Chương 2
Một năm sau.
Alasdair Ma Pherson đứng nghiêm hệt như cha anh đã dạy cho anh phải làm như vậy khi ở trong nhà thờ. Đó là một ngày trời xám xịt, sương mù dày đặc. Ngoài kia trời mờ tối dần dần, những chiếc đèn bão trên cánh cửa vẫn tỏa ánh sáng dịu dàng.
Ca đoàn đã ngồi vào chỗ và mở sách ra. Những chiếc áo chùng màu đỏ tươi của họ tạo nên một bầu không khí vui vẻ, khác hẳn với thứ âm nhạc mà họ đã chọn để trình bày. Đó là nhạc giao hưởng của nhạc sĩ nổi tiếng Bach. Thứ nhạc mạnh mẽ và u uẩn. Alasdair nhắm chặt mắt, cúi đầu để tiếng nhạc ấy thấm đẫm người anh.
Khi bản nhạc kết thúc, anh nghe tiếng người làm lễ trong nhà thờ vang lên.
- Ân huệ của Chúa Jesus Christ luôn ở bên các người.
Anh ngước nhìn lên và trả lời một cách vô thức:
- Chúa cũng ban phước lành cho ngài.
- Nào, chúng ta cùng cầu nguyện.
Anh cúi đầu.
“Đức Chúa tối cao…”
Alasdair nghe như nuốt từng lời cầu kinh. Anh nhìn xung quanh thấy một biển người, đầu họ cúi xuống thấp, thân hình mỗi người một khác nhưng họ đều thuộc tộc người Anglo-Saxon. Tiếng cầu nguyện chấm dứt, và những cái đầu lại đồng loạt ngẩng lên.
Kia là con gái anh, con bé càng lúc càng trông giống Anna. Nó cũng mang một vẻ yếu ớt trang nhã y như cô ấy. Cử chỉ của con bé cũng hoàn toàn thừa hưởng từ Anna. Con bé ngồi thẳng người, tách hẳn ra khỏi đám bạn gái cũng đang thì thầm cầu nguyện.
Người trợ lễ bước xuống, những tà áo chùng bay bay theo bước chân của cô. Tiếng hát của ca đoàn lại vang lên: Chúng con xin Đức Chúa tha tội.
Những nghi lễ lần lượt qua đi, đã đến giờ thuyết pháp. Alasdair đứng lên, bước về phía bục giảng kinh.
- Chưa đầy hai năm kể từ sau ngày ấy! Fiona khăng khăng nói.
- Ít nhất là hai năm, nếu không nói là hơn! – Winifred khẳng định chắc chắn.
Winifred nói đúng, nhưng Lorna hiểu nếu biết điều thì chớ nên cãi lại. Mặc dù đã ba mươi lăm tuổi nhưng chị vẫn luôn là đứa em bé nhất. Đối với những người trong gia đình thì chị là một cô gái mới lớn. Quyết định của chị chỉ góp phần nho nhỏ nếu như hai chị gái có điều gì bất đồng, khi Fiona và Winifred cãi cọ thì hệt như thần Zeuts và thần Apollo đụng độ. Lorna thấy như vậy và ngay lúc ấy chị biết nếu cha chị còn sống sẽ không cho phép chị so sánh như thế. Chị như nghe tiếng của cha vang lên, “hai vị thần ngoại đạo ấy không bao giờ được một tín đồ của giáo hội Presbyterian nhắc tới”.
Em trai chị càng lúc càng giống cha của họ. Anna qua đời đã hơn hai năm, chị chắc thế. Một cảm giác bất an chợt đến trong chị. Chị không biết điều gì đã gợi lên cảm giác đó. Ký ức về cha chị, sự thay đổi cá tính của em trai hay là cái chết của Anna.
Fiona vẫn cứ khăng khăng:
- Chưa đến hai năm mà.
Winifred cảnh báo chấm dứt việc cãi cọ bằng phán quyết cuối cùng của chị.
- Nói khẽ chứ, cô thừa biết tiếng động dễ dàng chui vào ống thông hơi kia mà.
Fiona gật đầu, rửa tay trong bồn và lau khô. Chị nói:
- Dù sao chăng nữa đây cũng là lần cuối cùng chúng ta bàn đến những giải pháp lâu dài để duy trì việc chăm sóc ngôi nhà này.
- Em không biết làm thế nào để giữ chân cậu ấy ở nhà. Khi đi ra ngoài, cậu ấy luôn làm tròn bổn phận. Nhưng về nhà thì…
Fiona nói đúng.
Lorna đồng tình với chị mình khi chị mở tủ lạnh tìm chỗ cất thực phẩm cho cả tuần. Thật ra ngoài chị ra, không ai biết sự chểnh mảng của Alasdair xuất hiện từ sau cái chết của Anna. Mọi phản ứng của anh đều bình thường, Lorna không có mặt ở đây vào lúc cảnh sát đến báo việc xảy ra tai nạn. Và lúc Lorna đến thì anh vừa đi nhận xác về. Thậm chí ngay lúc đó trông anh vẫn rất tự chủ. Chị là người xuống tinh thần đầu tiên. Fiona và Winifred lúc trước không bao giờ gần gũi Anna, cũng phải bàng hoàng đến mấy tuần và nhiều ngày họ khóc thầm lặng lẽ. Chỉ riêng có Alasdair là vẫn giữ thái độ đúng mực, anh vẫn luôn tự tin dù trong lòng vô cùng buồn phiền.
Trong quãng thời gian khủng khiếp ấy, chính anh là người đưa ra mọi phán quyết để giải quyết những xáo trộn. Anh nhờ các chị gái trông nom Samantha, đứa con gái nhỏ mười một tuổi và hai đứa con sinh đôi vừa mới ra đời là Bonnie và Cameron. Anh nhờ thư ký của mình đáp lại những cú điện thoại chia buồn và gởi bưu thiếp cảm ơn tới những người đến dự tang lễ. Phải, sau cái chết của Anna, Alasdair luôn chứng tỏ mình là người vững vàng. Cũng giống như anh tự khẳng định mình trong các công tác giáo hội khác. Lorna tự hỏi cậu ta đã phải làm thế nào để có được nỗ lực phi thường ấy.
- Sao, chúng ta làm được những gì rồi?
Winifred hỏi, tâm trí Lorna quay trở về với những gì đang có trong tủ lạnh.
- Đồ ăn chuẩn bị cho cả tuần đã xong.
Chị trả lời và đặt chiếc hộp nhựa cuối cùng vào tủ lạnh.
- Tủ để thức ăn và tủ lạnh đều đã đầy và tiền ăn trưa của Samantha đã được chia đều vào các phong bì cho cả tuần – Fiona góp chuyện.
Chuông điện thoại reo, Winifred nhanh tay cầm ống nghe. Fiona mệt mỏi dựa lưng vào quầy bếp.
- Như vậy là chuẩn bị bữa ăn cho cả tuần đã xong. Bây giờ chúng ta đi giặt giũ nhé.
Winifred treo điện thoại và quay về phía họ, mặt đanh lại:
- Cô giữ trẻ gọi điện đến.
- Trời ơi, lại nữa rồi.
Lorna nhắm mắt và lắc đầu.
- Cô ấy bảo cô ta sẽ trả tiền lại.
Fiona hỏi:
- Vậy chúng ta phải làm sao đây?
Winifred thông báo:
- Ngày mai Alasdair được nghỉ việc. Tôi hy vọng cậu ấy sẽ tự lo liệu được.
- Đâu có đơn giản như vậy.
Fiona lắc đầu, kéo ghế trong nhà bếp và ngồi phịch xuống.
- Mọi chuyện lại tùm lum lên cho mà xem. Tôi không biết chúng ta sẽ duy trì được tình trạng này trong bao lâu nữa đây.
Mặt Winifred lộ vẻ cay đắng.
- Vậy mà cả giáo đoàn không động đậy một ngón tay để giúp gia đình ta.
Lorna lên tiếng:
- Em cho rằng họ không biết gia đình chúng ta lâm vào cảnh khó khăn. Họ thấy mọi việc vẫn diễn ra trôi chảy mà.
Winifred cau mày nhìn chị. Lorna chợt đỏ mặt. Đáng lẽ chị nên giữ ý kiến của mình, không nên nói ra. Hai bà chị luôn tự hào về Alasdair. Cậu ấy vẫn giữ vị trí quan trọng trong giáo đoàn, vị trí mà khi cha chết đã truyền lại cho anh và anh đã biến giáo đoàn ấy thành một tổ chức quốc tế. Ngày nào cũng được đưa tin trên đài phát thanh. Thậm chí giáo đoàn còn cho ra đời một tạp chí xuất bản hàng tháng. Rồi những cuộc hội họp, hội thảo và họ xuất bản những quyển sách nói về những đất nước theo đạo Cơ đốc giáo. Thậm chí cậu ấy còn cho xuất bản những nghiên cứu riêng của mình về Kinh Thánh. Vậy mà thỉnh thoảng vẫn có người phàn nàn rằng công việc anh giải quyết không được trọn vẹn. Rằng có những việc đáng lý ra phải được giải quyết tốt hơn.
Những bài thuyết pháp của anh vẫn được chuẩn bị rất kỹ và rất hay. Nó được truyền đạt tới người nghe một cách sống động. Tuy lời lẽ có hơi dữ dội một chút. Từ dữ dội là từ Lorna muốn dùng để chỉ tính chất những bài thuyết pháp của em trai. Nhưng rồi một lần nữa, chị lại cho rằng như thế là hơi thái quá. Chị mỉm cười nhớ lại những ngày đầu, khi Alasdair đảm nhiệm chức vụ trong giáo đoàn. Với phong thái hơi xa cách như cha chị, khi thuyết pháp, giáo đoàn nghe như nuốt từng lời thuyết giáo của Alasdair. Anh thuyết giáo say sưa, sử dụng những ngôn từ tao nhã. Anh luôn có mặt bên giường người bệnh hoặc người đang hấp hối. An ủi họ, tư vấn cho họ, cầu nguyện cho họ. Nhưng rồi một thành viên trong giáo đoàn đã có một ý kiến rất hay là nên bắt đầu thuyết giáo trên sóng phát thanh. Và rồi các sáng kiến lần lượt thay nhau ra đời. Và Alasdair trở thành người phát ngôn được nhiều người yêu cầu và yêu thích. Rồi dần dà ngôi nhà này càng ngày càng thiếu vắng sự có mặt của anh. Fiona nói:
- Sáng nay, tôi có nghe một tin đồn khiến tôi bất an.
Winifred hỏi:
- Đó là tin gì vậy?
- Có một cuộc vận động đang được tổ chức nhằm tìm người thế chỗ Alasdair.
Lorna thấy ngực mình đau nhói.
- Một tiểu tiết – Winifred gạt đi – Nhảm nhí. Ai nói với cô như vậy?
- Ruth Anderson nói. Cô ấy nghe tin từ Edga Willis.
Winifred cau mày. Edga Willis là một trong những thành viên lão thành của giáo đoàn. Một vị trưởng lão trong ban lãnh đạo.
Lorna cố tránh cảm giác bất an khi linh cảm thấy một điều gì không lành sắp sửa xảy ra. Chị đóng cửa tủ lạnh, đến bên bồn rửa chén. Một cảm giác phẫn nộ dâng lên mà chị không biết vì lý do gì. Chị đột nhiên tức giận hai bà chị của mình và đột nhiên kinh hoàng khi nhận ra cơn tức giận ấy cũng giành cho cả Alasdair.
- Mấy chị em đang cãi cọ điều gì vậy?
Giọng Alasdair vang lên sau lưng Lorna khiến chị giật mình. Lạ thay, không như trước đây, chị thường bỏ qua những suy nghĩ của mình thì lần này sự có mặt của anh càng làm cho chị giận dữ. Em trai chị mang ấm đun nước đến bên vòi nước ở bồn rửa chén để chuẩn bị đun nước pha cà phê. Fione cười lớn nói:
- Chị cũng không nhớ nữa, em vẫn biết tụi chị thì thiếu gì chuyện để mà nói.
Lorna đột nhiên nóng mặt như thể có ai đốt một đống lửa nhỏ trong lồng ngực của chị. Tại sao không một ai trong cái gia đình này nói lên sự thật? Cơn tức giận tuôn trào, chị nói thẳng:
- Họ đang cãi cọ về chuyện Anna mất được bao lâu rồi? Bao lâu rồi hả Alasdair?
Winifred há hốc miệng. Fiona mở tròn mắt kinh ngạc. Thậm chí Lorna cũng giật nảy mình mặc dù chính chị vừa thốt lên những lời ấy.
Alasdair ngưng tay chuẩn bị pha cà phê nhìn chị nói:
- Em không còn nhớ chính xác nữa, song…
Anh quay mặt đi.
- Alasdair nói thật đấy, Lorna.
Winifred đã lấy lại bình tĩnh, Fiona lẳng lặng làm thinh, Alasdair tìm cà phê trong tủ, anh không nhìn Lorna nữa. Lorna bắt đầu giận dữ chà những vết ố vàng trong bồn rửa chén. Khi chị hoàn tất công việc, chị khó chịu quay sang kệ bếp chất đầy những thứ rác rưởi sau suốt một tuần không cọ rửa.
Có mấy lời nhắn điện thoại trong cuốn sách của Samantha. Còn cả hai bức thư với địa chỉ người nhận là “Reverend Alasdair MacPherson, Nhà thờ A Knox Presbyterian, Fairfax Street, thị trấn Alexandria bang Virginia”. Một lá thư từ B. Henry, số 33 đường Harrison, quận Richmond, Virginia và lá thư kia mang con dấu của Hiệp hội Anh giáo có trụ sở cũng ở thành phố Richmond. Cả hai lá thư đều để ngỏ. Trên kệ bếp còn có một bình sữa rỗng, một cái ly cà phê đã mẻ, bên trong cắm đầy bút chì. Một chiếc bao tay nhỏ xíu có vẻ như không biết chiếc còn lại ở đâu.
Lorna nghĩ: Hệt như một cơn bão lốc vừa thổi qua căn nhà này vậy. Những rèm cửa che trên cửa sổ cần phải giặt giũ lại cho sạch. Trông chúng thật là khủng khiếp. Rèm cửa thì màu vàng đầy những vết dơ màu nâu sẫm cùng với những quả bóng bằng lụa tròn màu cam lủng lẳng treo dưới mép rèm. Chẳng phải chỉ có cái rèm ghê khiếp. Cả ngôi nhà đều bẩn thỉu. Giấy dán tường đen xỉn vẽ những quả cam, những cây nấm màu nâu nổi bật trên nền xanh lá cây sẫm. Đồ ăn trong kệ với các lọ đựng cà phê đều đã quá hạn sử dụng. Khắp mọi nơi trong căn phòng đều gây nên cảm tưởng về sự mục rữa, ẩm mốc đang lan tràn và làm cho người ta có cảm giác tuyệt vọng. Lorna phải thú nhận rằng căn nhà này đã như vậy ngay cả khi Anna còn sống.
- Em phải đi xem lại bài thuyết pháp tối nay đây.
Alasdair nhấn nút chiếc máy pha cà phê rồi mới bắt đầu dùng đường. Anh bẽn lẽn nhìn các bà chị. Và cũng như mọi khi, anh lịch sự cảm ơn tất cả sự giúp đỡ của họ.
Lorna lắc đầu buồn đến héo hắt khi nghĩ đến cái gia sản mà em dâu của chị đã để lại. Ba đứa trẻ con thơ dại và một ông chồng hết ngày này qua ngày khác cứ để tâm hồn lơ lửng ở cành cây.
Chị mở miệng một lần nữa, hoàn toàn vô tình:
- Anna mất ngày 15/10, cách đây vừa tròn hai năm. Bây giờ đã là ngày 24/10 rồi, như vậy tính ra đã hai năm, một tuần, hai ngày.
Chẳng ai nói gì, Alasdair ngó chăm chăm chị một lát, khi anh cất tiếng nói, khuôn mặt anh chẳng để lộ bất cứ tình cảm gì, chỉ ngoại trừ cặp mắt tỏ ra sầu não.
- Vậy đó, cả ba đã nghe cả rồi, như vậy vụ cãi cọ này được dàn xếp xong xuôi.
Winifred tức giận hỏi:
- Cô làm thế để làm gì?
Fiona dịu dàng nói thêm:
- Quả thật chị cũng không hiểu ý định của em, Lorna. Đáng lẽ em nên để cho cậu ấy quên chuyện đau buồn đi mới phải.
Lorna không trả lời. Cơn giận dữ của chị chợt nổ tung như đã bị kìm nén từ rất lâu rồi. Thực sự thời gian qua chị nghĩ gì, và chị muốn chứng minh điều gì?
Hai người chị của Lorna dường như ngầm ra hiệu với nhau từ trước, cùng đứng lên lấy áo khoác và túi xách.
Lorna nói vẻ biết lỗi:
- Em sẽ ở lại cho tới buổi lễ chiều.
- Chị phải đi tìm xem có ai nhận việc trông trẻ hay không?
Winifred tự biện hộ như thể Lorna đang buộc tội chị vậy. Winifred ghét phải tranh cãi xem ai là người giúp đỡ Alasdair được nhiều nhất.
Lorna dịu giọng:
- Tốt thôi, chị đi đi, em sẽ ở đây khi bọn trẻ thức dậy và em sẽ để mắt tới Samantha.
- Hay đấy.
Fiona mặc áo khoác và cài nút, những ngón tay chị thoăn thoắt trên hàng nút áo.
- Vậy, chúng ta hãy cũng đi Winifred, em còn phải chấm bài nữa.
Hai chị em đi ra phía cửa, Lorna chợt thấy nhẹ nhõm khi những người kia đã ra về. Sự có mặt của họ đã làm cho chị cảm giác mình lạc lõng và ngu dốt hẳn đi. Chị đun nước pha trà rồi lên lầu xem Samantha đang làm gì.
Cửa phòng con bé hé mở, một tia sáng mảnh chiếu trên bức tường màu sẫm ngoài hành lang. Lorna đẩy cửa thật nhẹ nhàng, những mong mình sẽ không làm phiền cháu gái khi con bé đang ngồi học. Nhưng Samantha không ngồi bên bàn học, nó cũng không có mặt trong phòng, con bé lại lẻn ra ngoài nữa rồi.
Lorna thở dài, tự hỏi chị có nên báo cho Alasdair biết hay không. Chị nhìn quanh căn phòng, có rất nhiều những tấm ảnh lớn treo trên tường, toàn là các ban nhạc rock, trông các ca sĩ kì quái của các ban nhạc đó chẳng khác nào các thiên thần báo điềm gở.
Chị đóng cửa rồi dừng lại bên ngoài cánh cửa phòng của hai anh em sinh đôi. Không nghe tiếng động gì, chị rón rén đi xuống cầu thang, và kịp thời đưa tay tắt bếp trước khi chiếc ấm chứa đầy nước sôi hú lên. Chị rót nước vào ấm pha trà rồi rót trà ra ly, chị rót hết nước trong ấm rồi bỏ thêm trà vào, rồi lại đổ thêm nước sôi lên trên những lá trà khô. Trong lúc đợi cho trà ngấm, chị bắt đầu gọi điện thoại đến những nơi quen thuộc. Sau cuộc điện thoại thứ hai thì chị đã biết Samantha đang ở đâu: nhà một thằng con trai tai đeo đầy những vòng khuyên cổ quái và mặt câng câng không bao giờ coi ai ra gì. Không hiểu tại sao những đứa bé bất hạnh luôn tìm được nhau? Chúng đã sử dụng loại sóng siêu âm nào vậy?
- Về nhà đi cháu, làm ơn đi mà.
Chị nói nhẹ nhàng nhưng chỉ nhận được câu trả lời khó chịu của cô cháu gái. Cuối cùng chị đe dọa:
- Hay để ta gọi bố cháu xuống nói chuyện điện thoại với cháu.
Lần này người ở đầu dây bên kia dập máy ngay lập tức. Chị thở dài đặt điện thoại xuống và tức tối quay sang dùng nùi giẻ chà mạnh kệ bếp.
Chị mang bình sữa em bé rửa thật sạch, chuẩn bị mang đi cất. Nhưng rồi suy nghĩ lại, chị lấy thêm một bình sữa nữa. Chị rót sữa vào đầy cả hai bình và đặt hai bình sữa vào cửa tủ lạnh để khi hai đứa trẻ sinh đôi ngủ dậy chị mang hâm nóng ngay. Chúng đã hai tuổi rồi. Đáng lẽ nên cai sữa, và phải tập cho chúng khi có nhu cầu đi vệ sinh là phải ngồi bô. Nhưng để làm được như vậy phải mất rất nhiều thời gian. Vậy mà chị, một ngày tám tiếng đã phải làm công việc thư kí ở trường dòng John Knox, một tuần bốn đêm chị phải làm thêm công việc tráng phim tại nhà máy sản xuất phim Kodak bởi chị có cả đống hóa đơn phải chi trả. Nghĩ đến đó, chị nhăn mặt nhìn đồng hồ, chị phải có mặt tại nhà máy tráng phim vào lúc 3 giờ sáng, và lúc này chị nhất định phải về nhà ngủ một chút trước khi đi làm thêm.
Chị thu thập những lời nhắn điện thoại, xem có ai cần phải trả lời gấp hay không. Có sáu lời nhắn từ ban điều hành của giáo đoàn, và của các giáo dân, và một lời nhắn điện thoại của bà Tronsett tại trường Knox. Bà Tronsett là hiệu trưởng của trường. Lời nhắn này đã được ghi lại vào cuối ngày thứ sáu. Trên mảnh giấy có ghi:
- Xin hãy gọi để nhà trường thông báo về em Samantha.
Tin nhắn này làm cho chị thêm một mối lo lắng nữa. Lorna thở dài cầm mảnh giấy cuối cùng lên. Lại một lời nhắn điện thoại. Lời nhắn này ghi lại lời yêu cầu của một người là Bob Henry với một số điện thoại đường dài. Chị nhíu mày: B. Henry là cái tên trên là thư chị đã xem lúc trước. Chị mở thư ra. Đây là lần thứ ba trong ngày chị làm một việc mà chị không thể nào giải thích nổi. Bức thư có biểu tượng của hiệp hội của Giáo Hội Anh Giáo. Chị mở thư và bắt đầu đọc. Những thắc mắc của chị chẳng bao lâu đã được sáng tỏ.
Reverend MacPherson thân mến!
Đã hai năm qua kể từ khi vợ anh – Anna yên giấc ngàn thu. Tôi biết rằng nỗi đau khổ to lớn đến nhường ấy sẽ mang bóng tối của nó len lỏi đến nơi xa xôi nhất của tâm hồn một con người, và thu hẹp giới hạn năng lực của người ấy. Mặc dù chúng tôi luôn hô hào việc tận tâm tận lực để thực hiện những kế hoạch của chúng ta đã vạch ra, nhưng có lúc nghỉ ngơi là cần thiết.
Dẫu cho chỉ có Chúa Trời mới ban cho anh sức mạnh gánh trên vai những trách nhiệm nặng nề, cái giá cho việc phải làm tròn những nghĩa vụ ấy là quá lớn, không phải chỉ cho riêng anh mà còn cho cả giáo đoàn của anh nữa.
Tôi có trách nhiệm của một người giám sát, không chỉ chăn dắt các con chiên mà còn phải để mắt tới công việc của những người có trách nhiệm chăn dắt đàn chiên của Chúa. Tôi rất biết ơn nếu có được cơ hội bàn bạc với anh về những biện pháp mà anh đang cần và về những điều giáo đoàn của anh cho là cần thiết thực hiện. Nếu tự cho phép mình nghỉ ngơi một quãng thời gian thì đó chẳng phải là điều gì đáng xấu hổ. Tôi cũng phải thú nhận những lý do của tôi trong chuyện này không hoàn toàn là không tính đến lợi ích bản thân. Tại trụ sở giáo đoàn ở đây rất nhiều người cần đến tài năng của một con người nổi bật xuất chúng như anh.
Chào thân ái.
Chủ tịch giáo đoàn Gerald Whiteman.
Lorna ngồi phịch xuống ghế. Em trai của chị sẽ bị gọi về trụ sở giáo đoàn. Không có một lời giải thích nào hết cho bức thư này. Chị biết có một chuyện gì đó bất ổn nhất định sẽ xảy ra nhưng chị không ngờ nó lại tồi tệ tới mức này.
Chị cố hít thật sâu ba bốn lần. Sau đó chị quyết định đối mặt với bất cứ điều gì tồi tệ nhất. Ngay lúc này. Nên chị mở lá thư thứ hai. Lá thư này được viết cùng ngày với lá thư của Gerald Whiteman.
Al mến!
Gerald có nhận được một số thư của một số người trong giáo đoàn của cậu. Họ kêu ca rằng cậu không có đủ năng lực làm việc. Có lẽ để tớ nói thêm vài lời với Gerald cũng không sao nhưng trước hết chúng ta cần phải lên một kế hoạch cho thời gian sắp tới. Nhớ gọi điện cho tớ.
Bob.
Lorna nhớ Bob Henry. Anh ta cùng học trường dòng với Alasdair. Nhưng trước khi tốt nghiệp anh ta đã thôi không tiếp tục theo học và hiện nay đang nằm trong guồng máy quản lý giáo hội ở Richmonth.
Chị cất cả hai lá thư trả vào phong bì của chúng đặt chúng tại nơi chị đã tìm thấy. Chị rót cho mình một ly trà rồi ngồi xuống và cố nghĩ ngợi.
Như vậy lời đồn là đúng. Những người không vừa lòng với Alasdair, cho thấy một động thái chống đối anh. Và chị chẳng lạ gì cái cách người ta luồn cửa sau để vận động chống đối Alasdair. Nếu như Alasdair từ chức thay vì bị yêu cầu phải ra đi thì sẽ không còn hận thù gì nữa. Không còn có chuyện chửi rủa lẫn nhau. Không còn có chuyện những người trung thành với MacPherson phải tức tối rời khỏi nhà thờ.
Chị nhớ lại những chuyện nhảm nhí đã từng được nghe thấy người ta bàn tán. Người ta nói rằng Alasdair đang quan tâm tới những việc của riêng mình hơn là công việc của nhà thờ. Lo lắng đến chuyện viết sách hơn là chuyện chăn dắt các con chiên.
“Nếu tôi muốn nghe tiếng của người cha tinh thần, tôi chỉ việc mở máy thu thanh lên là xong”.
Trong một cuộc họp giáo đoàn vừa rồi đã có người nói mỉa mai chua cay như vậy.
- Nhiều khi em muốn thân này sẻ làm hai được.
Alasdair đã tâm sự với chị như vậy sau khi buổi họp kết thúc. Chị nghĩ ra cả trăm lời khuyên cho anh: đại loại như có lẽ anh nên cân nhắc lại những gì cần thiết nhất đối với anh lúc này. Chẳng hạn như: Các con chiên đang cần cậu, Alasdair! Cậu là lãnh tụ tinh thần của họ. Suy cho cùng là như thế.
Chị cố nhớ những điều chị đã nói và đã cố mỉm cười ra sao khi chị đổi đề tài câu chuyện.
Cách đó giờ không hiệu nghiệm nữa rồi. Không thể nào tránh chuyện này được nữa. Mặc dù trong tình thế cấp bách như vậy nhưng chị vẫn chẳng nghĩ ra được phương cách gì.
Hai người chị của Lorna nói đúng. Chị chậm hiểu, không nhanh nhẹn và thông minh như họ. Suy cho cùng, ra xã hội chị chẳng làm được trò trống gì. Không có thành tích gì nổi bật. Chị nghĩ về Fiona, chị ấy thật thông minh khi đứng dạy lớp học của mình ở trường đại học. Chị có thể gọi cho chị ấy. Không. Một giọng nói lặng lẽ từ trong tâm trí của chị trả lời.
Vậy thì Winifred vậy. Winifred, người có thể chỉ bảo người ta làm việc này, việc nọ. Mặc dù họ không bằng lòng nhưng họ cũng phải bằng mặt với chị.
Không. Lorna lại cảm giác một bức tường ngăn cách giữa mình với Winifred như thật sự hiện hữu.
Chị thì thầm:
- Ôi lạy Chúa, nhất định phải có ai đó ra tay chứ?
- Chính cô là người đó.
Giọng nói trong thâm tâm chị lại vang lên.
Chị hiểu mình phải tìm một người đủ thông minh và đủ dũng cảm đứng mũi chịu sào trong lúc khó khăn này.
Chị nhớ đến bài thuyết pháp em chị đã rao giảng cách đây nhiều năm trước khi thời kỳ đen tối trong gia đình chị ập đến. Cậu ấy nói Chúa Trời trao những trọng trách cao cả vào tay những con người không hoàn hảo, những con người từng mắc lỗi. Những con người bình thường. Lúc đó Alasdair nhắc nhở giáo dân mình nhớ rằng Chúa Trời viết nên những dòng chữ ngay hàng thẳng lối bằng những dòng kẻ ngoằn ngoèo.
Lorna đưa cánh tay ôm mặt và rồi chị tưởng tượng ra một hình ảnh được vẽ bằng niềm ước ao. Hình ảnh Alasdair với khuôn mặt tươi cười hớn hở. Hình ảnh Samantha cười giòn giã như một cô bé ngây thơ, hình ảnh hai đứa bé sinh đôi được yêu thương và được chăm sóc chu đáo. Sau đó, cũng giọng nói lặng lẽ từ tận thâm tâm nhắc lại lời cuối cùng trong kinh tạ ơn mang đến cho chị một thông điệp cuối cùng: Con sẽ làm việc mình cần làm và Chúa Trời sẽ ra tay giúp đỡ.
- Con xin tạ ơn Chúa.
Lorna kêu lên và chẳng bao lâu sau khi chị nghe tiếng hai đứa trẻ khóc. Giọng chúng khàn khàn và nghẹn ngào. Rồi tiếng cửa chính bật mở và Samantha giận dữ dậm chân thình thịch bước lên lầu. Lorna đứng dậy vội vã chạy theo con bé vừa đi vừa tự hỏi: Chuyện gì đã xảy ra. Một nguồn lực đến chi viện cho chị.