đồ Dương Đức Tụng viết:
Phàm kẻ trí giả đã sống trong trời đất là biết lo lắng cho thân quyến mình. Nhưng làm được điều đó, coi như mới hoàn thành nghĩa vụ nhỏ nhất của con người. Nhưng kẻ trí giả được linh khí đất trời hội tụ sinh ra mà chỉ lăm lăm lo cho miếng cơm manh áo của mình, của gia đình mình, chẳng phí công tạo hóa lắm ru? Kẻ trí giả là phải biết lo cho sự an vui no ấm của trăm họ, lo cho sự tồn vong của quốc gia xã tắc, thế mới được coi là làm nên nghĩa lớn vậy. Thế nhưng kẻ nào mà đạt đến độ tinh thông lý số, hiểu cơ trời, nghĩa cao đức cả, bao trùm tất cả chúng sinh, không kể Tần, Hán, Ngô, Việt đều xót thương lo lắng. Ấy mới là kẻ đạt được cái nghĩa lớn nhất của đất trời, bất hủ muôn năm. Thái tử Tất Đạt Đa nước Tây Trúc chính là một người như vậy.
Hưng Đạo Vương chợt ngẩng lên.
Phu nhân Thiên Thành đã lui gót tự bao giờ. Phu nhân biết tính Vương, một khi đã đắm chìm vào trang sách hay, Vương không còn để ý đến bất cứ sự gì xung quanh. Vương tự tay rót cho mình một chén trà nóng thơm ngát. Nhấp một ngụm, khoan khoái. Đầu óc Vương chợt như sáng rực lên, cụ đồ già nhà quê Dương Đức Tụng thật xứng là bậc trí giả. Ta mới chỉ lo lắng cho an nguy của dân Đại Việt, còn chúng sinh khắp cõi nhân gian, họ không phải là người sao?
—★—Thế nhưng rồi Vương cũng không có nhiều thời gian để mà thưởng trà đọc sách.
Bên Nguyên, khi biết hoàng tử thứ chín của mình phải chui ống đồng chạy về nước, Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận, cho gọi bộ sậu tướng lĩnh đội quân Nam chinh thất bại về Yên Kinh tra hỏi. May cho Thoát Hoan, phó tướng A Lý Hải Nha là một viên dũng tướng mưu lược trên chiến trường và rất mực trung thành, đã lý giải cho Hoàng đế Hốt Tất Liệt những nguyên nhân thất bại một cách hợp lý. Và tuyệt không đổ lỗi cho Thoát Hoan. Viên phó tướng trình bày: “Địa hình An Nam nhiều đồi núi, rừng rậm, sông hồ chằng chịt, rất bất lợi cho việc hành binh và tiến công của quân kỵ binh ta. Đã thế thời tiết nóng bức khắc nghiệt, quân ta là người phương Bắc không hợp thủy thổ nên đau ốm rất nhiều. Lương thảo lại vận chuyển không tới. Bọn quân Trần quen thủy thổ và giỏi thủy chiến, chúng luôn bày trận tập kích quân ta mọi nơi mọi lúc. An Nam Hưng Đạo Vương là một tên giảo quyệt nhưng quả hắn có kỳ tài, dùng binh như thần, biến hóa quả thực khôn lường, hư hư thực thực. Việc thất bại của lần chinh Nam này quả thật là không phải lỗi của hoàng tử, mà chỉ do ta đã chuẩn bị không kỹ, mong bệ hạ soi xét và cho hoàng tử cùng các thần lập công chuộc tội.”
A Lý Hải Nha đã lờ đi không nói gì về vụ công chúa An Tư. Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt cũng biết là con trai mình lấy một người con gái An Nam làm vợ, song Hốt Tất Liệt nghĩ đó cũng chỉ là chuyện thê thiếp bình thường của đàn ông. A Lý Hải Nha không nói rõ, Hốt Tất Liệt đâu biết được hết sự tình. Thật sự thì với cách nhìn thế trận của một tay cầm quân lão luyện, A Lý Hải Nha biết rằng sau trận Thăng Long thất thủ, quan quân nhà Trần đã bị rơi vào tình thế nguy cấp. Nếu lúc đó Thoát Hoan quyết đoán dốc toàn lực đánh thẳng về Thiên Trường ngay, thì rất có thể cuộc chiến đã kết thúc. Thế nhưng Hưng Đạo Vương đã đi một nước cờ rất cũ - mỹ nhân kế. Cái nước đi của viên tướng cầm quân bên Trần này tưởng như vô cùng lộ liễu, A Lý Hải Nha cười khẩy, Thoát Hoan cũng cười khẩy thừa hiểu đấy là cái gì, mà rồi vẫn mắc, không gỡ ra được. Thật là đau đớn. Thì ngàn năm nay có anh hùng nào qua được ải mỹ nhân? Còn hắn, A Lý Hải Nha, viên tướng lừng danh trăm trận trăm thắng, cũng thầm tự trách mình đã không quyết đoán nổi ngay lúc đó. Nghĩ lại thấy cay đắng và tiếc nuối, nhưng mọi sự đã rồi. Khi thấy Thoát Hoan không dứt nổi thân ra khỏi nàng công chúa Đại Việt đa tình thì A Lý Hải Nha cũng đã quyết đoán, sai Ô Mã Nhi, Toa Đô tấn công vây bắt hai vua Trần ngay, mặc cho Thoát Hoan ôm gái ở trại. Nhưng vẫn không kịp. Trong chiến trận thắng thua hơn nhau chỉ ở thời khắc hành động. Chỉ chậm một khắc là tính mạng đã không còn, mà đây lại là hàng tuần rồi. Nhưng có điều A Lý Hải Nha không hiểu là quân Trần vừa bị đánh tan tác như vậy, vua tôi chỉ còn vài người dắt nhau chạy, sao chỉ trong thời gian ngắn mà lại tập trung được đông quân, đội ngũ chỉnh tề ứng chiến ngay lập tức? Quân ấy ở đâu ra? Viên tướng già đời này hoàn toàn không hiểu. A Lý Hải Nha có biết đâu rằng Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã dạy tướng sĩ của mình: “Khéo thua thì không chết.” Thế trận bất lợi, có thể thua trận, quân ta lập tức rút lui, tạm phân tán chia nhỏ vào thôn dã, rừng núi, nơi có các căn cứ lập sẵn, tránh sức giặc đang hăng, nghỉ ngơi dưỡng sức bảo toàn lực lượng. Rồi theo hiệu lệnh của chủ tướng, lại kéo nhau về tập trung dưới cờ đánh giặc.
Hốt Tất Liệt hỏi A Lý Hải Nha:
“Vậy theo ý khanh ta làm sao để diệt được bọn này?” “Dạ, theo ý thần ta nên đóng thêm thật nhiều thuyền lớn, tập trung hết thủy quân giao cho Nguyên soái Ô Mã Nhi cầm đầu, sang quyết đánh một ván dốc túi với chúng. Lại chuẩn bị tải lương theo đường bể đủ cho năm mươi vạn quân ăn lâu dài. Quân kỵ của ta sẽ vẫn đánh xuống theo hai hướng như trận vừa rồi. Nhưng lần này chúng ta sẽ thay đổi mục tiêu, không cần phải công thành bắt vua vội, mà hãy đánh cho gục quân chủ lực của chúng trước. Không lý gì một đế quốc hùng mạnh như Nguyên ta mà lại phải ngậm ngùi chịu thua một nước bằng cái bàn tay vậy!”
“Ngươi nói rõ hơn cho ta nghe ý đồ chiến trận xem sao.”
“Dạ muôn tâu bệ hạ, muốn đánh tan quân Trần, phải bắt sống hoặc giết kỳ được An Nam Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và tiêu diệt quân bản bộ của hắn! Trần Quốc Tuấn đóng đại bản doanh tại Vạn Kiếp, ta tập trung binh lực ngay từ đầu, thủy bộ hiệp lại, bao vây thật chặt. Ta sẽ giả vờ cho một cánh quân thủy nghi binh đánh vào đất Thanh Nghệ của chúng, để phân tán lực lượng của quân Trần ra, không ứng cứu được cho Vạn Kiếp, nhưng kỳ thực tập trung hết chiến thuyền đánh toàn lực vào đó. Cánh quân Vân Nam sẽ đánh xuống kinh thành Thăng Long, cũng chỉ cần đánh dứ, làm cho chúng không dám xuất binh ra chi viện cho Trần Quốc Tuấn. Cánh quân kỵ từ châu Khâm, Liêm cũng không cần đánh đồn trại dọc đường mà thần tốc lao xuống thẳng Vạn Kiếp đánh hiệp lực ngay cùng lúc. Trần Quốc Tuấn bị quân thủy bộ ta tập trung vây kín, dốc toàn lực đánh phủ đầu như thế thì ba đầu sáu tay cũng không thoát. Giải quyết xong Vạn Kiếp, toàn quân sẽ quay lại đánh Thăng Long, lúc ấy bắt vua tôi nhà nó dễ như trở bàn tay!”
“Được. Ta chuẩn tấu. Nhưng ngươi phải về làm bản tấu chương viết rõ mọi điều chi tiết. Ta sẽ xem xét và phê chuẩn. Lần này các ngươi mà không san phẳng được cái nước Nam bằng bàn tay kia thì chớ về đây gặp ta nữa.”
“Thần tuân chỉ! Thần xin thề với bệ hạ, nếu không san phẳng thành quách nước chúng, làm cỏ dân chúng, không bắt được vua tôi chúng về Yên Kinh cho bệ hạ trị tội, và nhất là không chém được đầu tên giặc già Trần Quốc Tuấn, thần sẽ tự xử nơi sa trường chứ không còn mặt mũi nào về nhìn thấy bệ hạ!”
Tháng Ba năm Trùng Hưng thứ 2 (1286). Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt xuống chiếu sai A Lý Hải Nha soạn thảo kế hoạch tấn công nước ta lần nữa. Đây là lần thứ ba.
Dự kiến đóng 300 chiến thuyền lớn, huy động 50 vạn quân, tập trung rất nhiều danh tướng: Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, A Lý Quy Thuận, Ái Lỗ, A Bát Xích, Trương Văn Hổ… Lại cho gọi bọn hàng thần Trần Ích Tắc, Lê Tắc đang lưu vong dẫn đường. Hốt Tất Liệt vẫn giao cho Thoát Hoan cầm đầu, ý muốn cho hoàng tử thứ chín lập công chuộc tội. A Lý Hải Nha lại làm phó tướng. Sau vụ luận tội của vua cha ở triều đình, Thoát Hoan tâm phục khẩu phục A Lý Hải Nha, y tôn xưng A Lý Hải Nha là Nghĩa Phụ: “Chuyến hành phương Nam lần này, mọi việc con xin toàn tâm toàn ý theo sắp đặt của nghĩa phụ. Nghĩa phụ bảo đánh con đánh, bảo tiến con tiến, bảo rút con rút. Mọi điều xin người chỉ dạy.” A Lý Hải Nha đắc ý lắm, y chắc mẩm phen này sẽ trả được mối hận thua trận nhục nhã trước Hưng Đạo Vương.
Thế nhưng trời không cho A Lý Hải Nha được chết ngoài sa trường như tâm nguyện. Công việc chuẩn bị chiến chinh đang gấp rút thì viên tướng già lừng danh chiến trận của Đế quốc Nguyên Mông này đã chết đột ngột ngày 16 tháng Sáu năm 1286.
Hốt Tất Liệt lập tức cử Áo Lỗ Xích, cũng là một viên tướng dày dạn chiến trận, cơ mưu đầy mình lên thay, tiếp tục kế hoạch chinh phục Đại Việt.
Các xưởng đóng thuyền ở Quảng Đông, Chiết Giang, Phúc Kiến được lệnh đẩy nhanh công việc.
Quân lính được chiêu mộ và luyện tập rèn theo địa hình thủy thổ phương Nam.
Trương Văn Hổ, nguyên là một tên cướp bể khét tiếng được Hốt Tất Liệt chiêu dụ, phong cho chức Vận Lương Sứ, đặc trách đoàn thuyền khổng lồ chở lương thảo.
Mọi tin tức về việc chuẩn bị đánh Đại Việt của triều đình nhà Nguyên đều được những người đưa tin của ta báo về cho Hưng Đạo Vương. Nghe Vương bẩm báo tình hình bên kia biên giới, Quan Gia Trần Nhân Tông hỏi: “Theo Quốc Công thì thế giặc năm nay thế nào?”
“Dạ bẩm, năm trước nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên khi quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng trốn chạy. Nhờ uy linh của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên đã quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân dân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì phải đi xa. Vả lại chúng còn nơm nớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy thì phá được chúng là điều chắc chắn.”
Đức vua Trần Nhân Tông lập tức xuống chiếu lệnh cho Hưng Đạo Vương đốc thúc vương hầu tôn thất tuyển mộ quân lính, luyện tập, rèn đúc vũ khí, thuyền bè khí cụ các loại chuẩn bị chống giặc. Tại kinh thành, Hưng Đạo Vương sai đắp cao tường thành, xây thêm nhiều vọng lâu, ụ pháo. Ngài trực tiếp giao cho Thượng Thư Bộ Hộ Trần Hưng Hồng đi khai mua thật nhiều sắt về để Thượng Thư Bộ Công Nguyễn Hiền đúc hỏa pháo, chế thuốc súng, bố trí dày đặc trên tường thành.
Tháng Mười năm ấy, Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn điều động quân các lộ cả nước, quân bản bộ của các vương hầu tôn thất về duyệt binh tập trận ngay trên bến Đông Bộ Đầu và sông Cái. Tập trận xong, các vương hầu và các tướng được tập trung về điện Đại Minh nơi nhà vua ban yến và nghe Hưng Đạo Vương giảng về kế hoạch chống giặc kỳ này. Mỗi người đều được nhận một bản quân lệnh bí mật từ tay Quốc Công Tiết Chế, trong đó đã ghi rõ mọi việc điều động, tiến thoái ra sao cho từng đạo quân.
Các tướng xem xong bản quân lệnh của mình, nhất loạt nói: “Quốc Công thật đúng là tướng nhà trời sai xuống để phò giúp nước Nam. Ngài tính toán như thần thế này thì bọn giặc Nguyên Mông có đem cả triệu triệu quân vào nước Nam ta cũng chỉ chuốc lấy bại vong mà thôi.” Hưng Đạo Vương kính cẩn vòng tay hướng về phía nhà vua Trần Nhân Tông: “Nhờ tổ tông nhà Đông A phù hộ. Nhờ oai võ của bệ hạ. Lại có sự đồng lòng gắng sức của tướng sĩ quân dân cả nước làm nên nghiệp lớn, chứ thần không dám nhận xằng.”
Đức vua Trần Nhân Tông năm ấy mới hai mươi tám tuổi, đương thời sung sức, Ngài nở nụ cười rạng rỡ. Khuôn mặt sáng rực lên, Ngài đứng dậy, ra khỏi ngai vàng, xuống bên Hưng Đạo Vương, cầm lấy tay vị tướng già đứng đầu quân đội nước nhà cảm kích nói: “Thượng Phụ Quốc Công quá đỗi khiêm nhường. Công Ngài là trời bể, không có Ngài thì cả nước Nam ta đã nát tan dưới vó ngựa Nguyên Mông rồi. Trẫm thay mặt cho muôn dân Đại Việt đội ơn Ngài!” Nói rồi nhà vua ôm lấy vai Quốc Công, từ đôi mắt của Ngài bỗng bừng lên những ánh hào quang chói lọi. Vương hầu, tướng sĩ có mặt tại đó đứng dậy, vung tay, đồng thanh hô lớn: “Sát Thát! Sát Thát! Sát Thát!”
Theo kế của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương đề ra, các vương hầu nhà Trần lại dẫn tướng sĩ và quân bản bộ của mình đi giữ các vùng hiểm yếu.
Tiễn tướng quân Lê Phụ Trần mang mười vạn quân đi trấn thủ vùng Thanh Nghệ, Vương nói: “Mặt nam kinh thành trông cậy cả ở Ngài. Có thể bọn Nguyên phao tin đánh vào Thanh Nghệ chỉ là hư binh. Nhưng ta cũng nên lường trước mọi sự. Nếu thấy chúng tập trung quân công thành Thăng Long mà không đánh vào đó thì tướng quân lập tức chia làm hai cánh, kỵ binh và bộ binh tiến nhanh về kinh thành trợ chiến. Còn quân thủy điều lên Quảng Yên hợp với thủy đội của Trần Quốc Tảng đợi sẵn đó chờ lệnh.”
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật trước khi dẫn quân bản bộ của mình đi Lạng Sơn, hồ hởi nói với Vương: “Quốc Công huynh đã tính kỹ mọi nhẽ thế thế này thì Duật đệ chỉ còn có mỗi việc xách gươm phi ngựa, xông ra trận tiền chém đầu tướng giặc nữa là xong. Trận này quân ta chắc thắng to.” Vương vỗ vai Nhật Duật: “Chuyện tính toán trong trướng chả làm gì được nếu không có binh hùng tướng mạnh dũng cảm xông pha ngoài trận tiền. Chiêu Văn Vương cầm quân ngoài trận cứ tùy theo thế giặc mà xử lý. Mọi sự ta đã viết cả trong quân lệnh và địa đồ kèm theo. Ta tuyệt đối tin tưởng ở tài cầm binh của Chiêu Văn Vương!”
Đoàn chiến thuyền của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư sau khi duyệt binh, cũng xuôi về trấn Vân Đồn theo lối Lục Đầu Giang. Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương bảo Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư:
“Không mấy khi mà ta với Nhân Huệ Vương lại cùng xuôi một dòng. Ta định sang ngồi thuyền tướng của Ngài, cùng uống rượu, ngắm cảnh sông nước, liệu có nên chăng?”
“Được tự tay chèo thuyền, rót rượu hầu Quốc Công thì thật vinh hạnh cho bản tướng quá. Xin kính mời Vương.”
Thuyền vào sông Thiên Đức, nhằm phía Lục Đầu Giang thẳng xuống. Một tiệc rượu được bày ra trong lâu thuyền. Sau vài tuần rượu, Trần Khánh Dư biết ý, ra hiệu cho tùy tùng xuống hết phía dưới. Khi chỉ còn có hai người, Hưng Đạo Vương mới nói:
“Ô Mã Nhi là một tay lão luyện đánh thủy, mà đội thuyền của chúng chuẩn bị đánh sang ta lần này rất lớn, nay nghe nói hắn còn chiêu mộ được một tên phản tặc người Quảng Yên là Phạm Nhan, rất thông thạo luồng lạch vùng này, tướng quân nên cẩn thận.”
“Vâng, thưa Quốc Công bản tướng sẽ hết sức thận trọng.”
“Hôm nay ở đây chỉ có ta và tướng quân, không cần phải giữ kẽ trên dưới hay e ngại điều gì. Nhân Huệ Vương hãy nói thực lòng xem liệu thủy quân ta có đánh thắng được thủy quân Nguyên ngay trận đầu, dìm đầu chúng ngay tại Vân Đồn không?”
Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương nhìn thẳng vào khuôn mặt đàn ông góc cạnh của vị tướng lừng danh đánh thủy giỏi hàng đầu của quân nhà Trần. Có một thoáng do dự lướt qua rất nhanh trên ánh mắt diều hâu của ông tướng thủy quân trấn thủ Vân Đồn:
“Dạ. Thưa Quốc Công, nếu chỉ so sánh về số lượng thuyền và độ lớn thì thủy quân ta không thể nào bằng. Thế nhưng dù sao bọn Nguyên vẫn là đội quân ô hợp: Bọn xuất thân Mông Thát thì không thạo đánh bể. Bọn quân tân phụ thì tinh thần chiến đấu không cao. Mà cái này quân ta hơn hẳn. Nên bản tướng nghĩ ta có thể thắng...”
“Không phải có thể thắng, mà phải là chắc chắn thắng!”
- Quốc Công ngắt lời Khánh Dư. “Hôm nay ta ngồi với Nhân Huệ Vương là có ý bàn riêng với Ngài. Hốt Tất Liệt cho là con trai y lần trước thảm bại do quân thiếu lương ăn nên lần này đem theo một đoàn thuyền tải lương rất lớn, đủ ăn vài năm. Bọn chúng từ bỏ lối đánh nhanh tiến nhanh, định đóng quân lâu dài, đánh kỳ tan quân ta mới thôi. Vậy thì chúng ta phải có đối sách phù hợp. Phải làm sao đánh tan đoàn thuyền lương của chúng, làm cho mưu đó bị phá từ trong trứng nước, tức thì bại vong hiển hiện.”
“Vậy ý Quốc Công thế nào?”
“Ta và tướng quân cùng viết ra giấy xem ý nghĩ trong đầu có trùng nhau không nhé. Ta đồ Nhân Huệ Vương cũng có chủ ý của mình, nhưng tuyệt không nói ra điều cơ mật giống như ta mà thôi.”
Hưng Đạo Vương và Nhân Huệ Vương mỗi người tự tay lấy một tờ giấy rồi xoay lưng lại nhau, viết. Một lát, cả hai quay lại trao cho nhau đọc: Ánh mắt hai người đàn ông lừng danh Đại Việt nhìn nhau bỗng sáng bừng lên. Ánh mắt của những võ tướng dày dạn chiến trận, chỉ cần thoáng qua, đã hiểu thấu tâm can và ý đồ của nhau. Ánh mắt của họ nhìn về cùng một hướng.
Sau này trong tiệc rượu mừng công tại triều, cả hai mới tiết lộ những dòng chữ mà họ đã viết trùng nhau hôm ấy là: Nghi binh giả thua - Khổ nhục kế - Hỏa công đốt lương... Hưng Đạo Vương đặt cả hai tay mình lên hai tay Trần Khánh Dư. Bốn bàn tay cùng siết chặt. Vương nói: “Quả là người mà ta tin tưởng giao phó cho thủy đội kỳ này đúng là chỉ có Trần Khánh Dư vậy. Việc thủy quân Vân Đồn như vậy là ta yên tâm. Nhân Huệ Vương cứ thế mà làm.” Nói rồi Hưng Đạo Vương và Trần Khánh Dư vo hai tờ giấy vừa viết đưa vào ngọn bạch lạp trên bàn đốt. Mọi mưu kế để đánh tan quân thù đã ở trong đầu họ, không một kẻ nào có thể biết những gì họ đang chuẩn bị giáng xuống đầu quân xâm lược. Hoàn toàn bất ngờ.
—★—Ngày 14 tháng Mười một năm Trùng Hưng thứ 3 (1287). Thoát Hoan dẫn đại quân vượt qua biên giới vào nước Nam ta. Nghe các quan tâu lên, nhà vua trẻ Trần Nhân Tông quay sang hỏi Quốc Công Tiết Chế: “Bọn giặc Nguyên đã xâm phạm nước ta, tình hình thế này thì Quốc Công định liệu thế nào?” Quốc Công vuốt râu mỉm cười nói với Quan Gia: “Tâu bệ hạ, thần đã định liệu mọi việc xong xuôi. Năm nay đánh giặc nhàn. Xin bệ hạ cứ ở tại kinh thành Thăng Long động viên tướng sĩ đánh giặc, xa giá không phải đi đâu hết. Thần sẽ cho chúng nó biết thế nào là rồng lửa Thăng Long.”
Hàng loạt các trận đánh giữa quân Trần với quân Nguyên xảy ra dọc đường từ biên giới về miền đồng bằng. Các tướng trấn thủ và các tù trưởng đều được lệnh của Hưng Đạo Vương làm sao tiêu hao sinh lực giặc và làm nhụt ý chí của chúng. Nhưng lần này Thoát Hoan có bọn Trần Ích Tắc, Lê Tắc, Trần Tú Viên dẫn đường nên chúng bỏ đường chính, đi theo đường tắt, vừa đi vừa mở đường, nhằm hướng Vạn Kiếp xông thẳng tới.
Trần Nhật Duật thấy vậy bèn rút đại quân từ Lạng Sơn về đóng tại Bạch Hạc. Cánh quân Nguyên từ Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy theo Thao Giang tràn xuống, gặp quân Nhật Duật, hai bên đánh nhau ròng rã hàng tháng không phân thắng bại.
Cánh quân hướng bắc do Thoát Hoan chỉ huy, sau khi vượt qua ải Nội Bàng lao thẳng xuống vây Vạn Kiếp. Vừa lúc cánh quân thủy do Ô Mã Nhi cũng đánh tan thủy đội của Trần Khánh Dư ngoài bể, chém tướng Trần Gia, thu đốt khá nhiều chiến thuyền của ta, cũng hung hăng tràn lên. Ô Mã Nhi đắc thắng sai quân dong buồm mở lái hết cỡ lao về Vạn Kiếp phối hợp cùng với Thoát Hoan định tiêu diệt gọn quân của Hưng Đạo Vương. Nhưng khi chúng xông vào trại thì quân ta đã rút hết về kinh thành hồi nào. Thoát Hoan, Ô Mã Nhi bèn chiếm Vạn Kiếp đóng trại xây thành trên núi để làm căn cứ tấn công Thăng Long. Áo Lỗ Xích, phó tướng của Thoát Hoan thấy thuyền chiến của Ô Mã Nhi tới Vạn Kiếp mà không có thuyền lương đi cùng bèn hỏi:
“Thuyền lương quân ta đâu mà nguyên soái lại dẫn quân lên đây trước vậy? Nếu không có chiến thuyền đi cùng, chẳng may bọn chúng ra vây đánh cướp lương thì mình Trương Văn Hổ làm sao chống đỡ nổi?” Ô Mã Nhi cười vang: “Tướng quân quá lo! Thủy binh Đại Việt đã bị ta đánh tan rồi! Tướng tiên phong của nó ta đã chém. Chỉ huy thủy quân Trần Khánh Dư thì đang bị xiềng về kinh trị tội. Chiến thuyền của chúng ta đã đốt hết, còn đâu mà đánh với cướp?”
“Xin nguyên soái chớ chủ quan, Hưng Đạo Vương là một tay lão luyện, ta ngờ có âm mưu gì ở đây. Ngài hãy dẫn thủy đội quay lại đón đoàn thuyền lương gấp. Chẳng may mất lương thì quân ta chỉ có rút chạy cho nhanh chứ không đánh đấm gì được đâu.”
Ô Mã Nhi nghe Áo Lỗ Xích nói vậy, tự dưng thấy lạnh người. Y vội dẫn đoàn chiến thuyền hùng hậu quay lại bể tìm đón đoàn thuyền lương. Tới vụng Vân Đồn, chỉ thấy mặt bể vắng lặng. Bên bờ, vài chiếc thuyền đang cháy dở dạt vào vẫn còn bốc khói nghi ngút. Một tốp lính Nguyên bị quân Trần Khánh Dư bắt, đã được thả cho về gặp Ô Mã Nhi,…
Ô Mã Nhi vội vàng quay lại Vạn Kiếp trình Thoát Hoan: “Tâu chủ tướng, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị Khánh Dư cướp đốt sạch cả rồi.”
Thì ra Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư dùng kế nghi binh, sai Trần Gia tướng quân dẫn thủy đội gồm toàn thuyền lớn ra khiêu chiến với Ô Mã Nhi ở vụng Vân Đồn. Khánh Dư hẹn Trần Gia vừa đánh vừa chạy, rút vào mãi phía trong sông Bạch Đằng cho Ô Mã Nhi hăng hái đuổi theo. Tới đó đánh nhau kịch liệt một trận rồi giả thua, quân sĩ bỏ thuyền nhảy xuống sông bơi lặn vào rừng sú vẹt hai bên, rồi leo lên bờ có người ngựa đón sẵn, đưa về lại Vân Đồn. Lại sai quân sĩ ém thuyền nhẹ trong các đảo đá xung quanh vụng bể đợi lệnh. Ô Mã Nhi đuổi đánh Trần Gia vào mãi sâu trong sông Bạch Đằng. Hai bên giao chiến kịch liệt. Trần Gia sơ ý, bị Ô Mã Nhi bắn lộn nhào xuống nước, chúng sấn đến chém đầu Ngài, quân sĩ tan vỡ, bỏ chiến thuyền nhảy xuống nước hết cả. Ô Mã Nhi cướp được nhiều chiến thuyền của quân Trần đắc chí lắm, sai đốt sạch. Rồi xông thẳng đến Vạn Kiếp, quên mất đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đi sau.
Tin thủy quân ta thất trận bay về kinh thành, quan quân có phần rúng động. Ái Lỗ thừa cơ ấy phá phòng tuyến của Nhật Duật xông thẳng xuống Đông Bộ Đầu đóng trại cùng với Thoát Hoan từ Vạn Kiếp lên, phối hợp công thành.
Nhà vua Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương: “Việc Khánh Dư thất trận, ý Quốc Công xử thế nào?”
“Tướng cầm quân ra trận mà thua, chém, quân pháp thế rồi. Xin bệ hạ sai Thân Thành Vương làm trung sứ xuống Vân Đồn xiềng Khánh Dư về kinh thành trị tội làm gương cho các tướng khác!”
Nhà vua trẻ ớ người, định hỏi lại. Chợt thấy ánh mắt của Hưng Đạo Vương nhìn mình như ngầm báo. Lại nghĩ đến mối thâm tình của Thân Thành Vương và Trần Khánh Dư: Thân Thành Vương năm nay mới hai mươi tuổi, vốn được Khánh Dư yêu quý coi như con… Trần Nhân Tông chợt hiểu ý, Ngài phẩy tay: “Chuẩn tấu!”
Trung sứ xuống Vân Đồn, Trần Khánh Dư nói: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu búa rìu thiết tưởng cũng chưa muộn!”
Thân Thành Vương lập tức đồng ý.
Trần Khánh Dư tập trung binh sĩ, ém sẵn thuyền nhẹ, đợi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đi vào vụng Vân Đồn, xông ra đánh giết. Hổ vốn là một tên cướp bể lão luyện, nhưng cũng không địch nổi đòn tập kích bất ngờ của quân Trần Khánh Dư. Cả đoàn thuyền chở lương thực, khí giới bị quân Trần đánh chiếm và lập tức phóng hỏa đốt. Một con rồng lửa đỏ trời sôi bể kéo dài từ vụng Vân Đồn đến tận Cửa Lục.
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư cưỡi thuyền tướng truy kích Trương Văn Hổ. Hổ biết tiếng Khánh Dư giỏi võ nghệ từ xưa, liệu mình không phải địch thủ bèn bỏ thuyền lớn, xuống thuyền nhỏ sai quân chèo thục mạng chạy vào trong rừng đảo đá, mất dạng, rồi trốn về Bắc.
Trung sứ Thân Thành Vương thấy Khánh Dư đánh thắng một trận oai hùng quá, bèn nói: “Việc của Nhân Huệ Vương, trước lúc xuống đây ta đã được Quốc Công rỉ tai nói riêng rồi. Ta đã xuống đến đây thì Vương cho ta nhập quân đánh giặc với, chứ không thì giặc sắp thua mà chạy hết, ta không còn dịp lập công!”
Ô Mã Nhi thấy đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư đốt hết, vội quay thuyền về Vạn Kiếp báo. Thoát Hoan nổi trận lôi đình, định lôi Ô Mã Nhi ra chém. Áo Lỗ Xích vội can: “Xin chủ tướng bớt giận. Ô Mã Nhi là tướng chỉ huy thủy quân của ta. Nếu chém thì lập tức thủy đội sẽ tan ngay. Hãy để cho y lập công chuộc tội.”
“Thế ý Ngài định sao bây giờ?”
“Quân lương của ta đã mất, không thể ở lâu dài đất này được. Rút ngay bây giờ về thì sẽ bị hoàng thượng quở trách. Chi bằng ta dồn toàn lực vây kinh thành Thăng Long, quyết một trận sống mái với vua tôi nhà nó. Vả lại An Nam Hưng Đạo Vương cũng đang trong thành, ta đánh thắng trận này là làm cỏ cả lũ, diệt sạch mối họa. Nếu không xong, ta rút cũng chưa muộn.”
Ngày mùng 2 tháng Hai năm Trùng Hưng thứ 4 (1288).
Thoát Hoan huy động đại quân thủy bộ vây kín bốn mặt kinh thành Thăng Long. Ô Mã Nhi đem thuyền chiến đóng ba mặt Bắc, Tây, Nam theo sông Cái và sông Tô Lịch, quyết không cho vua quan nhà Trần trốn thoát. Thoát Hoan dẫn đại quân đến ngoài Cửa Đông kinh thành bày trận. Y mặc áo giáp bạc, mũ trụ bằng vàng, cao lớn oai phong, cưỡi ngựa đến trước cửa thành gọi Hưng Đạo Vương ra nói chuyện. Vương đứng trên vọng lâu, râu tóc bạc trắng, mặt đỏ rực, oai nghiêm trong bộ giáp trụ bằng đồng, hai bên là Yết Kiêu, Dã Tượng đứng hầu. Vương quát to: “Thằng trẻ con miệng chưa hết hơi sữa kia! Ngươi biết điều dẫn quân về nước ngay thì ta để cho một con đường sống, bằng không ngoan cố chớ có trách ta vô tình. Ngươi có chui vào ống đồng ta cũng lôi ra xẻo thịt quăng cho lợn ăn đó!” Thoát Hoan nghe nhắc đến chuyện năm trước uất quá, tức giận gầm vang: “Tên giặc già Quốc Tuấn kia! Ngươi có nhìn thấy quân hùng tướng mạnh của ta vây kín nhà ngươi trong cái thành nhỏ bằng nắm tay này không? Vua tôi nhà ngươi mau mở cửa thành đầu hàng thì ta sẽ miễn cho cái họa diệt vong cả nước. Cầm bằng ngoan cố, ta sẽ san phẳng kinh thành, chém giết kỳ hết người nước Nam cho hả giận.” Hưng Đạo Vương vẫy cây gậy trúc gọi: “Đừng nhiều lời, ngươi có giỏi thì tiến lên đi.”
Thoát Hoan đưa tay, quát quân xông lên công thành. Hỏa pháo của quân ta lập tức nổ rền vang. Đạn pháo, mũi tên lửa của quân ta bắn thẳng vào đội hình quân giặc.
Một trận bão lửa chưa từng thấy từ trên thành dội vào đầu quân Nguyên. Nhưng bọn chúng là những kẻ chinh chiến dày dạn, chúng không hề nao núng, mà ào ạt xông lên bất chấp tên đạn. Thoát Hoan hướng đông, Ô Mã Nhi hướng bắc, Ái Lỗ hương tây và A Bát Xích hướng nam, chỉ huy quân đồng loạt đẩy xe đánh thành tấn công. Hưng Đạo Vương lệnh cho Dã Tượng dẫn đội voi chiến, mở cửa thành xung trận. Những chú voi to lớn gầm thét vang trời xông đến giẫm đập quân Nguyên và quật nát tan tành những cỗ máy đánh thành của chúng. Quân Nguyên lùi lại củng cố đội hình, nhưng chúng chưa bỏ cuộc. Đội thiết kỵ cảm tử mặc giáp sắt được tung vào cuộc. Bọn này phi ngựa rất nhanh đến chân thành rồi tung dây có móc sắt lên bám chặt vào mặt thành, nhanh chóng tung mình, bám dây nhảy phắt lên đánh nhau với quân ta. Chúng lao lên rất đông, quân ta đánh giết không xuể, một số tên đã nhảy được vào trong thành nội. Nhưng bọn này bị quân dân già trẻ trai gái trong thành ùa ra bao vây giết nốt. Cứ thế hai bên đánh nhau từ sáng đến chiều. Quân Nguyên chết la liệt, mà không làm gì được quân ta. Chúng khua chiêng thu quân về nghỉ, hẹn mai đánh tiếp.
Nhưng đêm chúng cũng không được nghỉ yên. Cả đêm các đội đột kích của quân ta thỉnh thoảng lại bí mật xông vào chém giết, bắn tên lửa vào đốt trại. Quân Nguyên xông ra truy đuổi thì lập tức bị dân binh phục kích, không tên nào sống sót trở về. Trại thủy quân của Ô Mã Nhi trên sông Cái, sông Tô Lịch còn khủng khiếp hơn. Yết Kiêu dẫn chiến binh của mình bơi lội trong đêm, bất thần nhảy lên thuyền đánh giết và đục thủng thuyền dìm chết cả đám.
Thoát Hoan nghiến răng trèo trẹo bảo Áo Lỗ Xích: “Bố con nhà tay Quốc Tuấn này quả là ghê gớm. Thằng con nó đã làm ta khốn khổ ở ải Tư Minh năm trước. Nhưng nay chúng đang ở cả trong này, nếu ta công phá được thành thì hốt gọn càng tiện. Sáng mai tướng quân dốc toàn lực cho ta, quyết đánh kỳ được mới thôi.”
Thế nhưng Hưng Đạo Vương cũng đã đề phòng. Trong đêm, Ngài cho đắp cao thêm mặt thành và ụ pháo, để chặn giặc và từ đó bắn được xa hơn. Binh sĩ trên tường thành được trang bị thêm hỏa pháo cầm tay, cung bắn tên lửa làm cho ngựa của bọn Nguyên sợ hãi không đến gần chân thành được mà quăng dây leo lên.
Sáng sớm hôm sau, quân Nguyên lại tập trung đánh phá thành.
Nhưng một trận bão lửa còn rùng rợn hơn hôm trước đổ xuống đầu quân chúng. Những cỗ xe đánh thành của quân Nguyên hôm nay được đội thiết kỵ hộ vệ mang theo giáo dài và cung bắn tên lửa chống voi, lừ lừ tiến vào bốn hướng cổng thành. Hưng Đạo Vương lập tức sai các tướng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái cùng hai vương tử Quốc Uất, Quốc Hiện dẫn đội giáp kỵ mở cửa thành xông ra đánh thẳng vào đội hộ vệ xe đánh thành. Nhân lúc đội hình của chúng rối loạn, Dã Tượng lại tung đội voi chiến vào diệt phá tan đội tiên phong đánh thành này. Quân ta hỗn chiến dưới chân thành hồi lâu, chém giết một số rồi lại nhanh chóng rút vào. Quân Nguyên đuổi theo đến cổng thì lập tức một trận mưa tên, lao, đá hộc, chất cháy trút xuống, và sau đó là màn hỏa pháo dội bão lửa dập vùi. Bốn xung quanh thành lửa cháy rừng rực như hỏa diệm sơn. Tiếng ngựa hí, tiếng kêu khóc vang trời dậy đất…
Thoát Hoan đứng trên đài chỉ huy mà lửa táp lên nóng rực, mồ hôi tuôn ra như suối trong bộ giáp phục, y hỏi Áo Lỗ Xích đang đứng bên cạnh: “Tình hình này nên làm sao tướng quân?”
“Bọn quân Trần chuẩn bị rất kỹ, không thể công thành nhanh được. Phải bao vây lâu dài mới mong hạ được chúng. Nhưng nếu bao vây lâu, mấy hôm nữa hết lương ăn thì chả cần đánh, quân ta cũng phải giơ tay chịu trói trước chúng. Theo ý bản tướng, tốt nhất là ta hãy rút về Vạn Kiếp đóng trại tại đó, cho quân đi kiếm lương ăn rồi tính tiếp.”
Thoát Hoan, Ô Mã Nhi rút đại quân về Vạn Kiếp.
Ái Lỗ cũng dẫn cánh quân Vân Nam chạy lên Bạch Hạc đóng tại đó chờ lệnh.
Thấy quân Nguyên rút hết về Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương tâu với vua: “Bẩm Quan Gia, cái điềm sắp tháo chạy của bọn Thoát Hoan đã rõ. Không kiếm nổi lương ăn, chỉ vài hôm nữa bọn chúng sẽ tháo chạy. Quan Gia cùng với quân Thánh Dực giữ chắc kinh thành, để Trần Nhật Duật dẫn quân lên Bạch Hạc vây đánh bọn Ái Lỗ. Thần về Quảng Yên chuẩn bị chiến trường đánh một trận mà chúng phải kinh sợ đến muôn đời, không dám xâm phạm bờ cõi ta nữa.
Khi nào có tin báo của thần thì Quan Gia mang toàn bộ tướng sĩ xuôi theo sông Thiên Đức, xuống Vạn Kiếp đánh đuổi dồn cho chúng chạy vào cái lõng thần đã đặt sẵn.” Nói rồi Vương dẫn quân bản bộ đang đêm bí mật lên thuyền xuôi sông Cái ra bể rồi vòng về Quảng Yên phục sẵn. Trước khi đi, Hưng Đạo Vương gọi vương tử thứ ba Trần Quốc Hiện vào dặn: “Con mang một vạn quân lên vùng Lạng Giang, Lạng Sơn hợp với quân của các tù trưởng trên đó, bày trận phục sẵn. Thoát Hoan thế nào cũng chạy về lối đó. Con đánh sao cho chúng kinh hoàng táng đởm, lần sau nghĩ đến sang nước Nam là tim đập chân run. Nhưng đừng ép Thoát Hoan vào bước cùng, dẫu sao y cũng là hoàng tử của Hốt Tất Liệt. Để đánh đuổi chúng xong, ta vẫn còn có chỗ nói chuyện với cha y.”
Vương cùng với Trần Khánh Dư, Quốc Nghiễn, Quốc Tảng, Quốc Uất và các bộ tướng bày trận tại cửa sông Bạch Đằng. Hàng nghìn trụ cọc lim được vót nhọn, bịt sắt, bí mật đóng xuống lòng sông ban đêm. Những trụ cọc này được cắm sao cho khi nước thủy triều rút xuống thì tàu bè không thể qua được.
Từ Vạn Kiếp xuôi ra bể có nhiều cửa sông lớn. Bạch Đằng, sông Kênh, sông Rút, sông Thái và sông Tranh. Trên các sông khác, Vương cho bố trí quân thủy của Trần Khánh Dư và Trần Quốc Tảng trấn giữ, quyết không cho thuyền quân Nguyên đi qua đường đó, chỉ chừa một lối ra bể là sông Bạch Đằng. Nơi đó chiến địa quân ta bày sẵn đợi: bãi cọc dưới sông và bên bờ tả có Ghềnh Cốc, bờ hữu có dãy núi đá vôi Tràng Kênh, binh sĩ của ta đã phục sẵn.
Thoát Hoan lui về Vạn Kiếp, sai Ô Mã Nhi đi kiếm lương. Ô Mã Nhi đi khắp vùng chả kiếm thêm được hộc lương nào mà lương mang theo sắp hết. Bởi dân quanh vùng thực hiện kế “Thanh dã” của Hưng Đạo Vương kỹ lắm, bao nhiêu lương thực đều được đem cất giấu hết. Đã thế quân Trần lại kéo đến bao vây tấn công mạnh suốt ngày đêm. Các tướng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái dẫn quân Thánh Dực đến đánh rất hăng. Thoát Hoan thân chinh mấy lần ra giao chiến với Phạm Ngũ Lão đều đánh không nổi phải rút vào trại cố thủ.
Áo Lỗ Xích mang quân ra giao chiến trên sông với Nguyễn Khoái, bị vây đánh tả tơi. Quân ta dùng tên độc bắn hạ gần hết lính của Áo Lỗ Xích. Y định quay thuyền chạy thì thuyền của Nguyễn Khoái đã lao vút đến, Khoái nhảy phắt lên thuyền, chém đầu quân hộ vệ của Áo Lỗ Xích rơi lả tả xuống sông. Áo Lỗ Xích nhảy ra giao chiến với Nguyễn Khoái, chưa đầy ba hiệp đã bị đánh văng kiếm, Khoái nhảy vào quật ngã, trói gọn mang về trại quân ta.
Phó tướng bị bắt, Thoát Hoan lo lắng lắm, bèn gọi các tướng vào thương nghị. Lưu Thế Anh thưa: “ Cứ ngồi đây mà đợi thì chỉ có làm mồi cho tên đạn của bọn Nam man giết dần, chi bằng ta hãy cứ rút về bên kia biên giới rồi tính cách phục thù sau.”
Thoát Hoan thấy cũng chả còn mưu gì hơn bèn chia quân làm hai đường thủy bộ rút lui. Thoát Hoan và A Bát Xích có bọn Ích Tắc, Tú Viên thông thạo vùng Lạng Châu, Lạng Giang, Lạng Sơn dẫn đường nên rút đường bộ. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp có tên Phạm Nhan, vốn người Quảng Yên theo giặc dẫn đường rút lối thủy. Bọn quân Ái Lỗ đóng trên Bạch Hạc nghe tin đại quân rút bèn ba chân bốn cẳng men theo Thao Giang chạy biến về bên kia biên giới. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chưa kịp điểm binh đuổi theo thì chúng đã mất dạng. Trần Nhật Duật cả cười: “Đúng là lũ quân ô hợp! Càng rảnh tay cho ta xuống cùng đánh với Quốc Công Tiết Chế một trận đã đời mới được.”
Thoát Hoan cùng bọn Lưu Thế Anh, A Bát Xích kéo quân chạy về hướng bắc. Dọc đường qua Lạng Giang bị quân ta vây đánh rát lắm, may có người của bọn Ích Tắc, Tú Viên, Lê Tắc thông thạo đường rừng vùng này dẫn chạy trốn tránh vòng vèo mãi từ tháng Hai, sang tới tháng Tư mới chạy về gần cửa ải Kha Lỵ. Quân tướng nhìn nhau thở phào tưởng thoát. Bỗng đâu trên núi Mặt Quỷ chặn trước con đường vào ải chiêng trống nổi lên ầm ầm. Tên thuốc độc, lao phóng xuống như mưa. Quân Nguyên chết gục một lớp. Rồi tiếng trống chiêng hò la của quân sĩ Đại Việt im bặt. Trên sườn núi Mặt Quỷ, một tướng trẻ oai phong lẫm liệt cưỡi ngựa chỉ gươm xuống q