NGOẠI TRUYỆN TÂN THẾ GIỚI
“NÓ KIA RỒI,” MẸ TÔI NÓI, và ý của bà là cái đốm mà chúng tôi đang tiến lại gần suốt vài tuần qua, cái đốm đang lớn dần với hai đốm nhỏ hơn chạy vòng quanh ấy, giờ đã lớn hơn nữa, từ cái đốm phình ra thành một chiếc đĩa, phản chiếu ánh sáng từ mặt trời của nó, cho đến khi bạn có thể nhìn thấy màu lam của các đại dương, màu lục của những khu rừng, màu trắng của hai cực, một hình cầu đầy màu sắc với nền đen phía sau.
Nhà mới của chúng tôi, nhà mới mà chúng tôi đã lên đường đi đến trước khi tôi ra đời từ rất lâu.
Chúng tôi là những người đầu tiên được tận mắt nhìn thấy nó, không phải qua kính thiên văn, không phải qua bản đồ máy tính, thậm chí không phải qua những bức tranh tôi vẽ trong giờ mỹ thuật của Bradley Tench trên chiếc Beta, mà qua chỉ vài phân kính trong đài quan sát của buồng lái.
Chúng tôi là những người đầu tiên được tận mắt nhìn thấy nó.
“Tân Thế giới,” bố tôi nói, đặt một tay lên vai tôi. “Con nghĩ chúng ta sẽ tìm thấy gì ở đó?”
Tôi khoanh tay trước ngực và lách khỏi ông.
“Viola?” ông hỏi.
“Con thấy rồi,” tôi đáp, bước ra ngoài buồng lái. “Nó đẹp tuyệt. Hoan hô. Con không thể đợi đến khi được đặt chân xuống đó.”
“Viola,” mẹ tôi gắt lúc tôi đóng cửa buồng lái sau lưng. Nó là cửa gấp nên tôi thậm chí còn không thể đóng sầm một cái.
Tôi đi thẳng vào phòng ngủ nhỏ xíu của mình và chỉ vừa đóng cửa lại thì có tiếng gõ. “Viola?” bố tôi gọi từ phía bên kia.
“Con mệt rồi,” tôi nói. “Con muốn đi ngủ.”
“Đang là một giờ chiều.”
Tôi không nói gì.
“Bốn tiếng nữa chúng ta sẽ vào quỹ đạo,” ông nói, giọng điềm tĩnh, không hề lớn tiếng trước thái độ của tôi. “Sẽ có việc để con làm sau hai tiếng nữa.”
“Con biết nhiệm vụ của mình,” tôi đáp, vẫn không mở cửa.
Có sự ngập ngừng. “Sẽ ổn thôi, Viola,” ông nói, giọng thậm chí còn dịu dàng hơn. “Rồi con sẽ thấy.”
“Làm sao bố biết?” tôi hỏi lại. “Bố cũng chưa bao giờ sống trên một hành tinh.”
“Thì,” ông nói, vẻ phấn khỏi, “bố có nhiều hy vọng.”
Lại nữa. Cái từ mà tôi phát ngán.
“Là chúng ta,” bố tôi nói vào ngày họ báo tin cho chúng tôi, và mặc dù ông đang cố tỏ ra nghiêm túc, tôi cũng có thể thấy ông đang giấu một nụ cười. Chúng tôi đang ăn tối, và dưới bàn, ông không ngừng nhịp chân.
“Chúng ta gì cơ?” tôi hỏi, dù có thể dễ dàng đoán ra.
“Chúng ta đã được chọn,” mẹ tôi nói. “Chúng ta là nhóm đổ bộ.”
“Chúng ta sẽ lên đường sau 91 ngày nữa,” bố tôi nói.
Tôi nhìn xuống đĩa, đột nhiên nó đựng một mớ thức ăn mà tôi không còn muốn cho vào mồm. “Con tưởng sẽ là bố mẹ của Steff Taylor?”
Bố tôi nén một nụ cười. Bố của Steff Taylor là một phi công tệ hại, ông ấy thậm chí chẳng thể lái từ con tàu này sang con tàu khác thuộc cùng đoàn hộ tống mà không làm hỏng một chiếc phi thuyền.
“Là chúng ta, con yêu ạ,” mẹ tôi nói, mẹ tôi, một phi công, mẹ tôi, người lái tàu giỏi hơn bố của Steff Taylor cả vạn lần, đến nỗi gần như chắc chắn bà là lý do chúng tôi được chọn. “Còn nhớ chúng ta đã nói về chuyện này chứ. Con đã rất phấn khích.”
Quả vậy. Tôi đã rất phấn khích khi họ nói với tôi rằng họ sẽ đứng ra ứng cử. Tôi thậm chí còn phấn khích hơn khi Steff Taylor bắt đầu khoe khoang rằng bố của nó đương nhiên sẽ được chọn.
Công việc này rất quan trọng. Chúng tôi sẽ rời khỏi tàu định cư và bỏ các gia đình điều dưỡng khác ở lại, phóng vào màn đen trống trải trong một chiếc tàu do thám nhỏ. Đoàn hộ tống vẫn còn cách hành tinh mười hai tháng bay nữa. Chúng tôi sẽ bay trong năm tháng và sống bảy tháng trên hành tinh - không chỉ bố mẹ, tôi cũng có việc phải làm - tìm nơi tốt nhất cho năm tàu định cư lớn hạ cánh và chuẩn bị cho những cuộc đổ bộ đầu tiên.
Nhưng tôi đã hứng khởi hơn lúc chúng tôi có thể được chọn. Ngạc nhiên thay tôi lại ít hứng khởi đi nhiều khi chúng tôi thực sự được chọn.
“Con sẽ được đào tạo nhiều hơn,” mẹ tôi nói. “Con sẽ được học nhiều hơn, như con muốn.”
“Đó là một vinh dự, Viola,” bố tôi nói. “Chúng ta sẽ là những người đầu tiên được nhìn thấy mái nhà mới.”
“Trừ phi những người định cư ban đầu vẫn đang ở đó,” tôi đáp.
Họ trao đổi một cái nhìn.
“Con không hài lòng với chuyện này sao, Viola?” mẹ tôi hỏi, mặt nghiêm túc.
“Liệu bố mẹ có từ chối chuyến đi nếu con không hài lòng?” tôi hỏi lại.
Và họ trao đổi một cái nhìn khác.
Và tôi biết điều đó có nghĩa là gì.
“Ba mươi phút nữa sẽ đến quỹ đạo,” mẹ tôi nói trong lúc tôi bước vào buồng lái, chỉ muộn một chút. Bà là người duy nhất ở đó. Bố hẳn đã xuống phòng động cơ, chuẩn bị để tiến vào quỹ đạo. Mẹ ngước lên nhìn hình ảnh phản chiếu của tôi trên màn hình. “Và cô ấy đã trở lại với chúng ta.”
“Đó là nhiệm vụ của con,” tôi nói, ngồi xuống bàn điều khiển vuông góc với bà. Đó là nhiệm vụ của tôi, nhiệm vụ mà tôi đã được đào tạo trong đoàn hộ tống và trong năm tháng ở đây. Mẹ sẽ điều khiển tàu vào quỹ đạo, bố sẽ chuẩn bị các động cơ đẩy để đưa chúng tôi xuống tầng khí quyển của hành tinh, và tôi sẽ theo dõi các khu vực có thể đáp.
“Có thông tin mới trong lúc con hờn dỗi,” mẹ tôi nói.
“Con không hờn dỗi…”
“Nhìn này,” mẹ nói, phóng to hình ảnh của lục địa lớn hơn trong hai lục địa phía Bắc.
“Cái gì vậy?”
Một dòng sông chảy về phía Đông, tới đại dương ở nửa hành tinh đang là ban đêm. Không thể biết chắc từ khoảng cách này, dù với máy dò của con tàu, nhưng cách dòng sông một đoạn là khoảng đất trống, có lẽ là một thung lũng, nơi khu rừng tách ra đôi chút và có thứ giống như ánh điện.
“Những người định cư khác ư?” tôi hỏi.
Những người định cư khác hầu như chỉ là một câu chuyện ma đối với chúng tôi. Chúng tôi đã không có liên lạc gì với họ suốt cả cuộc đời tôi lẫn cuộc đời bố mẹ, nên mọi người luôn nghĩ rằng họ không còn sống. Từ Cựu Thế giới đến Tân Thế giới là một quãng đường dài thật dài, hàng thập thập kỷ, nên họ vẫn còn đang bay khi đoàn của chúng tôi lên đường. Nhưng không ai nghe thấy tin tức gì từ họ. Ngay cả các máy dò không gian xa nhất cũng chỉ bắt được những tia sóng xa xôi trong lúc họ đang bay. Rồi đến thời điểm lẽ ra họ đã hạ cánh, vẫn nhiều năm trước khi tôi ra đời, chúng tôi đã hy vọng có thể liên lạc với họ trên hành tinh khi chúng tôi đến gần hơn, báo cho họ biết chúng tôi đang trên đường đến, hỏi họ ở đó như thế nào, chúng tôi phải chuẩn bị những gì.
Nhưng hoặc không có ai đang nghe, hoặc không còn ai ở đó nữa. Và khả năng thứ hai là điều khiến mọi người lo lắng.
Nếu họ không thể sống sót, liệu chúng tôi sẽ ra sao?
Bố tôi nói họ là những người định cư ôm mộng lý tưởng, rời khỏi Cựu Thế giới để xây dựng một cuộc sống đơn giản hơn, thuần nông nghiệp và sử dụng công nghệ thấp, với tôn giáo và những thứ kiểu thế. Với tôi, cả hai điều đó nghe thật ngu xuẩn và đồng thời có vẻ đã thất bại hoàn toàn. Nhưng khi chuyện gì đấy xảy ra với họ xảy ra thì chúng tôi đã bay được một quãng đường khá xa rồi, nên không còn đường quay lại, chỉ còn cách đi tiếp chặng đường cũ đến mục tiêu cũ, nơi chúng tôi sẽ tìm thấy kết cục thảm hại của chính mình, chắc chắn rồi.
“Sao chúng ta lại không nhìn thấy nó trước đây nhỉ?” tôi hỏi, nhoài người lại gần màn hình.
“Không có dấu hiệu năng lượng thực sự,” mẹ tôi đáp. “Nếu họ đang tự cung cấp điện, thì cũng không phải là nhờ các máy phân hạch lớn như chúng ta những tưởng.”
“Có sông,” tôi nói. “Nên có thể là thủy điện.”
“Hoặc có thể nó trống không.” Giọng mẹ nhỏ xíu trong lúc chúng tôi nhìn màn hình. “Khó mà biết liệu đó thực sự là ánh điện hay chỉ là những đốm sáng cảm ứng.”
Khoảng đất trống gần dòng sông bắt đầu trôi xa dần. Chúng tôi đang tiến vào quỹ đạo từ hướng khác, về phía Tây, bay quanh hành tinh một vòng trong lúc tiến vào tầng khí quyển, rồi trở lại phía bên kia để hạ cánh.
“Đó là nơi chúng ta đang hướng đến ư?” tôi hỏi.
“Đó là nơi tốt để bắt đầu,” mẹ tôi đáp. “Nếu họ đã không thể sinh tồn thì điều đầu tiên chúng ta cần làm là học hỏi từ những sai lầm của họ.”
“Hoặc chết theo cùng một cách.”
“Chúng ta có công nghệ tốt hơn,” mẹ tôi nói. “Và theo chúng ta biết, họ đã từ bỏ những gì họ có, đó có thể là lý do khiến họ thất bại.” Bà nhìn tôi. “Việc ấy sẽ không xảy ra với chúng ta.”
Mẹ hy vọng thế, tôi tự nhủ.
Cả hai chúng tôi cùng quan sát trong lúc lục địa trôi đi bên dưới.
“Sẵn sàng,” bố nói qua bộ đàm.
“Vậy thì hãy bắt đầu đếm ngược mười phút,” mẹ nói, rồi nhấn nút đếm ngược.
“Mọi người đều cảm thấy hứng khởi chứ?” bố hỏi.
“Vài người thôi,” mẹ đáp, cau mày nhìn tôi.
“Tớ rất mừng vì nhà tớ không đi,” Steff Taylor nói lúc gặp tôi trên lớp lần đầu tiên sau khi có thông báo rằng bố mẹ tôi là nhóm đổ bộ chứ không phải bố mẹ nó. Đó thực ra là lớp học ưa thích của tôi, lớp mỹ thuật của Bradley trên chiếc Beta. Bradley cũng dạy chúng tôi toán và nông nghiệp, và gần như là người tôi thích nhất trong cả đoàn, dù anh ấy bắt tôi ngồi cạnh Steff Taylor vì chúng tôi là hai đứa con gái duy nhất cùng độ tuổi trong số tất cả gia đình điều dưỡng.
May mắn thay cho chúng tôi.
“Sẽ thật buồn tẻ,” Steff nói, đưa ngón tay xoắn tóc. “Năm tháng trên chiếc tàu bé xíu mà chỉ có bố mẹ làm bạn.”
“Tớ có thể hội thoại màn ảnh với bạn bè và cả lớp,” tôi đáp.
“Và tớ thích bố mẹ mình.”
Nó cười nhạo báng. “Cậu sẽ không còn thích họ sau năm tháng.”
“Steff, cậu vẫn thường khoe mẽ việc bố cậu…”
“Rồi khi hạ cánh, cậu sẽ phải sống ở đó với những loại thú đáng sợ chỉ có Chúa mới biết là gì, và phải hy vọng rằng mình có đủ thức ăn để tồn tại, rồi còn thời tiết nữa chứ, Viola. Thời tiết thực sự ấy.”
“Bọn tớ sẽ là những người đầu tiên tận mắt thấy nó.”
“Ồ, xin lỗi,” nó nói. “Những người đầu tiên nhìn thấy một hố bùn hoang vu.” Nó xoắn tóc mạnh hơn một chút. “Những người đầu tiên chết ở đó thì có.”
“Steff Taylor!” Bradley quát từ bục giảng. Những đứa trẻ đang khom người trước ảnh nghệ thuật tương tác của chúng bỗng ngước lên nhìn.
“Em đang làm,” Steff nói, miết tay trên bảng vẽ.
“Thật sao?” Bradley hỏi. “Vậy em có thể lên đây cho mọi người thấy em đã làm được những gì.”
Steff nhăn mặt, cái nhăn mặt đồng nghĩa với một mối thù nữa mà nó sắp thêm vào danh sách dài thật dài của mình. Nó đứng dậy hết sức từ tốn.
“Sinh nhật thứ mười ba,” nó thì thầm với tôi. “Một mình.”
Tôi có thể thấy được qua vẻ thỏa mãn trên khuôn mặt của nó rằng tôi đã phản ứng đúng như những gì nó muốn.
“120 giây trước khi tiến vào quỹ đạo,” mẹ tôi thông báo.
“Ở đây đã sẵn sàng,” bố tôi đáp lại qua bộ đàm, và tôi có thể nghe thấy các động cơ đang thay đổi tốc độ trong lúc chúng tôi chuẩn bị ngừng quá trình rơi xuống từ ngoài vũ trụ tối đen và bắt đầu quá trình lao xuyên qua tầng khí quyển của hành tinh.
“Ở đây cũng đã sẵn sàng,” tôi nói, mở các màn hình mà tôi sẽ không phải sử dụng cho đến khi chúng tôi tới gần mặt đất, tìm một nơi đủ trống trải để đáp xuống. Một khoảng rừng thưa, nếu tôi làm việc của mình đủ giỏi, nơi chúng tôi có thể xây dựng thị trấn đầu tiên của mình.
“90 giây,” mẹ tôi thông báo.
“Động cơ đang mở,” bố tôi nói, và tốc độ lại thay đổi. “Tiếp ô xy cho nhiên liệu.”
“Thắt đai an toàn vào,” mẹ tôi ra lệnh.
“Con thắt rồi,” tôi đáp, rồi quay ghế đi để có thể thắt đai mà không để mẹ tôi trông thấy.
“60 giây,” mẹ tôi thông báo.
“Một phút nữa thôi chúng ta sẽ là những người đầu tiên đến đây!” bố tôi hét lên qua bộ đàm.
Mẹ tôi bật cười. Tôi thì không.
“Ồ, thôi nào, Viola,” mẹ tôi nói. “Việc này thực sự rất đáng phấn khích mà.” Mẹ tôi kiểm tra một trong số các màn hình của bà, gõ các đầu ngón tay lên nó, rồi nói, “30 giây.”
“Con thích hồi ở tàu,” tôi nói, khẽ nhưng rất nghiêm túc khiến mẹ tôi quay lại nhìn. “Con không muốn sống dưới đó.”
Mẹ tôi cau mày. “15 giây.”
“Nhiên liệu đã sẵn sàng!” bố tôi nói. “Tiến vào tầng khí quyển thôi!”
“Mười,” mẹ tôi đếm, vẫn nhìn tôi. “Chín.”
Và đó là lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ, cực kỳ tồi tệ.
“Cả một năm trời,” tôi than vãn với Bradley trong buổi huấn luyện diễn ra chưa đầy một tháng trước khi chúng tôi lên đường. “Một năm xa các bạn, một năm xa bài vở…”
“Và nếu em ở lại,” anh nói, “đó sẽ là một năm xa bố mẹ.”
Tôi ngoái lại nhìn lớp học trống. Nó thường chật ních những đứa trẻ của các gia đình điều dưỡng khác, học tập, nói chuyện với nhau. Nhưng hôm nay chỉ có tôi và Bradley, thảo luận một số công nghệ khoa học cho chuyến đi. Ngày mai Simone từ chiếc Gamma - người mà tôi nghĩ Bradley thầm thích - sẽ dạy tôi các kỹ năng sinh tồn trong trường hợp khẩn cấp, phòng khi có chuyện tồi tệ xảy ra. Nhưng cũng sẽ chỉ có tôi và chị ấy trong căn phòng này, tách biệt khỏi tất cả những người khác.
“Nhưng tại sao phải là bọn em?” tôi hỏi.
“Vì gia đình em là những người phù hợp nhất cho công việc này,” Bradley đáp. “Mẹ em có lẽ là phi công giỏi nhất của chúng ta, và bố em là một kỹ sư có trình độ cao…”
“Còn em thì sao? Tại sao em phải trả giá cho những gì họ giỏi?”
Anh ấy mỉm cười. “Em không chỉ là một cô gái thông thường. Em đứng đầu môn toán. Em là gia sư âm nhạc các cô cậu nhỏ tuổi ưa thích…”
“Và vì thế em phải chịu bị cách ly khỏi những người mình biết trong suốt một năm?”
Anh ném cho tôi một cái nhìn, rồi gõ thật nhanh lên thiết bị huấn luyện ở trước mặt, nhanh đến nỗi tôi thậm chí chẳng thể thấy anh đang làm gì. “Đọc tên cái này,” anh nói bằng giọng giảng bài khiến tôi trả lời ngay lập tức.
“Tầng đất cát,” tôi đọc, nhìn địa hình giả lập mà anh đã chọn. “Tiêu nước tốt, nhưng khô. Tưới tiêu ít nhất tám năm mới đủ điều kiện gieo trồng.”
“Và cái này?” anh ấy hỏi, lại gõ lên thiết bị.
“Rừng ôn đới. Ít khoảng rừng thưa, tốt cho gia súc, nhưng môi trường khắc nghiệt.”
“Còn cái này?”
“Cận sa mạc. Nông nghiệp tự cung. Bradley…”
“Em có kỹ năng, Viola. Em sáng dạ và tháo vát, ngay cả ở độ tuổi của mình, em vẫn sẽ là một phần quan trọng của nhiệm vụ.”
Vì một lý do ngu ngốc nào đó, tôi không trả lời, chỉ cảm thấy mắt mình đang ướt nhẹp.
“Thực ra em sợ gì?” Bradley hỏi. Tôi nhẹ nhàng ngước lên nhìn vào cặp mắt nâu của anh ấy, vào sự tử tế của nụ cười đang nở trên làn da ngăm, những lọn tóc bạc nho nhỏ chỉ vừa bắt đầu lộ ra ở hai thái dương. Tôi chẳng thấy gì ngoài sự ấm áp.
“Mọi người cứ nói đến hy vọng suốt,” tôi đáp, và nuốt khan.
Giọng Bradley dịu dàng đến không chịu nổi. “Viola…”
“Em không sợ,” tôi nói dối, lại nuốt khan. “Chỉ là em sẽ bỏ lỡ buổi tiệc sinh nhật lần thứ mười ba, và lễ tốt nghiệp để lên lớp năm…”
“Nhưng em sẽ được thấy những điều không ai khác được thấy. Quỷ tha ma bắt, em sẽ trở thành một chuyên gia khi mọi người hạ cánh, trở thành người mà ai cũng tìm đến để hỏi ý kiến.”
Tôi khoanh tay trước ngực. “Họ sẽ chỉ nghĩ em là một đứa khoe mẽ.”
“Họ đang nghĩ vậy rồi,” anh nói, nhưng anh đang mỉm cười.
Và tôi không muốn cười đáp lại.
Nhưng tôi vẫn cười. Chỉ một chút thôi.
Có tiếng va đập nhỏ ở đáy con tàu khi chúng tôi đụng phải những dòng khí đầu tiên của tầng khí quyển.
Ngay lập tức mẹ và tôi ngẩng đầu lên. Đó là tiếng đập bất thường.
“Gì vậy?” mẹ tôi hỏi.
“Anh nghĩ…” bố tôi đáp.
Rồi một tiếng RẦM bất chợt vang lên qua bộ đàm và tiếng thét báo động của bố tôi…
“Thomas!” mẹ tôi hét.
“Nhìn kìa!” tôi thét, chỉ vào các thiết bị hiển thị đang lóe sáng, từng cái một.
Phòng động cơ đang bốc cháy và các lối thoát hiểm đã bị phong tỏa để chặn lửa.
Chúng làm vậy khi bố tôi vẫn đang ở trong.
“Bố!” tôi gào lên…
Rồi thật nhanh, mọi chuyện thay đổi.
Mẹ điên cuồng nhấn các thiết bị hiển thị, cố mở ống thông động cơ để thổi ngọn lửa ra khỏi con tàu…
“Chúng không phản ứng!” mẹ tôi hét. “Thomas, anh có nghe thấy em không?”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” tôi hét, vì tiếng gầm của tầng khí quyển đang lớn hơn rất nhiều so với trong môi trường giả lập.
“Đáng lẽ nó không dày đến thế,” mẹ tôi hét lên đáp, ý nói tầng khí quyển, và ruột gan tôi chùng xuống trong lúc tôi tự hỏi rằng liệu đây có phải là chuyện đã xảy,ra với những người định cư ban đầu hay không. Có lẽ họ thậm chí còn chưa đến được bề mặt hành tinh.
“Con sẽ xuống tìm bố,” tôi nói, tháo đai an toàn và đứng dậy …
Nhưng có một tiếng bùm khác và con tàu nghiêng hẳn sang một bên. Tôi ngã xuống, tay bám vào ghế. Mẹ tôi ghì chặt cần điều khiển bằng tay và vật lộn để đưa chúng tôi trở về vị trí cũ. “Viola, mẹ cần con tìm cho chúng ta một chỗ để hạ cánh! Ngay lập tức!”
“Nhưng bố…”
“Mẹ không thể đưa chúng ta bay lên, nên chúng ta phải hạ cánh! Ngay bây giờ, Viola!”
Tôi ngồi xuống và thắt đai an toàn, tay tôi run rẩy.
“Tìm khoảng trống gần sông ấy!” mẹ tôi nói.
“Nó ở phía bên kia hành tinh,” tôi đáp, nhưng qua cách con tàu đang rung chuyển, tôi biết chúng tôi đang bay xuyên qua tầng khí quyển nhanh hơn nhiều so với mức đã định.
“Cứ tìm đi!” mẹ tôi hét lên. “Nếu có người ở đó…”
Và tôi có thể thấy trên khuôn mặt của bà rằng bà đang lo lắng cho bố tôi đến mức nào, và tôi biết nếu bà đang vật lộn với con tàu thay vì xuống đó tìm bố, thì chúng tôi đang gặp rắc rối lớn hơn nhiều so với tôi nghĩ…
“Tớ sẽ nhớ cậu,” Steff Taylor nói trong buổi tiệc chia tay chúng tôi, giọng nó the thé, nghe càng có vẻ giả tạo hơn.
Tất cả các gia đình điều dưỡng đều đã tụ tập ở phòng hội nghị của chiếc Delta cho bữa tiệc, rất vui khi có một cái cớ để chè chén và nói lời tạm biệt. Steff kéo tôi vào lòng trong cái ôm xéo người để tất cả những người xung quanh có thể nhìn thấy khuôn mặt của nó, và thấy nó đang buồn đến mức nào khi tôi phải đi xa trong một năm. Rồi nó buông tôi ra và ngã vào lòng mẹ nó, tiếng thút thít to hơn bất kỳ ai khác trong phòng.
Bradley lại gần, vẻ thích thú. “Anh chắc Steff sẽ vượt qua nỗi buồn tốt hơn anh,” anh nói, đưa cho tôi một món quà được gói cẩn thận. “Đừng mở ra cho đến khi em hạ cánh.”
“Cho đến khi hạ cánh?” tôi hỏi. “Còn năm tháng nữa đấy.”
Anh ấy mỉm cười và hạ giọng. “Em có biết điều gì tách biệt chúng ta khỏi những loài cầm thú không, Viola?”
Tôi cau mày, cảm thấy một bài học đang đến. “Khả năng đợi đến khi mở quà?”
Bradley phá lên cười. “Lửa,” anh ấy nói. “Khả năng tạo lửa theo ý muốn. Nó cho phép chúng ta nhìn thấy trong bóng tối, sưởi ấm giữa cái lạnh, một công cụ để nấu thức ăn.” Anh vẫy tay lơ đãng về phía các động cơ của chiếc Delta. “Lửa cuối cùng đã dẫn đến khả năng du hành vũ trụ, khả năng xây dụng một cuộc sống mới ở Tân Thế giới.”
Tôi nhìn xuống gói quà.
“Em đang sợ,” anh ấy nói. Lần này không phải là một câu hỏi.
Tôi nhún vai. “Một chút.”
Anh ấy cúi xuống thì thầm với tôi. “Anh cũng sợ.”
“Thật sao?”
Anh ấy gật đầu. “Ông của anh là người cuối cùng trong số các điều dưỡng viên ban đầu của đoàn qua đời, người cuối cùng trong số chúng ta thực sự được hít thở không khí trên một hành tinh thay vì trên một con tàu.”
Tôi đợi anh ấy tiếp tục. “Và?”
“Ông không có lời nào tốt đẹp để nói về nó,” anh ấy đáp. “Cựu Thế giới đã trở nên ô nhiễm, chật chội và đang chết dần vì chính chất độc của mình. Đó là lý do khiến chúng ta bỏ đi, để tìm một nơi tốt đẹp hơn, một nơi chúng ta có thể cố hết sức để không hủy hoại như đã làm với Cựu Thế giới.”
“Em biết tất cả những điều ấy…”
“Nhưng những người còn lại cũng giống em, Viola. Chúng ta chưa từng thấy nơi nào lớn hơn khoang chở hàng của chiếc Gamma. Anh cũng không biết không khí trong lành có mùi như thế nào ngoại trừ thứ họ có trong những đoạn băng mô phỏng, và đó không phải là đồ thật. Ý anh là, em có thể hình dung một đại dương thực sự là như thế nào không, Viola? Nó lớn đến mức nào? Chúng ta nhỏ bé đến mức nào khi đem ra so sánh?”
“Những lời này sẽ khiến em cảm thấy khá hơn sao?”
“Phải.” Anh mỉm cười và gõ vào món quà mà tôi đang cầm. “Vì em sẽ có một thứ giúp em chống lại bóng tối.”
Món quà nhỏ xíu trên tay tôi, nhưng nặng và chắc. “Chỉ có điều em không thể mở nó cho tới khi đến nơi.”
“Làm sao anh biết được?” anh hỏi. “Anh chỉ có thể tin tưởng ở em thôi.”
Tôi ngước lên nhìn. “Em sẽ đợi,” tôi nói. “Em hứa.”
“Và tớ sẽ bỏ lỡ sinh nhật của cậu ấy!” Steff Taylor lớn tiếng than vãn, ném cho tôi một cái nhìn, và tôi có thể thấy ít nhất đôi mắt của nó không hề buồn rầu.
“Anh sẽ gặp lại em sau mười hai tháng nữa, Viola,” Bradley nói. “Và khi anh đến nơi, hãy đảm bảo rằng anh là người đầu tiên được nghe em kể màn đêm trông như thế nào trong ánh lửa.”
Tàu do thám có vẻ sắp gãy lìa bất cứ lúc nào. Tầng khí quyển đang đập cho chúng tôi nẩy tưng tưng và mẹ phải gắng hết sức để giữ cho tàu bay thẳng.
Thi thoảng bà gọi bố, nhưng vẫn không có tiếng trả lời.
“Viola, chúng ta đang ở đâu?!” bà hét lên, vật lộn với cần điều khiển.
“Chúng ta đang bay vòng lại!” tôi hét trả, cố át đi tiếng gầm của mọi thứ xung quanh. “Nhưng chúng ta đang bay quá nhanh. Con nghĩ chúng ta sẽ bay quá mất.”
“Mẹ sẽ gắng hết sức để hạ cánh. Con có nhìn thấy gì trên máy quét không? Bất cứ thứ gì phía trên dòng sông nơi chúng ta có thể hạ cánh?”
Tôi gõ màn hình nhưng chúng đang nẩy cà tưng như mọi thứ khác trên con tàu. Các động cơ vẫn đang đẩy chúng tôi bay đi và chúng tôi gần như đang rơi xuống hành tinh, quá nhanh mà không có cách nào để giảm tốc độ. Chúng tôi đang lao xuống một đại dương khổng lồ và tôi có thể thấy mẹ đang lo rằng chúng tôi sẽ phải hạ cánh giữa biển…
Nhưng lục địa đang xuất hiện trên màn hình, tối om vì đang là ban đêm, chúng tôi lao xuống quá nhanh và đột nhiên đã ở ngay phía trên nó, mặt đất trôi tuột bên dưới.
“Sắp đến chưa?” mẹ tôi hét.
“Đợi chút!” tôi kiểm tra bản đồ. “Chúng ta đang ở phía Nam! Cách khoảng 16 cây số!”
Bà vật lộn với cần điều khiển bằng tay, cố đưa chúng tôi về phía Bắc một chút. “Quỷ tha ma bắt!” Tàu nghiêng bặt và tôi đập cùi chỏ xuống bàn điều khiển, để trôi mất bản đồ trong giây lát.
“Mẹ?” tôi gọi, giọng lo lắng và sợ hãi trong lúc tìm cách mở lại bản đồ.
“Mẹ biết, con yêu,” bà đáp, gằn lên với cần điều khiển.
“Bố thì sao?”
Bà không nói gì nhưng tôi có thể thấy tất cả trên gương mặt bà. “Chúng ta phải tìm chỗ hạ cánh, Viola! Rồi chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể để cứu bố con!”
Tôi quay lại với bản đồ. “Có vẻ đầu tiên sẽ là một đồng cỏ,” tôi nói, “nhưng nhiều khả năng chúng ta sẽ bay qua nó.” Tôi gõ qua một số bản quét khác. “Một đầm lầy!” tôi nói. Mẹ đã đưa chúng tôi hướng về phía Bắc trở lại, tới dòng sông mà chúng tôi đã nhìn thấy, có vẻ là chảy tới đầm lầy.
“Chúng ta sẽ xuống đủ thấp chứ?” mẹ tôi hét.
Tôi gõ qua vài màn hình và cho hiện thiết lập hạ cánh. “Sít sao ạ.”
Tàu rung lên dữ dội.
Rồi sự im lặng kỳ quái ập đến.
“Các động cơ đã hỏng,” mẹ tôi giải thích. “Các ống thông gió không chịu mở. Lửa đã nuốt trọn.” Mẹ quay sang tôi. “Chúng ta đang rơi tự do. Lập trình hướng bay cho mẹ và bám chặt vào.”
Tôi gõ thật nhanh qua các màn hình, khóa tọa độ hạ cánh ở khu vực mà tôi hy vọng là một đầm lầy mềm.
Mẹ kéo mạnh cần điều khiển, chỉnh màn hình cho khớp với đường đi mà tôi đã lập trình. Tôi đã có thể nhìn thấy mặt đất quá rõ qua cửa kính, những ngọn cây đang càng lúc càng gần hơn bên dưới.
“Mẹ?” tôi gọi, dõi mắt quan sát trong lúc chúng tôi lao xuống thấp hơn.
“Bám chặt!” mẹ tôi đáp.
“MẸ!”
Rồi chúng tôi va chạm.
“Chúc mừng sinh nhật!” họ hét lên trong ngày trọng đại, phục kích tôi tại bữa sáng với buổi tiệc bất ngờ kém bất ngờ nhất trong lịch sử vũ trụ.
“Cảm ơn,” tôi lẩm bẩm.
Chúng tôi đã rời đoàn hộ tống ba tháng trước, nhìn nó nhấp nháy khuất khỏi tầm mắt sau lưng trong lúc chúng tôi bay nhanh thật nhanh. Chúng tôi vẫn còn cách hành tinh mới tám tuần bay, tám tuần dài đằng đẵng trên con tàu đang bắt đầu bốc mùi, bất kể không khí đã được lọc đến mức nào đi chăng nữa.
“Quà!” bố tôi nói, khoát tay qua đống quà được bọc cẩn thận đặt trên bàn.
“Ít nhất con cũng nên gắng tỏ ra vui vẻ, Viola,” mẹ tôi nói.
“Cảm ơn,” tôi nhắc lại, to hơn. Tôi mở món quà đầu tiên, một đôi ủng mới, dùng để leo núi hay đi trên những địa hình lởm chởm, màu sắc hoàn toàn sai sở thích, nhưng tôi giả bộ thốt lên đầy cảm kích.
Tôi mở món thứ hai.
“Ống nhòm,” bố tôi nói trong lúc tôi lấy nó ra. “Mẹ con đã nhờ Eddie, kỹ sư trên tàu Alpha, cải tiến trước khi chúng ta lên đường. Con không thể tin nổi thứ này có thể làm được những gì đâu. Tầm nhìn ban đêm, phóng to trên màn hình…”
Tôi đưa lên mắt và nhìn thấy con mắt trái khổng lồ của bố đang nhìn lại mình.
“Nó cười rồi kìa,” bố nói và nụ cười rạng rỡ của ông choán hết ống nhòm.
“Đâu có,” tôi đáp.
Mẹ rời khỏi phòng và quay lại với bữa sáng yêu thích của tôi, một chồng bánh kếp với mười ba sợi quang học cảm biến chuyển động đang tỏa sáng trên cùng. Họ hát mừng sinh nhật và mất bốn lần vẫy tay thì tôi mới tắt được hết những sợi quang.
“Con đã ước gì thế?” bố tôi hỏi.
“Nếu con nói với bố, nó sẽ không trở thành sự thực,” tôi đáp.
“Chúng ta sẽ không quay tàu lại đâu,” mẹ tôi nói, “nên mẹ hy vọng đó không phải là điều con đã ước.”
“Hy vọng!” bố tôi nói lớn, át đi tiếng mẹ bằng sự hồ hỏi gượng gạo. “Đó là những gì chúng ta nên ước. Hy vọng!”
Tôi nhăn mặt vì lại nghe thấy từ ấy.
“Bố mẹ cũng đã lấy thứ này ra,” bố tôi nói, chạm vào món quà vẫn được gói của Bradley. “Phòng khi con muốn mở nó luôn.”
Tôi nhìn vào mặt bố mẹ. Bố rạng rỡ và hạnh phúc. Mẹ khó chịu vì tất cả những lời ca thán của tôi nhưng vẫn cố cho tôi một bữa tiệc sinh nhật vui vẻ. Và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi cũng thấy sự lo lắng của họ dành cho mình.
Họ lo rằng dường như tôi không hề có lấy một chút hy vọng.
Tôi nhìn món quà của Bradley. Một tia sáng để chống lại bóng tối, anh ấy sẽ nói vậy.
“Anh ấy đã dặn chỉ được mở quà khi đã đến nơi,” tôi đáp. “Nên con sẽ đợi.”
Tiếng động khi chúng tôi va chạm lớn đến khó tin.
Con tàu tông qua những ngọn cây, đập chúng thành mảnh vụn, rồi chạm đất bằng cú nẩy dữ dội khiến tôi đập đầu vào bảng điều khiển và đau điếng nhưng vẫn còn tỉnh, đủ tỉnh táo để nghe thấy con tàu đang bắt đầu gãy rời, đủ tỉnh táo để nghe thấy mọi tiếng rầm, rắc và ken két khi chúng tôi đào một cái rãnh dài qua đầm lầy, đủ tỉnh táo khi con tàu lật hết lần này đến lần khác, có nghĩa hai cánh đã gãy lìa, và mọi thứ trong buồng lái bắn lên trần nhà rồi lại rớt xuống. Rồi có một tiếng rắc thực sự trong kết cấu của buồng lái và nước tràn vào từ đầm lầy nhưng rồi chúng tôi lại lăn tròn…
Rồi chúng tôi giảm tốc độ…
Cú lăn cũng chậm lại…
Tiếng ma sát của kim loại đinh tai nhức óc, và các bóng đèn chính tắt ngúm khi chúng tôi xoay thêm một vòng, ngay lập tức được thay bằng các bóng chạy pin chập chờn…
Và cú lăn tiếp tục chậm lại…
Chậm lại, cho đến khi…
Nó dừng hẳn.
Và tôi vẫn thở. Đầu tôi xoay mòng và đau nhói. Tôi gần như chổng ngược người, được giữ lại bởi đai an toàn trên ghế.
Nhưng tôi vẫn thở.
“Mẹ?” tôi gọi, nhìn quanh quất xuống dưới. “Mẹ?” “Viola?” tôi nghe thấy.
“Mẹ?” tôi xoay người đến nơi đáng lẽ là có ghế của bà…
Nhưng nó không ở đó…
Tôi tiếp tục xoay người…
Và bà kia rồi, nằm tựa vào trần nhà, ghế của bà bị bật khỏi sàn…
Và cách bà nằm đó…
Cách bà nằm đó vặn vẹo…
“Viola?” mẹ tôi nhắc lại.
Và cách bà nói khiến ngực tôi thít chặt lại như một nắm đấm. Không, tôi nghĩ. Không.
Và tôi cố thoát khỏi ghế để lại chỗ bà.
“Mai là ngày trọng đại đấy, Hoa Tiêu,” bố nói khi bước vào phòng động cơ nơi tôi đang thay các ống tản nhiệt, một trong hàng triệu công việc mà tôi phải làm hằng ngày, những việc họ đã nghĩ ra trong năm tháng vừa qua để tôi luôn bận rộn. “Cuối cùng chúng ta cũng sẽ tiến vào quỹ đạo.”
Tôi lắp vào ống tản nhiệt cuối cùng. “Tuyệt.”
Ông ngập ngừng. “Bố biết những ngày vừa qua không dễ dàng với con, Viola.”
“Sao bố phải bận tâm cuộc sống của con có dễ dàng hay không?” tôi hỏi. “Con đâu có quyền lên tiếng.”
Ông lại gần hơn. “Thôi nào, con đang thực sự sợ gì, Viola?” Và câu đó giống hệt câu Bradley đã hỏi, khiến tôi phải ngước lên nhìn ông. “Những gì chúng ta sẽ tìm thấy ở đó? Hay chỉ là những thay đổi?”
Tôi thở dài nặng nề. “Có vẻ không ai thèm bận tâm xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta ghét phải sống trên một hành tinh. Nếu bầu trời quá lớn thì sao? Nếu không khí bốc mùi thì sao? Nếu chúng ta đói ăn thì sao?”
“Và nếu không khí có vị mật ong? Nếu có quá nhiều đồ ăn đến nỗi chúng ta phát phì? Nếu bầu trời quá đẹp khiến chúng ta chẳng thể làm được gì vì mải ngắm nó?”
Tôi quay người và đóng các hộp đựng ống tản nhiệt. “Nếu không được như thế thì sao?”
“Nếu được thì sao?”
“Nếu không thì sao?”
“Nếu được thì sao?”
“Cuộc trò chuyện này thật hữu ích.”
“Chẳng phải chúng ta đã dạy con phải biết hy vọng sao?” bố tôi hỏi. “Chẳng phải lý do khiến bà cố của con đồng ý trở thành điều dưỡng viên trên tàu là để một ngày kia con có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn sao? Bà đã đầy hy vọng. Mẹ con và bố đang đầy hy vọng.” Ông đã đến đủ gần để ôm tôi, nếu tôi muốn. “Tại sao con không được một phần như vậy?”
Và trông ông thật ân cần, thật lo lắng, nên làm sao tôi có thể nói với ông? Rằng tôi ghét cái từ ấy đến nhường nào?
Hy vọng. Mọi người trong đoàn cứ nói về nó suốt, nhất là khi chúng tôi đến gần hơn. Hy vọng, hy vọng, hy vọng.
Như là, “Tôi hy vọng thời tiết sẽ đẹp.” Lời ấy được thốt lên bởi những người chưa bao giờ trải nghiệm thời tiết thực sự, mà chỉ được trông thấy thời tiết trong các đoạn băng mô phỏng.
Hoặc, “Tôi hy vọng đời sống hoang dã ở đó thú vị.” Từ những người chỉ được gặp Scampus và Bumpus, hai con mèo trên chiếc Delta. Mười nghìn phôi thai của cừu và bò thì không tính.
Hoặc, “Tôi hy vọng người bản địa sẽ thân thiện.” Lời ấy luôn được nói ra kèm một tiếng cười vì sẽ không thể có người bản địa nào hết, ít nhất là theo báo cáo của các tàu thăm dò vũ trụ.
Ai cũng đang hy vọng một điều gì đấy, nói về cuộc sống mới sắp tới của chúng tôi và tất cả những điều họ hy vọng sẽ có được. Không khí trong lành, bất kể nó có nghĩa là gì. Trọng lực thực sự, thay vì thứ trọng lực giả mà cứ thỉnh thoảng lại hỏng (dù không ai hơn mười lăm tuổi dám thừa nhận rằng mình thấy rất vui mỗi lần nó hỏng). Tất cả không gian rộng mở mà chúng tôi sẽ có, tất cả những người chúng tôi sẽ gặp khi đánh thức họ dậy, hoàn toàn ngó lơ chuyện đã xảy ra với những người định cư ban đầu, cực kỳ tự tin rằng chúng tôi được trang bị tốt hơn rất nhiều nên sẽ chẳng có gì tồi tệ xảy ra.
Tất cả những niềm hy vọng đó, và giờ tôi đang ở đây, ngay bên ngoài hành tinh, nhìn ra bóng tối, là người đầu tiên trông thấy nó đến, người đầu tiên chào đón nó cùng lúc với phát hiện ra nó thực sự trông như thế nào.
Nhưng lỡ như?
“Có phải vì hy vọng là một thứ đáng sợ?” bố tôi hỏi.
Tôi bàng hoàng nhìn ông. “Bố cũng nghĩ vậy sao?”
Ông mỉm cười, đầy tình thương. “Hy vọng là một thứ rất đáng sợ, Viola,” ông nói. “Không ai muốn thừa nhận, nhưng quả là vậy.”
Tôi cảm thấy mắt mình lại ướt nhẹp. “Vậy làm sao bố chịu được? Làm sao bố chịu được dù chỉ là nghĩ đến nó? Hy vọng nghe thật nguy hiểm, như thể bố sẽ bị trừng phạt nếu dám cho rằng mình xứng đáng có nó.”
Ông khẽ chạm vào tay tôi. “Vì, Viola ạ, cuộc sống còn đáng sợ hơn nhiều khi không có hy vọng.”
Tôi lại nuốt nước mắt. “Vậy bố muốn nói là con phải chọn xem mình sẽ sợ cái nào trong suốt quãng đời còn lại?”
Ông bật cười rồi dang tay. “Cuối cùng con cũng chịu mỉm cười.”
Rồi ông ôm tôi.
Và tôi để ông ôm.
Nhưng trong lòng tôi vẫn còn những nỗi sợ, dù không biết nó là loại nào. Sợ vì hy vọng, hay sợ vì không có hy vọng.
Mất một khoảng thời gian dài như vô tận để tháo đai an toàn, thật khó để làm việc đó khi bạn đang bị treo ngược. Khi cuối cùng chốt khóa cũng bật ra, tôi ngã khỏi ghế, trượt xuống bức tường dường như đã bị gập vào trong của buồng lái.
“Mẹ?” tôi gọi và trườn về phía bà.
Bà đang úp mặt xuống thứ từng là trần nhà, hai chân bị bẻ gập theo cách tôi không dám nhìn…
“Viola?” mẹ tôi gọi.
“Con ở đây, mẹ.” Tôi đẩy những thứ đã rớt xuống người bà, tất cả đống tài liệu và thiết bị hiển thị, mọi thứ đã vỡ nát khi chúng tôi rớt xuống, mọi thứ không được cố định đã vỡ thành từng mảnh…
Tôi đẩy một miếng kim loại lớn khỏi lưng bà…
Và tôi nhìn thấy nó…
Ghế phi công đã bị vuột khỏi sàn nhà, lưng ghế đã bay mất, biến chỗ tựa lưng thành một tấm kim loại sắc…
Tấm kim loại đâm thẳng vào cột sống của mẹ tôi…
“Mẹ?” tôi nói, giọng nghẹn ngào, tìm cách nhấc miếng kim loại khỏi người bà…
Nhưng khi tôi động đến nó, mẹ gào lên, gào như thể tôi thậm chí không có mặt ở đó…
Tôi dừng lại.
“Viola?” mẹ tôi lại nói, và thở hắt. Giọng của bà the thé và đứt đoạn. “Là con đấy ư?”
“Con đây, mẹ,” tôi nói, nằm xuống bên cạnh để áp mặt vào bà. Tôi gạt mảnh thủy tinh cuối cùng trên má bà và thấy mắt bà ráo riết đảo quanh…
“Con yêu?” mẹ tôi nói.
“Mẹ?” tôi đáp lại và bật khóc, gạt thêm nhiều mảnh vỡ. “Hãy bảo cho con biết phải làm gì, mẹ ơi.”
“Con yêu, con có bị thương không?” mẹ tôi hỏi, giọng the thé và run rẩy như tiếng sáo, như thể bà không còn thở được nữa.
“Con không biết,” tôi đáp. “Mẹ, mẹ di chuyển được không?”
Tôi đặt một tay dưới vai bà để đỡ bà dậy, nhưng bà lại thét lên khiến tôi cũng thét và tôi đặt bà nằm xuống như lúc trước, bụng áp xuống, trên trần nhà, miếng kim loại sắc nhọn găm vào sống lưng, máu từ tốn rỉ ra từ đó, như thể đây chẳng phải điều gì to tát, và mọi thứ xung quanh chúng tôi đã vỡ vụn, vụn nát, nát tan.
“Bố con,” mẹ tôi thở hổn hển.
“Con không biết,” tôi đáp. “Ngọn lửa…”
“Bố yêu con,” mẹ tôi nói.
Tôi dừng lại và nhìn bà. “Gì cơ?”
Tôi thấy bà cựa tay, cố kéo nó ra từ bên dưới cơ thể. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy nó. “Mẹ cũng yêu con, Viola,” bà nói.
“Mẹ? Đừng nói thế…”
“Nghe này, con yêu, nghe mẹ nói.”
“Mẹ!”
“Không, nghe này…”
Bà ho và cơn đau do cử động này khiến bà lại thét lên. Tôi nắm tay mẹ mình chặt hơn và hầu như chẳng nhận ra mình đang thét cùng bà.
Bà dừng lại, thở hổn hển, ngước mắt nhìn tôi, lần này đã tập trung hơn, như thể bà đang gắng hết sức, như thể bà chưa từng cố gắng làm việc gì nhiều đến vậy trong suốt cuộc đời. “Họ sẽ đến tìm con, Viola.”
“Mẹ, dừng lại đi, làm ơn…”
“Con đã được huấn luyện,” bà nói. “Hãy sống. Hãy sống, Viola Eade, con nghe rõ chứ?” Giọng của bà lớn hơn, dù tôi có thể nghe thấy cơn đau trong đó.
“Mẹ, mẹ sẽ không chết…”
“Mang theo hy vọng của mẹ, Viola,” bà nói. “Và của bố. Mẹ trao nó cho con, được chứ? Mẹ trao cho con hy vọng của chúng ta.”
“Mẹ, con không hiểu…”
“Hãy nói con sẽ nhận nó, con yêu. Nói với mẹ.”
Cổ họng tôi nghẹn lại và tôi nghĩ mình đang khóc nhưng dường như chẳng có gì dính với nhau. Tôi đang nắm tay mẹ giữa đống đổ nát của con tàu vũ trụ trên hành tinh đầu tiên mà chúng tôi từng đặt chân đến, giữa màn đêm đen đặc mà tôi có thể nhìn thấy qua khe nứt của thân tàu, và bà đang chết, đang chết, và tôi đã đối xử với bà thật tệ suốt nhiều tháng qua…
“Nói đi, Viola,” mẹ tôi thì thầm. “Làm ơn hãy nói.”
“Con sẽ nhận,” tôi đáp. “Con sẽ nhận hy vọng của mẹ. Con đã nhận, được chưa? Mẹ?”
Nhưng tôi không biết bà có nghe thấy tôi nói hay không…
Vì tay bà không còn nắm tay tôi nữa.
Và đó là lúc có chuyện xảy ra, một chuyện khiến mọi thứ trở thành hiện tại, một chuyện cắt bỏ tất cả quá khứ, đoàn hộ tống và tất cả những người trên đó đã biến mất, đã chìm vào dĩ vãng, chỉ còn lại tôi, ở đây, vào lúc này, quá nhanh, không có vẻ gì là thực.
Bố tôi. Tai nạn. Mẹ tôi. Không có thực.
Như thể tôi đang nhìn tất cả, gồm chính tôi, từ một nơi nào khác.
Tôi nhìn mình đứng dậy bên cạnh mẹ.
Tôi nhìn mình đợi ở đó giữa đống đổ nát, không biết phải làm gì.
Cho tới khi một khoảng thời gian đủ lâu đã trôi qua và phải làm điều gì đó, nên tôi nhìn mình trèo đến bức tường của buồng lái đã nứt toác và lần đầu tiên trông ra hành tinh.
Nhìn ra bóng tối. Bóng tối bên ngoài bóng tối. Bóng tối che giấu vạn vật.
Những vật tôi có thể nghe thấy.
Tiếng động vật nghe hệt như lời nói.
Tôi nhìn mình lùi vào con tàu, tránh xa khỏi bóng tối, tim tôi đập nặng nề.
Rồi dường như tôi chớp mắt và điều tiếp theo tôi nhìn thấy là tôi đang kéo một tấm ván chắn lối đến phòng động cơ.
Từ một nơi còn xa hơn, tôi thấy mình tìm thấy bố, cháy rụi như một cơn ác mộng từ ngực trở xuống, một vết thương kinh hoàng trên trán hẳn đã giết ông ngay lập tức.
Tôi nhìn mình khi cái lạnh quét qua người, nhìn mình tê tái đến độ không thể khóc trước thi thể của ông.
Tôi lại chớp mắt và tôi thấy mình trở lại bên cạnh mẹ trong buồng lái, hai tay ôm chặt lấy đầu gối, những chiếc đèn chạy bằng pin nhập nhòe và từ từ tối dần.
Rồi có tiếng chim hót hay thứ gì đó ở bên ngoài, lớn hơn tất cả những âm thanh còn lại, một tiếng kỳ lạ nghe gần như con mồi hay cầu nguyện.
Rồi tôi nhập trở lại phía sau đôi mắt mình.
Vì tôi nhìn thấy một thứ gì đó đang nằm chỏng chơ.
Một thứ mà chắc hẳn mẹ đã lấy từ phòng tôi ra và mang đến buồng lái, để đưa cho tôi ngay khi chúng tôi hạ cánh, ý nghĩ này khiến tôi đau nhói tận sâu trong tim.
Nằm đó, trong đống đổ nát.
Là món quà của Bradley.
Nó vẫn nằm trong giấy gói, sau ngần ấy tháng, từ sinh nhật của tôi. Và mọi thứ dường như vẫn không thể xảy ra, như một giấc mơ, nên sao tôi không mở nó chứ? Nếu đó là điều mà bố mẹ tôi đã muốn, thì tại sao mở quà không phải là việc đầu tiên tôi làm trên hành tinh này?
Tôi nhặt nó lên, xé lớp giấy đã rách và mở nó ra ngay khi số pin cuối cùng cạn kiệt, bỏ tôi lại trong bóng tối.
Nhưng cũng chẳng sao.
Chẳng sao hết, vì tôi đã biết nó là gì.
Bóng tối thật dày khiến tôi phải mò mẫm tìm đường thoát khỏi đống đổ nát, vẫn sững sờ, vẫn mơ màng. Màn đêm dày đặc, tôi như say ngủ. Nhưng tôi vẫn ôm chặt món quà của Bradley.
Tôi bước xuống hành tinh và chân tôi ngập trong mười phân nước.
Một đầm lầy.
Quả vậy. Chúng tôi đã nhắm đến đầm lầy.
Tôi tiếp tục đi, đôi lúc chân tôi mắc lại trong bùn, nhưng tôi vẫn tiếp tục đi.
Đi cho đến khi mặt đất cứng hơn, hơi xa khỏi con tàu.
Mắt tôi đã thích nghi và tôi có thể thấy một khoảng rừng thưa nhỏ, vây quanh là cây, bầu trời phía trên đầy những ngôi sao mà tôi vừa bay qua.
Tôi nghe thấy tiếng của nhiều sinh vật hơn, nhưng tôi thề rằng có vẻ chúng đang thực sự trò chuyện với nhau. Chắc chỉ là dư âm của cơn sốc.
Hầu hết chỉ có bóng tối.
Chỉ có bóng tối vây quanh tôi.
Đó chính là mục đích của món quà mà Bradley đã tặng.
Có một khoảnh đất đủ khô ở giữa khoảng rừng thưa hơi cao lên, không rộng rãi, không hoàn hảo, chỉ vừa đủ. Tôi đặt món quà xuống và mò mẫm tìm những cành cây, những chiếc lá rụng, gom được vài nắm ẩm ướt rồi xếp chúng lại với nhau.
Tôi nhấn nút trên món quà rồi lùi lại.
Ngay lập tức những chiếc lá và cành cây ẩm ướt bùng cháy.
Rồi có ánh sáng.
Ánh sáng tỏa khắp khoảng rừng thưa nhỏ, ánh sáng phản chiếu trên bề mặt kim loại của con tàu, ánh sáng kéo tôi vào lòng, hiện diện ở ngay đây.
Ánh sáng từ ngọn lửa.
Bradley đã tặng tôi một chiếc hộp lửa có thể nhóm ở gần như mọi nơi, mọi điều kiện với bất kỳ nhiên liệu nào.
Để đốt lên một ngọn lửa chống lại bóng tối.
Và mất một lúc, tôi chỉ biết nhìn chằm chằm cho đến khi cảm thấy ớn lạnh, rồi ngồi xuống gần ngọn lửa cho đến khi ngừng run rẩy.
Mất một lúc thật lâu.
Tạm thời ngọn lửa là tất cả những gì tôi thấy.
Không lâu nữa, tôi sẽ phải kiểm tra xem còn lại những gì để sinh tồn. Không lâu nữa, tôi sẽ phải kiểm tra xem thiết bị liên lạc nào còn hoạt động để tìm cách gọi cho đoàn.
Không lâu nữa, tôi sẽ phải kéo thi thể của bố mẹ ra ngoài và…
Nhưng là lát nữa, không phải bây giờ…
Bây giờ chỉ có lửa từ chiếc hộp.
Bây giờ chỉ có đốm sáng tí hon lay lắt giữa bóng tối.
Bất kể chuyện gì xảy ra tiếp theo cũng có thể đợi.
Tôi không biết thực sự thì mẹ tôi đã nói gì, tôi không biết hy vọng là một thứ bạn có thể đem cho người khác, là một thứ bạn có thể nhận lấy.
Nhưng tôi đã nói rằng mình sẽ nhận, tôi nói rằng mình đã nhận.
Nên tôi ngồi trước ngọn lửa của Bradley, trên một hành tinh tối tăm, và tôi có hy vọng của họ, hầu như chẳng một chút nào của tôi.
Ngoại trừ hy vọng rằng như vậy là đủ.
Rồi tôi nhìn thấy bầu trời sáng dần, cả ở trước mặt lẫn sau lưng. Tôi quay lại ngắm mặt trời của hành tinh này ló dạng, rồi nhận ra trời đã sáng, rằng tôi đã sống qua một ngày mới.
Rằng tôi đã có đủ hy vọng để sống đến bình minh.
Được rồi, tôi tự nhủ.
Được rồi.
Và tôi bắt đầu nghĩ đến những việc phải làm tiếp theo.