Phần 1 - Chương 1 Chọn Điều Lành
Ký ức dai dẳng nhất của tôi thực ra chẳng phải là ký ức. Nó là chuyện mà tôi tưởng tượng ra, sau đó ghi nhớ như thể nó đã xảy ra thật. Ký ức đó được hình thành khi tôi năm tuổi, ngay trước khi tôi bước sang tuổi lên sáu, từ một câu chuyện mà bố đã kể tỉ mỉ đến nỗi tôi và các anh chị tôi mỗi người đều tạo ra trong đầu một phiên bản như một bộ phim của riêng mình, với súng đạn và tiếng la hét. Phiên bản của tôi có những con dế. Đó là âm thanh tôi nghe thấy khi gia đình tôi túm tụm vào nhau ở trong bếp, tắt hết đèn, ẩn trốn người của Liên bang đang bao vây nhà của chúng tôi. Một người phụ nữ mò vào bếp lấy nước uống và cái bóng đen của người đó được ánh trăng soi rõ. Một tiếng súng vọng tới nghe đét một cái như tiếng quất roi và cô ta gục xuống. Trong ký ức của tôi luôn luôn là mẹ gục xuống và mẹ bế một đứa bé trên tay.
Mẹ bế đứa bé nào kia chứ, thật vô lý – tôi là con út trong bảy đứa con của mẹ – nhưng như tôi đã nói, chuyện này không có thật.
Một năm sau khi bố kể cho chúng tôi nghe chuyện đó, một buổi tối chúng tôi ngồi quây quần nghe bố đọc sách của nhà tiên tri Isaiah, một lời tiên tri về Chúa Cứu Thế. Bố ngồi trên ghế sofa màu mù tạt, cuốn Kinh Thánh to tướng để mở trong lòng. Mẹ ngồi bên cạnh bố. Anh chị em chúng tôi ngồi ngả ngốn trên tấm thảm nâu sờn cũ.
“Người sẽ ăn bơ và mật ong,” bố đọc bằng giọng đều đều, chậm rề, mệt mỏi sau một ngày dài vận chuyển phế liệu. “Và người có thể biết khước từ cái xấu, chọn điều lành”.
Tiếp theo là một khoảng tạm ngừng nặng nề. Chúng tôi ngồi im lặng.
Bố không phải là một người đàn ông cao lớn nhưng có thể chỉ huy cả phòng. Bố có cái vẻ uy nghiêm của một nhà tiên tri. Đôi tay bố to bản với lớp da dày – đôi bàn tay của một người đàn ông đã lao động cật lực cả đời – và đôi tay ấy cầm chắc cuốn Kinh Thánh.
Bố đọc rõ to đoạn đó lần thứ hai, rồi lần thứ ba, lần thứ tư. Cứ mỗi lần đọc lại, giọng bố lại cao hơn. Đôi mắt của bố, mới mấy phút trước sụp xuống vì mệt mỏi giờ đây đã mở to, đầy tỉnh táo. Bố nói, có một giáo lý thiêng liêng ở đây. Bố sẽ cầu vấn Chúa.
Sáng hôm sau bố dọn sạch sữa, sữa chua và pho mát trong tủ lạnh nhà chúng tôi đi, và tối hôm đó khi bố về nhà, chiếc xe tải nhỏ của bố chở tới năm mươi can mật ong.
“Sách Isaiah không nói thứ nào xấu, bơ hay mật ong,” bố vừa nói vừa cười xếch đến mang tai trong khi các anh tôi kéo lê những can mật ong vào hầm chứa thực phẩm. “Nhưng nếu các con hỏi thì Chúa sẽ nói cho các con biết!”
Khi bố đọc đoạn đó cho bà nội tôi nghe, bà cười vào mặt bố. “Mẹ có vài xu trong ví đấy,” bà nói. “Anh nên lấy chúng đi. Chúng sẽ là toàn bộ sự minh mẫn mà anh có.
Bà tôi có khuôn mặt mỏng, trơ xương và một kho bất tận những đồ giả nữ trang của người da đỏ, tất cả đều bằng bạc và mai rùa, được đeo thành chùm, thành búi trên cái cổ gầy nhằng và những ngón tay mảnh khảnh của bà. Bởi vì bà sống ở dưới chân đồi, gần đường cao tốc, chúng tôi gọi bà là bà-ở-chân-đồi. Đây là cách gọi để phân biệt bà với bà ngoại của chúng tôi, người mà chúng tôi gọi là bà-trong-thị-trấn bởi vì bà sống cách chỗ chúng tôi mười lăm dặm về phía nam, trong cái thị trấn duy nhất của hạt, nơi có mỗi một trạm đèn giao thông và một cửa hàng tạp hóa.
Bố tôi và bà nội gắn bó như hai con mèo bị buộc đuôi vào nhau. Họ có thể nói chuyện với nhau cả tuần mà không đồng quan điểm về bất cứ điều gì, nhưng họ vẫn được ràng buộc bởi cả hai đều sùng kính ngọn núi. Gia đình của bố đã sống dưới đỉnh núi Buck nửa thế kỷ. Những người con gái của bà tôi đã lấy chồng và chuyển đi nơi khác, nhưng bố tôi ở lại, dựng một ngôi nhà màu vàng đơn sơ, ngôi nhà mà bố chưa bao giờ hoàn thiện xong, ngay trên sườn đồi, trong khi nhà mẹ đẻ của bố ở chân đồi, và ném cả một đống đồng nát – một trong vài đống – ngay cạnh bãi cỏ được xén tỉa cẩn thận của bà.
Họ bất đồng với nhau hằng ngày về bãi đồng nát lộn xộn ấy nhưng bất đồng với nhau thường xuyên hơn về lũ trẻ chúng tôi. Bà nghĩ chúng tôi nên đi học, như bà nói, và không “lang thang trên núi như những kẻ ăn lông ở lỗ”. Bố nói, trường công là một thủ đoạn của Chính phủ nhằm khiến bọn trẻ xa rời Chúa. “Nếu con cho các con mình đi học ở cái trường dưới đường cái kia thì có khác nào con giao chúng cho quỷ dữ,” bố nói.
Chúa bảo bố chia sẻ khải thị đó với những người sống và canh tác dưới cái bóng của đỉnh núi Buck. Vào các ngày Chủ nhật, gần như tất cả mọi người đều tập trung tại nhà thờ, một nhà thờ được sơn màu hồ đào, nằm tách khỏi đường cao tốc, với cái tháp chuông nhỏ, giản dị thường thấy ở các nhà thờ Mặc Môn. Bố buộc các ông bố khác phải nghe mình nói, khi họ rời những băng ghế của nhà thờ. Bố bắt đầu với người em họ của mình, chú Jim, người đã từ tốn lắng nghe trong khi bố ve vẩy cuốn Kinh Thánh và giải thích về tội lỗi của sữa. Chú Jim cười xếch đến mang tai, rồi vỗ vai bố tôi, nói rằng không vị Chúa công bằng nào lại tước đi của một con người cái thú thưởng thức kem dâu tây nhà làm vào một trưa hè nóng nực. Vợ của chú Jim giật tay áo chú. Khi chú đi qua chỗ chúng tôi, tôi thoáng ngửi thấy mùi phân bón. Rồi tôi sực nhớ: trang trại bò sữa lớn cách núi Buck một dặm là của chú Jim.
Sau khi bố bắt đầu bài thuyết giảng bài trừ sữa, bà nhét sữa đầy ặc tủ lạnh của bà. Ông bà chỉ uống sữa tách béo, nhưng chẳng bao lâu sau khi tất cả những thứ ấy được chất ở đó – ông bà dùng cả sữa chứa hai phần trăm chất béo, sữa nguyên kem, thậm chí sô-cô-la. Dường như bà tin đây là một phương pháp ăn uống quan trọng để duy trì.
Bữa sáng trở thành một cuộc thử thách lòng trung thành. Mỗi sáng gia đình tôi ngồi quanh cái bàn rộng bằng gỗ sồi đỏ được gia công lại và ăn ngũ cốc bảy loại hạt cùng mật ong và mật đường, hoặc bánh kếp làm từ bảy loại ngũ cốc, cũng với mật ong và mật đường. Bởi vì có tận chín người chúng tôi nên những chiếc bánh kếp chẳng bao giờ được nướng kỹ. Tôi không phiền vì ăn món ngũ cốc nếu tôi có thể trộn nó vào sữa, để kem quyện bột ngũ cốc lại và tạo thành những viên ngũ cốc, nhưng từ khi có khải thị kia chúng tôi ăn ngũ cốc với nước lọc. Ăn như thế chẳng khác gì ăn một tô bùn.
Chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu nghĩ đến tất cả những loại sữa đang thiu ra trong tủ lạnh của bà nội. Sau đó tôi hình thành thói quen bỏ bữa sáng hằng ngày và đi thẳng tới chuồng nuôi gia súc. Tôi đổ nước gạo cho lợn ăn, đổ đầy thức ăn vào máng cho bò và ngựa, sau đó tôi nhảy qua hàng rào của bãi quây gia súc, đi vòng ra phía sau và lẻn vào cửa ngách nhà bà tôi.
Vào một buổi sáng như thế, khi tôi đang ngồi tại bàn quầy nhìn bà tôi đổ bánh bột ngô ra bát tô, bà hỏi, “Cháu có thích đến trường lắm không?”
“Cháu không thích đâu ạ,” tôi nói.
“Làm sao cháu biết được chứ,” bà quát. “Cháu đã bao giờ thử đâu mà biết.”
Bà rót sữa vào tô bánh bột ngô và đưa nó cho tôi, sau đó bà ngồi trên chiếc ghế đẩu, đối diện với tôi ở phía bên kia bàn quầy, và nhìn tôi xúc những thìa đầy thức ăn vào miệng.
“Ngày mai ông bà sẽ lên đường đi Arizona,” bà nói với tôi, nhưng tôi đã biết điều đó rồi. Ông bà luôn đi Arizona khi thời tiết bắt đầu thay đổi. Ông nói ông quá già để chịu đựng mùa đông Idaho; cái lạnh khiến ông buốt thấu xương. “Mai cháu hãy dậy thật sớm,” bà nói, “khoảng năm giờ, ông bà sẽ đưa cháu đi cùng. Bọn ta sẽ cho cháu đến trường.”
Tôi cựa quậy trên ghế. Tôi cố mường tượng ra trường học nhưng không thể. Thay vào đó tôi hình dung ra lớp học giáo lý ngày Chủ nhật mà tuần nào tôi cũng tham gia và tôi ghét. Một thằng con trai tên là Aaron đã nói với tất cả những đứa con gái trong lớp giáo lý rằng tôi không biết đọc bởi vì tôi không đến trường, và bây giờ không đứa nào thèm nói chuyện với tôi.
“Bố nói cháu có thể đi ư?” Tôi nói.
“Không,” bà nói. “Nhưng khi bố cháu hiểu ra rằng cháu đã biến mất, thì chúng ta đã đi từ lâu rồi.” Bà đặt cái bát của tôi vào bồn rửa và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Bà là người có tính cách mạnh mẽ – không chịu ngồi yên, hiếu chiến, tự tin. Nhìn bà là để lùi một bước. Bà nhuộm tóc đen và điều này tôn thêm những nét vốn đã dữ dội của bà, nhất là hai hàng lông mày mà sáng nào bà cũng vẽ thành hai đường vòng cung đậm, đen như mực. Bà kẻ lông mày quá rộng và điều này khiến khuôn mặt bà bị kéo giãn ra. Chúng cũng được vẽ quá cao khiến những đường nét khác trên khuôn mặt bà mang một vẻ buồn tẻ, gần như mỉa mai.
“Cháu nên đến trường,” bà nói.
“Bố sẽ không bắt bà phải đưa cháu về chứ ạ?” Tôi hỏi.
“Bố cháu không thể khiến bà làm bất cứ điều chết tiệt nào hết.” Bà đứng dậy, đứng với tư thế vững chãi. “Nếu bố cháu muốn có cháu, thì bố phải đến đón cháu.” Bà ngập ngừng, và trong chốc lát trông bà có vẻ xấu hổ. “Hôm qua ta đã nói chuyện với bố cháu rồi. Trong một thời gian dài bố cháu sẽ không thể đến đưa cháu về được. Bố cháu đang bận với cái lán mà bố cháu xây dựng trong thị trấn. Bố cháu không thể dừng việc đó lại và lái xe tới Arizona, không thể trong khi thời tiết ổn định và bố cháu cùng mấy đứa con trai có thể làm việc suốt những ngày dài.”
Kế hoạch của bà đã được tính toán cẩn thận. Bố tôi luôn làm việc từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn trong những tuần trước khi xuất hiện đợt tuyết rơi đầu tiên, cố dự trữ đủ tiền từ việc gom phế liệu và xây dựng chuồng trại để chúng tôi có thể tồn tại qua mùa đông, khi mà việc làm trở nên khan hiếm. Dù bà tôi bỏ trốn cùng với đứa con út của bố, thì bố cũng sẽ chẳng thể ngừng làm việc được, cho tới khi cái xe nâng của bố bị bọc trong băng tuyết.
“Cháu cần phải cho các con vật ăn trước khi chúng ta đi,” tôi nói. “Chắc chắn bố sẽ biết cháu đi nếu lũ bò phá hàng rào đi tìm nước uống.”
Đêm đó tôi không ngủ. Tôi ngồi trên sàn bếp nhìn thời gian trôi, qua chiếc đồng hồ treo tường. Một giờ sáng. Hai giờ. Ba giờ.
Bốn giờ tôi đứng dậy, đặt đôi giày ống của mình ở cạnh cửa sau. Phân đóng bánh lại quanh giày, và tôi chắc chắn bà sẽ không cho tôi tha đôi giày ấy lên xe hơi của bà. Tôi hình dung ra đôi giày bị bỏ lại trên hiên nhà bà, trong khi tôi chân trần bỏ trốn đến Arizona.
Tôi mường tượng những gì sẽ xảy ra khi gia đình phát hiện ra tôi đã biến mất. Anh Richard và tôi thường ở cả ngày trên núi, vậy nên có thể không ai phát hiện ra chuyện đó cho tới khi mặt trời lặn, khi Richard về nhà ăn tối mà tôi thì không. Tôi hình dung ra các anh tôi chạy túa ra khỏi cửa để tìm tôi. Các anh ấy sẽ thử tìm ở bãi phế liệu trước tiên, nhấc các tấm thép lên phòng khi các tấm thép nằm ngốn ngang đã xê dịch và khiến tôi mắc kẹt trong đống phế liệu. Sau đó họ sẽ chạy ra ngoài, tìm khắp trang trại, trèo lên cây và leo lên tầng áp mái của khu chuồng trại. Cuối cùng, họ sẽ quay lên núi.
Lúc ấy trời đã sẩm tối – khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi đêm xuống, khi quang cảnh chỉ hiện ra lờ mờ, và bạn cảm nhận thế giới xung quanh mình rõ hơn là nhìn thấy. Tôi mường tượng ra các anh mình tỏa ra trên núi, tìm kiếm trong những khu rừng tối đen. Không ai nói; ý nghĩ của tất cả các anh ấy đều giống nhau. Ở trên núi mọi chuyện có thể diễn biến xấu một cách đáng sợ. Những vách đá hiện ra bất thình lình. Những con ngựa hung dữ của ông tôi chạy lung tung trên những đám cây cần nước độc rậm rạp, và có nhiều rắn chuông. Trước đây chúng tôi đã từng tìm kiếm một con bê biến mất khỏi khu nuôi gia súc. Trong thung lũng, bạn sẽ tìm thấy một con vật bị thương; trên núi, bạn sẽ tìm thấy một con vật đã chết.
Tôi hình dung ra mẹ tôi đứng ở cửa sau, ánh mắt quét qua đỉnh núi đen sẫm, khi bố tôi về nhà nói với mẹ rằng bố và các anh không tìm thấy tôi.
Chị Audrey của tôi sẽ gợi ý rằng ai đó nên sang hỏi bà nội tôi, và mẹ tôi sẽ nói rằng bà đã lên đường đi Arizona từ sáng. Những lời đó sẽ bị bỏ lửng một lát, sau đó tất cả mọi người đều biết tôi đã đi đâu. Tôi hình dung ra khuôn mặt của bố, đôi mắt đen nheo lại, cái miệng mím chặt vẻ khó chịu khi bố quay sang mẹ. “Em nghĩ nó chọn bỏ đi ư?”
Giọng bố vọng lại nghe chậm và buồn. Sau đó nó bị những âm thanh khác từ một ký ức khác được gợi lên – tiếng đế, rồi đến tiếng súng, sau đó là sự im lặng.
Sau này tôi biết rằng đó là một vụ việc mà ai cũng biết – như vụ thảm sát Wounded Knee [1] hoặc vụ Waco [2] – nhưng khi bố tôi kể cho chúng tôi nghe chuyện đó lần đầu tôi cảm thấy như thể ngoài chúng tôi ra không ai trên thế giới biết về nó.
Sự việc bắt đầu vào gần cuối mùa đóng hộp rau quả, mùa mà tất cả những đứa trẻ khác có lẽ gọi là “mùa hè”. Gia đình tôi luôn dành những tháng ấm áp đóng các loại trái cây dự trữ vào bình, thứ mà bố tôi nói rằng chúng tôi cần cho Ngày Tận Thế. Một tối, bố từ bãi phế liệu trở về với tâm trạng bứt rứt. Bố đi đi lại lại trong phòng bếp suốt bữa ăn tối, hầu như không ăn miếng nào. Chúng tôi phải thu xếp xong mọi việc. Chỉ còn rất ít thời gian thôi.
Cả ngày hôm sau chúng tôi luộc và gọt vỏ đào. Đến lúc mặt trời lặn chúng tôi đã dồn trái cây vào đầy hàng tá bình chứa Mason, những chiếc bình được xếp theo hàng thẳng tắp, vẫn còn ấm vì trái cây được luộc từ nồi áp suất. Bố kiểm tra việc của chúng tôi, đếm các bình trái cây và lẩm bẩm một mình, sau đó quay sang mẹ và nói, “Đủ rồi.”
Tối hôm đó bố tổ chức một cuộc họp gia đình, và chúng tôi tập trung quanh bàn ăn, bởi vì nó rộng và dài, đủ chỗ ngồi cho tất cả chúng tôi. Bố nói chúng tôi có quyền được biết mình sắp chiến đấu chống lại điều gì. Bố đứng ở đầu bàn; bọn tôi ngồi vắt vẻo trên ghế, nhìn đăm đăm những tấm gỗ sồi đỏ dày cộp.
“Có một gia đình ở cách đây không xa,” bố nói. “Họ là những chiến binh tự đo. Họ sẽ không để Chính phủ tẩy não các con họ tại các trường công, vậy nên người của Liên bang theo dõi họ.” Bố thở những hơi dài và chậm. “Người của Liên bang đã bao vây lều của họ, giam lỏng họ ở đó trong nhiều tuần, và khi một đứa con của họ đói, một thằng bé, lẻn ra ngoài để kiếm cái ăn, người của Liên bang đã bắn chết nó.”
Tôi nhìn khắp lượt các anh mình. Trước đó tôi chưa từng thấy nỗi sợ hãi trên khuôn mặt của Luke.
“Họ vẫn ở trong lều,” bố nói. “Họ tắt đèn và bò trên sàn, tránh xa các cửa ra vào và cửa sổ. Bố không biết họ có bao nhiêu thức ăn. Có lẽ họ sẽ chết đói trước khi người của Liên bang bỏ cuộc.”
Không một ai thốt lên lời. Cuối cùng Luke, mười hai tuổi, hỏi liệu chúng tôi có thể giúp gì được không. “Không,” bố nói. “Không ai có thể. Họ bị kẹt trong chính ngôi nhà của họ. Nhưng họ có súng, con có thể đoán chắc tại sao người của Liên bang lại không xông vào tấn công. Bố ngừng nói để ngồi xuống, ngồi gò người trên chiếc ghế bằng động tác chậm chạp và cứng nhắc. Trong mắt tôi trông bố già khọm và mệt mỏi. “Chúng ta không thể giúp họ, nhưng chúng ta có thể giúp chính mình. Khi người của Liên bang tới núi Buck, chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng.”
Đêm đó bố lôi một đống ba lô quân đội cũ từ dưới tầng hầm lên. Bố nói đó là những chiếc ba lô để “thoát hiểm”. Cả đêm đó chúng tôi nhét đồ dùng thiết yếu vào những chiếc ba lô đó – các loại thảo dược, máy lọc nước, bật lửa. Bố đã mua sẵn mấy thùng lương khô của quân đội – và chúng tôi nhét lương khô nhiều hết mức có thể vào những chiếc ba lô, mường tượng ra lúc chúng tôi đã chạy trốn khỏi nhà và ẩn nấp trong đám cây mận dại gần con lạch, chúng tôi sẽ ăn lương khô. Mấy anh trai tôi xếp gọn những khẩu súng vào ba lô của mình nhưng tôi chỉ có một con dao nhỏ, và khi chúng tôi sắp xếp xong, cái ba lô của tôi to bằng người tôi. Tôi nhờ Luke nhấc nó lên một ngăn tủ đựng quần áo của mình, nhưng bố bảo tôi để nó ở chỗ thấp để tôi có thể lấy thật nhanh, vậy nên tôi ngủ với cái ba lô đó ở trên giường của mình.
Tôi tập đeo ba lô trên lưng và đeo ba lô chạy – tôi không muốn bị bỏ lại phía sau. Tôi tưởng tượng ra cuộc trốn chạy của gia đình mình, một cuộc trốn chạy vào ban đêm đến lãnh địa an toàn của nàng công chúa da đỏ. Tôi hiểu rằng ngọn núi là đồng minh của chúng tôi. Đối với những người quen biết, ngọn núi đó có thể rất tốt, nhưng đối với những kẻ xâm nhập, núi là sự phản bội thẳng thừng, và điều này mang lại lợi thế cho chúng tôi. Nhưng mà, nếu chúng tôi ẩn nấp trên núi khi người của Liên bang tới, thì tại sao chúng tôi lại đóng tất cả những quả đào này vào bình. Chúng tôi không thể tha cả nghìn cái bình Mason nặng trịch này lên núi. Hoặc nếu chúng tôi cần những trái đào ấy đến vậy thì chúng tôi có thể đào boong-ke ở trong nhà như gia đình Weaver và chiến đấu đến cùng chăng?
Chiến đấu đến cùng dường như là điều có thể xảy ra, nhất là khi, vài ngày sau bố tôi về nhà với hơn một tá súng trường quân đội, hầu hết là loại SKS, với những cái lưỡi lê màu bạc mỏng quẹt được gấp gọn dưới nòng súng. Những khẩu súng ấy được để trong những cái hộp thiếc hẹp và được xếp trong một lớp Cosmoline, một chất màu nâu như mỡ lợn cần phải được lột ra. Sau khi chúng đã được lau sạch, anh Tyler chọn một khẩu và đặt nó lên một tấm nhựa màu đen rồi gói lại, dùng hàng thước băng dính màu trắng bạc bó lại. Vác cái gói ấy trên vai, anh mang nó xuống đồi và thả nó xuống cạnh cái toa tàu hỏa màu đỏ. Sau đó anh bắt đầu đào. Khi cái hố đã rộng và sâu, anh thả khẩu súng xuống đó, và tôi nhìn anh lấp đất lên, cơ bắp của anh căng lên vì ráng sức, cằm anh bạnh ra. Chẳng bao lâu sau, bố mua một cái máy để chế tạo những viên đạn từ những vỏ đạn đã qua sử dụng. Bố nói bây giờ chúng tôi có thể trụ lâu hơn trong thế giằng co. Tôi nghĩ đến cái ba lô để "thoát hiểm" của mình và khẩu súng trường được giấu gần toa tàu hỏa, và bắt đầu lo lắng về cái máy chế tạo đạn. Nó kềnh càng và được đóng chốt vào một cái máy trạm sắt ở trong tầng hầm. Nếu bị tấn công bất ngờ thì tôi tính chúng tôi sẽ chẳng có thời gian để xuống lấy nó mang đi. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có nên chôn nó cùng với khẩu súng trường không.
Chúng tôi tiếp tục dồn những quả đào vào bình. Tôi không nhớ đã bao nhiêu ngày trôi qua hoặc chúng tôi đã bổ sung bao nhiêu bình trái cây vào kho dự trữ trước khi bố kể cho chúng tôi nghe thêm về chuyện đó.
"Randy Weaver đã bị bắn," bố nói, giọng yếu ớt, lập bập. "Ông ta rời lều để đi mang xác con trai về, và người của Liên bang đã bắn ông ta." Trước đó tôi chưa từng thấy bố khóc, nhưng bây giờ những giọt nước mắt rơi thành một dòng chảy xuống từ mũi bố. Bố không lau nước mắt, cứ để mặc chúng rơi xuống áo sơ mi. "Vợ ông ta nghe thấy tiếng súng và chạy tới cửa sổ, ôm đứa con nhỏ trong tay. Thế rồi tiếng súng thứ hai vang lên."
Mẹ tội đang ngồi khoanh tay, một bàn tay để trước ngực, tay kia bịt chặt miệng. Tôi nhìn đăm đăm xuống mặt vải sơn lót sàn loang lổ trong khi bố kể với chúng tôi đứa bé được nhấc khỏi tay mẹ nó, mặt dính máu của người mẹ.
Trước đó, vốn đã mong chờ chuyện phiêu lưu ấy, tôi phần nào muốn người của Liên bang tới. Giờ đây tôi cảm thấy thực sự sợ hãi. Tôi hình dung ra các anh mình ẩn núp trong bóng tối, những bàn tay đẫm mồ hôi trượt trên báng súng. Tôi hình dung ra mẹ, mệt lả và khát khô, lùi xa khỏi cửa sổ. Tôi hình dung ra mình nằm sấp trên sàn nhà, bất động và im lặng lắng nghe tiếng kêu ghê tai của lũ dế ngoài cánh đồng. Sau đó tôi nhìn thấy mẹ đứng lên, đưa tay ra với vòi nước ở bếp. Một tia sáng trắng lóe lên, tiếng súng nổ, và mẹ đổ gục xuống. Tôi lao tới để đỡ em bé.
Bố chưa bao giờ kể cho chúng tôi nghe phần kết của câu chuyện ấy, Chúng tôi không có TV hay đài, vậy nên có lẽ chính bố cũng không biết chuyện kết thúc ra sao. Điều cuối cùng tôi nhớ bố đã nói về chuyện đó là: “Lần tới, đó có thể sẽ là chúng ta.”
Những lời ấy ám ảnh tôi suốt. Tôi nghe thấy tiếng vọng của chúng trong tiếng dế kêu, trong tiếng mứt đào rơi xuống bình thủy tinh, trong tiếng kim loại loảng xoảng khi một khẩu SKS được lau chùi. Tôi nghe thấy chúng mỗi buổi sáng khi tôi đi qua cái toa tàu hỏa và dừng lại trước đám cây tràng sao và cây kế bò mọc lên ở chỗ Tyler đã chôn khẩu súng. Khá lâu sau khi bố đã quên sự mặc khải trong sách Isaiah, và mẹ đã lại nhét những bình nhựa chứa loại sữa “2% chất béo dùng cho cả gia đình” vào tủ lạnh, tôi vẫn còn nhớ đến nhà Weaver.
Đã gần năm giờ sáng.
Tôi quay về phòng mình, đầu tôi đầy nghẹt tiếng dế kêu và tiếng súng. Trên chiếc giường ở bên dưới, Audrey đang ngáy theo nhịp chậm rãi, mãn nguyện, gọi mời tôi cũng làm như vậy. Thay vì thế tôi trèo lên giường của mình, ngồi khoanh chân, nhìn ra ngoài cửa sổ. Mốc năm giờ trôi qua. Rồi sáu giờ. Lúc bảy giờ bà tôi xuất hiện và tôi nhìn bà đi đi lại lại trên hiên nhà bà, quay nhìn lên phía nhà tôi trên đồi một lát. Sau đó ông bà bước lên xe, và thẳng tiến ra đường cao tốc.
Khi xe của ông bà đi rồi, tôi ra khỏi giường ăn một tô ngũ cốc với nước lọc. Ở bên ngoài tôi được con dê Kamikaze của Luke đón mừng, gặm áo tôi khi tôi bước về phía khu nuôi gia súc. Tôi đi qua chiếc xe go-kart [3] mà Richard cải tiến từ một chiếc máy xén cỏ cũ. Tôi cho lợn ăn, đổ thức ăn đầy máng và dắt những con ngựa của ông nội ra bãi cỏ mới. Sau khi làm xong mấy việc đó, tôi trèo lên cái toa tàu hỏa và nhìn ra thung lũng. Thật dễ để giả vờ rằng cái toa tàu đang chuyển động, chạy băng băng khỏi nơi này, rằng bất cứ lúc nào thung lũng cũng có thể biến mất phía sau tôi. Tôi đã chơi với cuốn phim tưởng tượng ấy trong đầu mình nhiều giờ nhưng hôm nay những cuộn phim không quay. Tôi quay về phía Tây, quay mặt khỏi những cánh đồng, và hướng về phía đỉnh núi.
Nàng công chúa luôn rạng rỡ nhất vào mùa xuân, ngay sau khi những cây tùng hiện ra khỏi tuyết, những chiếc lá kim màu xanh sẫm của chúng gần như đen ánh trên nền nâu hung hung của đất và vỏ cây. Bây giờ là mùa thu. Tôi vẫn có thể nhìn thấy nàng nhưng nàng đang mờ đi: những sắc đỏ và vàng của một mùa hè đang tàn che mờ hình hài đen huyền của nàng. Chẳng bao lâu nữa sẽ có tuyết. Trong thung lũng, đợt tuyết đầu tiên sẽ tan nhưng trên núi tuyết vẫn lay lắt, chôn vùi nàng công chúa cho đến tận mùa xuân, khi nàng sẽ lại xuất hiện, đầy thao thức.
Chú thích:
[1] Cuộc thảm sát trong năm 1890 gần rạch Wounded Knee, trên vùng đất dành riêng cho người đa đỏ Lakota (ở bang South Dakota, Mỹ). Binh lính Mỹ đã đụng độ với họ và sát hại rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ em.
[2] Cuộc đụng độ gay gắt giữa chính quyền bang Texas với một giáo phái do nghi ngờ giáo phái này vi phạm luật vũ khí.
[3] Một loại xe nhỏ với bốn bánh và động cơ, ngoài ra không có công nghệ tiên tiến nào. Bởi vậy, người lái phải hoàn toàn điều khiển chiếc xe. Xe có vị trí ngồi rất thấp, tương tự xe đua chuyên nghiệp.