PHẦN I Chương 1 LỖ HỔNG TRONG TIẾNG ỒN
ĐIỀU ĐẦU TIÊN BẠN NHẬN RA khi chó của bạn biết nói là chó không có gì nhiều để nói. Về bất cứ điều gì.
“Mót ị, Todd.”
“Im đi, Manchee.”
“Ị. Ị, Todd.”
“Tao bảo im đi mà.”
Chúng tôi đang đi qua những cánh đồng hoang ở phía Đông Nam thị trấn, những cánh đồng dốc chạy xuôi xuống sông và về phía đầm lầy. Ben sai tôi đi hái cho chú vài quả táo ở đầm lầy và bắt tôi phải dẫn Manchee theo, dù tất cả đều biết tỏng Cillian chỉ mua con chó này để lấy lòng thị trưởng Prentiss, nên bỗng nhiên nó trở thành món quà sinh nhật của tôi năm ngoái, dù tôi chưa bao giờ nói mình muốn có một con chó, trong khi tôi có nói tôi muốn Cillian sửa xe đạp cho để tôi không phải cuốc bộ tới mọi chốn đổ nát của cái thị trấn ngu ngốc này, nhưng ồ, không, chúc mừng sinh nhật, Todd, đây là con chó vừa dứt sữa, Todd, và dù mày không muốn nó, dù mày không đòi nó, thì cũng cứ đoán xem ai sẽ cho nó ăn, dạy dỗ nó, tắm cho nó, đưa nó đi dạo, và nghe nó lải nhải khi giờ đây nó đã đủ lớn để liến thoắng không ngừng? Đoán xem ai?
“Ị,” Manchee lặng lẽ sủa với chính mình. “Ị, ị, ị.”
“Thì cứ ị đi và thôi lải nhải ngay cho tao nhờ.”
Tôi ngắt một nhánh cỏ ven đường và quất Manchee. Tôi không đánh trúng nó, tôi không định đánh trúng nó, nhưng nó chỉ phá lên cười ăng ẳng và chạy tiếp trên con đường mòn. Tôi đi theo, quạt nhánh cỏ của mình lên đám cỏ hai bên đường, nheo mắt vì nắng, cố để đầu óc trống rỗng.
Thú thực, chúng tôi không cần táo ở đầm lầy. Ben có thể mua táo ở cửa hàng của ông Phelps nếu chú ấy thực sự muốn ăn. Cũng thú thực: đến đầm lầy hái vài quả táo không phải là việc của một người đàn ông, vì đàn ông không được phép an nhàn đến vậy. Tôi sẽ chính thức trở thành đàn ông sau ba mươi ngày nữa. Tôi đã sống mười hai năm, mỗi năm mười ba tháng, và thêm mười hai tháng nữa, cộng lại thì vẫn còn một tháng mới đến ngày sinh nhật trọng đại. Kế hoạch đang được lên, công cuộc chuẩn bị đang được tiến hành, tôi đoán sẽ có một bữa tiệc, dù tôi bắt đầu thấy được vài hình ảnh kỳ quái về nó, vừa u ám vừa quá đỗi xán lạn, nhưng dẫu sao tôi cũng sẽ trở thành đàn ông, và đi hái táo ở đầm lầy không phải là việc của đàn ông, hay của một thằng sắp-trở-thành-đàn-ông.
Nhưng Ben biết chú ấy có thể sai tôi đi, và rằng tôi sẽ đồng ý, vì đầm lầy là nơi duy nhất gần thị trấn Prentiss ta có thể tạm thoát khỏi tất cả những Tiếng Ồn mà con người xả ra, tất cả những xôn xao và ầm ĩ không bao giờ dứt, ngay cả khi họ ngủ, con người và những suy nghĩ họ thậm chí không biết mình đang nghĩ, dù ai cũng có thể nghe thấy chúng. Con người và Tiếng Ồn của họ. Tôi không biết họ làm thế nào để chịu đựng được nhau.
Con người là những sinh vật Ồn Ào.
“Sóc!” Manchee sủa rồi chạy bắn đi, nhảy khỏi đường mòn, dù tôi đã hét lên gọi nó lại, rồi đến lượt tôi phải chạy theo, băng qua cánh đồng (tôi nhìn quanh để đảm bảo không có ai ở gần) chết tiệt, vì Cillian sẽ nổi khùng nếu Manchee ngã xuống một lỗ rắn chết tiệt nào đó và dĩ nhiên đây sẽ là lỗi chết tiệt của tôi dù ngay từ đầu tôi đã không muốn có con chó chết tiệt này.
“Manchee! Quay lại ngay!”
“Sóc!”
Tôi phải lội qua đám cỏ, những con sâu bám vào giày tôi. Một con bẹp gí khi tôi đá nó ra, để lại vệt màu xanh dọc đôi giày thể thao, mà theo kinh nghiệm của tôi thì sẽ không thể giặt sạch. “Manchee!” tôi điên tiết gầm lên.
“Sóc! Sóc! Sóc!”
Nó sủa quanh một gốc cây và con sóc nhảy lóc chóc trên thân cây, chế giễu Manchee. Đến đây, chó ngu, Tiếng Ồn của nó vang lên. Đến đây, đến đây, đến đây mà bắt Ngu Ngu Ngu.
“Sóc kìa, Todd! Sóc!”
Chết tiệt; động vật thật ngu ngốc.
Tôi chộp lấy vòng đeo cổ và tét mạnh vào chân sau của Manchee. “Ối, Todd? Ối?” Tôi lại đánh nó. Rồi lại đánh nó. “Ối? Todd?”
“Đi nào,” tôi nạt, Tiếng Ồn của tôi rền vang đến nỗi tôi chẳng thể luận ra được mình đang nghĩ gì, một việc khiến tôi sắp phải hối hận, bạn cứ chờ xem sẽ biết.
Thằng nhóc ngu, thằng nhóc ngu, con sóc nghĩ về tôi. Đến đây mà bắt, thằng nhóc ngu.
“Mày cũng biến mịa đi,” tôi trả đũa, chỉ có điều tôi không nói “mịa” mà nói thẳng cái chữ tục tĩu hơn nhiều kia ra.
Đáng lẽ tôi nên nhìn quanh trước khi nói.
Vì Aaron đây rồi, ngay tại đây, bất thình lình nhào ra khỏi bãi cỏ, nhào ra và tát vào mặt tôi, chiếc nhẫn lớn của anh ta làm rách môi tôi, rồi anh ta vung tay thêm phát nữa, tay nắm lại thành đấm, trúng gò má tôi, nhưng ít nhất cũng không trúng mũi vì tôi đang ngã xuống cỏ, cố tránh cú đấm của anh ta, và vì thế phải buông dây buộc cổ Manchee ra, nó lại chạy đi tìm con sóc, sủa ầm ĩ, đồ phản bội, tôi ngã bò lăn bò càng xuống cỏ, trét vệt sâu xanh lên khắp người.
Và tôi nằm đó, trên mặt đất, thở hổn hển.
Aaron đứng trước mặt tôi, từng mảnh rời rạc của Tiếng Ồn và những lời giảng đạo từ anh ta lao tới, Cẩn thận lời ăn tiếng nói đó, nhóc Todd và phải biết hy sinh và vị thánh tự chọn con đường của mình và Chúa nghe thấy đấy và hàng loạt những hình ảnh có trong Tiếng Ồn của tất cả mọi người, những điều quen thuộc và những ký ức thoáng qua của…
Cái gì? Cái quỷ quái gì…?
Nhưng những đoạn ồn ào hơn trong bài giảng đạo của Aaron đã lao tới và che cái quỷ đó lại, tôi ngẩng lên nhìn vào mắt anh ta, rồi đột nhiên tôi không còn muốn biết nữa. Tôi đã nếm thấy vị máu từ vết nứt trên môi do chiếc nhẫn của Aaron gây ra và tôi không còn muốn biết nữa. Anh ta không bao giờ đến đây, đàn ông không bao giờ đến đây, họ có lý do của họ, đàn ông có lý do của đàn ông, nên ở đây lúc nào cũng chỉ có tôi và con chó của mình, nhưng giờ anh ta lại ở đây và tôi không, không, không muốn biết lý do.
Anh ta mỉm cười nhìn xuống tôi, nụ cười ẩn sau bộ râu quai nón, mỉm cười khi tôi vẫn nằm trên cỏ.
Nắm đấm mỉm cười.
“Nhóc Todd, lời ăn tiếng nói,” anh ta lên tiếng, “trói buộc chúng ta như những tù nhân bị trói bởi cùng một sợi xích. Cậu không học được gì từ nhà thờ sao?” Rồi anh ta thốt lên những lời thuyết giảng quen thuộc nhất của mình. “Một người sa ngã, tất cả cùng sa ngã.”
Vâng, Aaron, tôi nghĩ.
“Dùng mồm mà nói, Todd.”
“Vâng, Aaron,” tôi đáp.
“Và những lời chửi thề ấy? Đừng nghĩ ta không nghe thấy chúng. Tiếng Ồn tiết lộ con người cậu. Tiết lộ con người tất cả chúng ta.”
Không phải tất cả, tôi nghĩ, nhưng đồng thời vẫn nói, “Xin lỗi, Aaron.”
Anh ta cúi xuống tôi, môi kề sát mặt, và tôi có thể ngửi thấy hơi thở đang phả ra từ miệng anh ta, ngửi thấy sức nặng của nó, như những ngón tay đang chộp lấy tôi. “Chúa nghe thấy,” anh ta thì thầm. “Chúa nghe thấy đấy.”
Aaron lại giơ một bàn tay lên và tôi co rúm người, anh ta cười rồi biến mất, quay về thị trấn, mang theo Tiếng Ồn của mình.
Tôi run rẩy, vì cảm giác rần rật do bị đánh, vì tức giận và ngạc nhiên, quá tức giận, quá chán ghét thị trấn này và những người đàn ông ở đây đến nỗi mất một lúc tôi mới có thể đứng dậy đi tìm con Manchee. Mà anh ta đang làm cái mịa gì ở đây? tôi điên tiết nghĩ, vẫn bừng bừng giận dữ và thù hằn (và sợ, phải, sợ, im đi) đến nỗi không thèm nhìn quanh để xem Aaron có nghe thấy Tiếng Ồn của tôi hay không. Tôi không nhìn. Tôi không nhìn.
Rồi tôi cũng nhìn và thấy con Manchee.
“Aaron, Todd? Aaron?”
“Đừng có nhắc đến cái tên đó nữa, Manchee.”
“Chảy máu, Todd. Todd? Todd? Todd? Chảy máu?”
“Biết rồi. Im mồm đi.”
“Ngu,” nó nói, như thể từ ấy chẳng có ý nghĩa gì, đầu nó cũng rỗng tuếch như bầu trời.
Tôi tét mông nó. “Cũng không được nhắc đến từ đó.”
“Ối? Todd?”
Chúng tôi tiếp tục đi, giữ khoảng cách với con sông bên trái. Sông chảy qua một loạt những khe sâu phía Đông thị trấn, bắt nguồn từ tít phía Bắc nông trại nhà chúng tôi, xuôi về bên hông thị trấn cho đến khi trải rộng ra thành một đầm cỏ rồi cuối cùng trở thành đầm lầy. Bạn phải giữ khoảng cách với con sông, đặc biệt là vùng đầm cỏ trước những rặng cây ở đầm lầy, vì đó là nơi cá sấu trú ngụ, chúng đủ lớn để xơi tái một thằng sắp-trở-thành- đàn-ông và con chó của nó. Những cái vảy trên lưng chúng trông như những cụm lau, và nếu đến quá gần thì, BÙM! - chúng sẽ vọt khỏi mặt nước, phóng thẳng vào bạn với những vuốt sắc nhăm nhe và cái mõm cắn đớp, và khi đó bạn sẽ chẳng có cơ hội sống sót nào đâu.
Chúng tôi đi qua vùng đầm cỏ và tôi đón nhận sự yên tĩnh của đầm lầy khi nó hiện ra. Chẳng còn gì để xem ở đây nữa, bởi vậy đàn ông không đến đây. Còn cả cái mùi nữa, tôi không vờ như không ngửi thấy, nhưng mùi không quá tệ như người ta nói. Họ ngửi mùi ký ức, thực vậy, họ không ngửi cái mùi có thực ở đây lúc này, họ ngửi mùi quá khứ. Tất cả những thứ đã chết. Xú và người có quan niệm khác nhau về mai táng. Xú chỉ cần đầm lầy, chỉ việc ném Xú chết xuống nước, để xác chìm, chẳng sao cả vì Xú phù hợp với kiểu mai táng đầm lầy, chắc vậy. Ben kể tôi thế. Nước, bùn dơ và da của Xú Vật hợp nhau, không làm ô uế, chỉ khiến đầm lầy màu mỡ hơn, như con người về với đất.
Rồi, dĩ nhiên, bỗng có nhiều Xú Vật cần mai táng hơn bình thường, quá nhiều để một đầm lầy lớn cỡ này có thể nuốt trọn, dù nó là một cái đầm cực kỳ lớn. Rồi chẳng Xú Vật nào còn sống, thì phải? Chỉ có thi thể Xú chồng chất thành từng đống trong đầm lầy, thối rữa và bốc mùi. Mất một thời gian dài để đầm lầy lại trở thành đầm lầy chứ không phải một đống hỗn độn đầy ruồi thối hoắc, và ai mà biết được chúng đã để dành đủ loại vi khuẩn nào cho chúng tôi.
Tôi ra đời giữa tất cả những thứ đó, đống lộn xộn đó, đầm lầy đông đúc, nghĩa trang đông đúc, và một thị trấn không đủ đông đúc, nên tôi chẳng nhớ được gì, chẳng còn nhớ về một thế giới không có Tiếng Ồn. Bố tôi chết vì bệnh trước khi tôi sinh ra, rồi dĩ nhiên, đến lượt mẹ tôi chết, chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Ben và Cillian đã mang tôi về nuôi nấng. Ben nói mẹ tôi là người phụ nữ cuối cùng, nhưng ai cũng nói vậy về mẹ họ. Có thể Ben không nói dối, chú ấy thực sự nghĩ vậy, nhưng ai mà biết?
Tôi là người trẻ nhất thị trấn. Tôi thường bày trò ném đá vào đám quạ hoang với Reg Oliver (lớn hơn tôi bảy tháng và tám ngày) cùng Liam Smith (lớn hơn tôi bốn tháng và hai chín ngày) và Seb Mundy, người trẻ nhì thị trấn, lớn hơn tôi ba tháng một ngày. Nhưng từ khi thành đàn ông rồi thì cậu ta cũng không thèm nói chuyện với tôi nữa.
Không thằng nhóc nào nói chuyện với tôi sau khi bước sang tuổi mười ba.
Đó là chuyện thường tình ở thị trấn Prentiss. Lũ con trai trở thành đàn ông và chúng đến dự những buổi họp dành riêng cho đàn ông để nói về những điều chỉ có Chúa mới biết. Lũ con trai hiển nhiên không được phép đến dự, và nếu bạn là thằng con trai cuối cùng trong thị trấn, bạn phải đợi, một mình.
Ừ thì, bạn và con chó mà bạn không muốn có.
Nhưng quên chuyện đó đi, đầm lầy đang ở trước mặt và chúng tôi tiếp tục đi, bám theo con đường vòng qua khu vực tệ hại nhất của vùng nước, luồn lách giữa những thân cây to tròn mọc vươn khỏi đầm lầy lên tới phần ngọn lá kim nhiều mét trên cao. Không khí đặc quánh và u ám nặng nề, nhưng không phải kiểu đặc quánh và u ám nặng nề đáng sợ. Ở đây có đầy rẫy sự sống, cực kỳ nhiều, không mảy may để ý đến thị trấn, nào chim nào rắn xanh, nào ếch nào bò xạ, cả hai loại sóc nữa, và (tôi thề với bạn) một hoặc hai con khổng điểu, dĩ nhiên có rắn đỏ cần dè chừng, và mặc dù nơi này tối tăm, vẫn có những vệt nắng trút xuống qua các khe hở giữa vòm cây. Và nếu bạn hỏi, dù nhiều khả năng bạn sẽ không hỏi, thì tôi thề với bạn, đối với tôi, đầm lầy giống như một căn phòng lớn, dễ chịu, và không quá ồn ào. Tối nhưng đầy sự sống, đầy sự sống nhưng thân thiện, thân thiện nhưng không chài níu.
Manchee nhấc chân lên đái vào gần như mọi thứ cho đến khi nó hẳn đã hết sạch nước tiểu, rồi chạy bổ vào một bụi cây, lẩm bẩm một mình, tìm chỗ để giải quyết công chuyện còn lại, chắc vậy.
Nhưng đầm lầy không bận tâm. Sao phải bận tâm? Chỉ là cuộc sống thôi, lặp lại chính nó, xoay vòng và ăn bản thân để sinh trưởng. Ý tôi là, không phải ở đây không ồn ào. Dĩ nhiên là có, không có cách nào để trốn khỏi Tiếng Ồn, dù ở bất cứ nơi đâu, nhưng nó yên tĩnh hơn thị trấn. Đây là một dạng ồn ào khác, vì sự ồn ào của đầm lầy chỉ mang tính tò mò, những sinh vật tìm hiểu xem bạn là ai và liệu bạn có phải một mối đe dọa hay không. Trong khi thị trấn biết mọi thứ về bạn mà vẫn muốn biết nhiều hơn nữa và muốn dùng những gì nó biết vùi dập bạn cho đến khi chẳng thể còn chút gì của bạn sót lại cả.
Còn Tiếng Ồn của đầm lầy chỉ là lũ chim đang bận bịu với những suy tư chim chóc vụn vặt. Thức ăn ở đâu? Nhà ở đâu? Chốn an toàn của tôi ở đâu? Và đám sóc màu nâu nhạt, những kẻ dị hợm tí hon, sẽ trêu chọc bạn nếu nhìn thấy bạn, sẽ trêu chọc lẫn nhau nếu không nhìn thấy bạn. Rồi lũ sóc màu hung giống như những đứa trẻ đần độn. Và đôi khi có cả những con cáo đầm lầy ẩn mình trong lá cây, ngụy trang Tiếng Ồn cho giống sóc mà chúng ăn thịt. Hiếm gặp hơn là bọn cú đang hát những bài ca cú vọ kỳ cục. Và có lần tôi thề là đã nhìn thấy một con khổng điểu bỏ chạy trên đôi chân dài, nhưng Ben nói rằng tôi nhầm, vì khổng điểu đã biến mất khỏi đầm lầy từ lâu.
Tôi không biết. Tôi tin những gì tôi nhìn thấy.
Manchee chạy ra khỏi bụi cây và ngồi xuống bên cạnh tôi, vì tôi đã dừng lại giữa đường. Nó liếc quanh để xem tôi đang nhìn gì, rồi nói, “Ị thích lắm, Todd.”
“Hẳn rồi, Manchee.”
Tốt nhất là họ đừng cho tôi một con chó chết tiệt nào nữa vào sinh nhật sắp tới. Thứ tôi muốn năm nay là con dao đi săn như con dao Ben vẫn đeo ở đai lưng. Đó mới là món quà cho một người đàn ông.
“Ị,” Manchee nói khẽ.
Chúng tôi tiếp tục đi. Khóm táo chính nằm sâu trong đầm lầy, qua vài con đường mòn và một thân cây đổ mà Manchee lần nào cũng cần bế qua. Đến chỗ đó, tôi luồn tay dưới bụng nó và nhấc lên. Mặc dù biết việc tôi đang làm, nó vẫn khua chân lung tung như một con nhện đang rơi, nhặng cả lên dù chẳng để làm gì.
“Yên nào, đồ ngu!”
“Thả xuống, xuống, xuống!” nó la oai oái, khua chân loạn xạ.
“Đồ chó ngu.”
Tôi đặt nó xuống thân cây và trèo lên. Chúng tôi nhảy sang phía bên kia, Manchee sủa ầm ĩ “Nhảy!” trong lúc đáp xuống và tiếp tục sủa “Nhảy!” lúc chạy đi.
Nhảy qua thân cây đổ là đến nơi bóng tối của đầm lầy bắt đầu, và thứ đầu tiên bạn nhìn thấy là những tòa nhà cũ của Xú Vật, vươn về phía bạn từ bóng tối, trông như những cục kem màu nâu đang tan chảy, nhưng là những cục kem to bằng căn lán. Không ai biết và cũng không ai nhớ chúng từng được dùng để làm gì. Ben đoán - mà Ben là kiểu người đoán hay trúng nhất - rằng chúng có liên quan đến việc mai táng Xú chết. Thậm chí có thể là một nhà thờ, mặc dù lũ Xú Vật không theo các loại đạo mà người ở thị trấn Prentiss biết.
Tôi giữ khoảng cách với các tòa nhà đó và tiến vào cụm rừng nhỏ có những cây táo dại. Táo đã chín, gần đen, gần ăn được, như Cillian thường nói. Tôi hái một quả và cắn, nước táo chảy xuống cằm.
“Todd?”
“Gì, Manchee?” tôi lấy túi cái nylon gấp nhét trong túi quần sau, bắt đầu hái táo bỏ vào.
“Todd?” Manchee lại sủa, lần này tôi nhận thấy vẻ khẩn trương của nó. Tôi quay đầu lại. Mõm nó đang hướng vào các tòa nhà của Xú Vật. Lông trên lưng nó xù lên và tai nó giật liên tục.
Tôi đứng thẳng dậy. “Gì đấy?”
Giờ thì nó gầm gừ, môi cong lại, răng nhe ra. Tôi cảm thấy máu trong người rần rật trở lại. “Là cá sấu ư?” tôi hỏi.
“Im lặng, Todd,” Manchee gầm gừ.
“Nhưng là cái gì?”
“Là im lặng, Todd.” Nó sủa khẽ, và đó là một tiếng sủa thực sự, một tiếng sủa của chó không có nghĩa gì hơn là “Gâu!”, và người tôi nóng ran, như thể cảm giác rần rần sắp trào ra qua da. “Nghe đi,” nó gầm gừ.
Nên tôi lắng nghe.
Rồi lắng nghe.
Tôi khẽ nghiêng đầu lắng nghe thêm chút nữa.
Có một lỗ hổng trong Tiếng Ồn.
Một thứ không thể có.
Nó kỳ quái, nó ở ngoài kia, lẩn trốn giữa những bụi cây hoặc đâu đó khuất tầm mắt, ở một nơi mà tai và tâm trí đang nói với bạn rằng không có Tiếng Ồn. Nó như một hình thù bạn không cách nào nhìn thấy trừ phi bạn quan sát mọi thứ bao quanh. Như nước có hình một cái cốc, nhưng không có cốc. Nó là một cái lỗ, và mọi thứ rơi vào đó không còn là Tiếng Ồn nữa, không còn là bất cứ gì nữa, cứ thế ngừng hẳn. Nó không giống sự im lặng của đầm lầy, vốn cũng chẳng phải im lặng thật sự, chỉ là đỡ ồn hơn. Nhưng thứ này, nó là một hình dạng, hình dạng của hư không, một cái hố nơi tất cả Tiếng Ồn ngừng lại.
Một việc không thể xảy ra.
Chẳng có gì ngoài Tiếng Ồn ở thế giới này, chẳng có gì ngoài những suy nghĩ không ngừng của đàn ông và những điều cứ nhảy bổ vào bạn, cứ nhảy, nhảy, kể từ khi lũ Xú Vật thả vi khuẩn Tiếng Ồn trong cuộc chiến, thứ vi khuẩn đã giết chết nửa số đàn ông và toàn bộ đàn bà, có cả mẹ của tôi, thứ vi khuẩn đã khiến toàn bộ đám đàn ông phát điên, thứ vi khuẩn đã đặt dấu chấm hết cho toàn bộ lũ Xú Vật khi cơn điên của đám đàn ông bắt đầu cầm súng.
“Todd?” Manchee đang sợ, tôi có thể nghe ra điều đó. “Cái gì, Todd? Cái gì thế, Todd?”
“Mày có ngửi thấy gì không?”
“Chỉ có mùi im lặng thôi, Todd,” nó sủa, rồi nó sủa lớn hơn, “Im lặng! Im lặng!”
Rồi, ở đâu đó trong tòa nhà của lũ Xú Vật, sự im lặng di chuyển.
Máu trong người tôi chảy rần rần, khiến tôi muốn khuỵu. Manchee chạy quanh tôi kêu ăng ẳng, sủa và sủa, khiến tôi càng rợn người hơn, nên tôi lại tét vào mông nó (“Ối, Todd?”) để tự trấn an.
“Làm gì có lỗ hổng,” tôi nói. “Làm gì có hư không. Vậy kia phải là một thứ gì đó, phải không?”
“Một thứ gì đó, Todd,” Manchee sủa.
“Mày có nghe thấy nó đi đâu không?”
“Nó im lặng, Todd.”
“Mày biết ý tao là gì mà.”
Manchee ngửi rồi tiến lên một bước, hai bước, lại gần tòa nhà của Xú Vật hơn. Vậy là giờ chúng tôi đi tìm nó. Tôi từ từ bước đến gần cục kem đang chảy cao nhất trong đám. Tôi tránh khỏi tầm nhìn của bất cứ thứ gì có thể đang ngó ra từ cánh cửa hình tam giác cong vẹo. Manchee ngửi khung cửa nhưng không còn gầm gừ, nên tôi hít sâu và bước vào trong.
Hoàn toàn trống rỗng. Trần nhà cao phải gấp đôi người tôi. Sàn đầy đất, thực vật đầm lầy đã mọc khắp nơi, cây leo và những thứ tương tự, nhưng chẳng có gì khác nữa. Ý tôi là chẳng có cái hư không nào, không lỗ hổng, không dấu vết của bất cứ thứ gì có thể từng ở đây.
Thật ngớ ngẩn, nhưng tôi phải nói ra.
Tôi tự hỏi có phải Xú Vật đã trở lại.
Nhưng điều đó là không thể.
Nhưng lỗ hổng trong Tiếng Ồn là điều không thế’.
Nên phải có một điều không thể nào đó là sự thật.
Tôi nghe thấy tiếng Manchee lại hít ngửi bên ngoài, nên tôi lẻn ra và sang tòa nhà thứ hai. Có chữ viết bên ngoài tòa nhà này, những từ duy nhất mà người ta từng thấy bằng ngôn ngữ Xú Vật. Có lẽ là những từ duy nhất chúng cảm thấy đáng được viết ra. Đó là những ký tự của Xú Vật, nhưng Ben nói chúng phát âm nghe giống es’Paqili hay đại loại như vậy, es’Paqili, Xú Vật, “Xú” nếu bạn muốn nói kiểu phỉ nhổ, mọi người vẫn nói kiểu đó từ khi chuyện xảy ra. Nghĩa là “Người”.
Cũng chẳng có gì ở tòa nhà thứ hai. Tôi trở ra đầm lầy và lại lắng nghe. Tôi cúi đầu xuống và lắng nghe, tôi dùng phần não mình dùng để nghe mà lắng nghe, và tôi lắng nghe, và lắng nghe.
Tôi lắng nghe.
“Im lặng! Im lặng!” Manchee sủa, sủa hai lần thật nhanh rồi chạy tọt đi, về phía tòa cuối cùng. Tôi bám theo Manchee, cũng chạy, máu trong người chảy rần rần, vì đó là nơi nó đang trú ngụ, đó là nơi lỗ hổng trong Tiếng Ồn đang trú ngụ.
Tôi có thể nghe thấy nó.
Ừ thì, tôi không nghe thấy nó, vấn đề là ở đó, nhưng khi tôi chạy về phía nó, sự trống rỗng của nó chạm vào ngực tôi và sự tĩnh lặng của nó giày vò tôi, và có thật nhiều im lặng ở đó, không, không phải im lặng, là câm lặng, câm lặng đến không tưởng, khiến tôi bắt đầu cảm thấy như mình bị xé toạc ra, như thể tôi sắp để mất thứ giá trị nhất trên đời, như thể nó đang ở đó, cái chết, tôi chạy và mắt tôi ướt nhòe và ngực tôi thít chặt và dù không ai nhìn nhưng tôi vẫn để ý và mắt tôi đổ lệ, chúng khóc, lệ rơi lệ vãi mịa nó chứ, và tôi dừng lại một lúc và tôi cúi gập người và quỷ tha ma bắt, mày im đi được chưa, nhưng tôi đã lãng phí một lúc ngu ngốc ấy, một lúc ngu ngốc chết tiệt mà cúi gập người ở đó, để rồi, dĩ nhiên, lỗ hổng bắt đầu di chuyển, nó đang bỏ chạy, nó đã đi mất.
Manchee hoang mang không biết nên đuổi theo hay quay lại bên tôi, nhưng cuối cùng nó quay lại với tôi.
“Khóc à, Todd?”
“Im mồm,” tôi nạt, vung chân đá nó. Và cố tình đá trượt.