← Quay lại trang sách

Chương 2 Bà Đỡ

Bà có cúc kim tiền không?” bà đỡ hỏi. “Tôi cũng cần cây lobelia và lá cây phỉ nữa.”

Bà ta ngồi tại bàn quầy ở phòng bếp, nhìn mẹ tôi lục lọi khắp mấy cái tủ gỗ dương. Một cái cân điện tử được đặt trên mặt bàn giữa họ, và thỉnh thoảng mẹ sử dụng nó để cân lá thảo dược khô. Đó là mùa xuân. Thời tiết đã lạnh vào buổi sáng mặc dù ngoài trời có nắng rực rỡ.

“Tuần trước tôi đã làm một mẻ cúc kim tiền mới,” mẹ nói. “Tara, đi lấy nó ra đây.”

Tôi nhớ lại mùi hương thoang thoảng của nó, và nhớ mẹ đã gói nó trong cái túi nhựa cùng thảo dược phơi khô.

“Cần gì nữa không nhỉ?” Mẹ cười. Tiếng mẹ lảnh lót và căng thẳng. Bà đỡ đã hăm dọa mẹ, và khi bị hăm dọa mẹ tôi ở trong trạng thái phi trọng lượng, lướt đi nhanh thoăn thoắt mỗi lần bà đỡ thực hiện một động tác chắc chắn, chậm rãi.

Bà đỡ kiểm tra danh sách của mình. “Đủ rồi.”

Bà là một phụ nữ vừa lùn vừa béo, suýt soát năm mươi, có mười một người con và có một cái mụn cóc màu nâu đỏ ở cằm. Bà có mái tóc dài nhất mà tôi từng thấy, một dòng thác màu lông chuột đổ dài xuống tận kheo chân của bà khi bà gỡ búi tóc được quấn chặt của mình ra. Đường nét trên khuôn mặt của bà không được nhẹ nhõm cho lắm, giọng nói của bà trầm trầm đầy uy quyền. Bà không có giấy phép hành nghề, chẳng có chứng nhận, chứng chỉ gì hết. Bà là một bà đỡ hoàn toàn nhờ năng lực hơn cả đủ của bà.

Mẹ tôi sẽ trở thành phụ tá của bà. Tôi nhớ đã quan sát họ trong ngày đầu tiên ấy và thầm so sánh họ. Mẹ với nước da hồng hào và mái tóc quăn theo làn sóng bồng bềnh quanh vai. Mí mắt mẹ sáng lung linh. Sáng nào mẹ cũng trang điểm, nhưng nếu không có thời gian làm điều đó, thì mẹ xin lỗi cả ngày, cứ như thể không trang điểm, mẹ đã gây phiền phức cho tất cả mọi người.

Bà đỡ trông như thể cả thập kỷ không mảy may quan tâm đến vẻ ngoài, và phong thái của bà khiến bạn cảm thấy thật ngốc vì đã để ý đến bà.

Bà đỡ gật đầu tạm biệt, mang theo đẫy một ôm các loại thảo dược của mẹ.

Lần tới bà đỡ đến dẫn theo đứa con gái tên là Maria, đứng cạnh bà, bắt chước các động tác của bà, cùng với một đứa bé được bế như dính vào cái thân hình chín tuổi dẻo dai của nó. Tôi nhìn nó với ánh mắt hy vọng. Tôi không gặp nhiều những đứa con gái khác không đến trường giống như mình. Tôi sán lại gần, cố thu hút sự chú ý của nó, nhưng nó hoàn toàn bị hút vào việc lắng nghe mẹ mình, người đang giải thích rằng cây kim ngân hoa và cây ích mẫu nên được bổ sung để trị chứng co thắt tử cung sau sinh như thế nào. Maria gật gù tỏ vẻ tán đồng; ánh mắt nó không hề rời khuôn mặt của bà mẹ.

Tôi lê bước đọc hành lang về phòng riêng, một mình, nhưng khi quay ra để đóng cửa, tôi thấy nó đứng đó vẫn bế đứa bé trên hông. Thằng bé béo ịch, và thân mình con bé vẹo đi trông rất rõ ở đoạn thắt lưng để thằng bé có thể trụ trên hông nó. “Mày sẽ đi chứ?” Nó nói. Tôi không hiểu câu hỏi. “Tao lần nào cũng đi,” nó nói. “Mày đã xem một đứa bé được đẻ ra chưa?” “Chưa.” “Tao đã xem nhiều lần rồi. Mày có biết đẻ ngược nghĩa là thế nào không?” “Không.” Tôi nói như một lời xin lỗi.

Lần đầu tiên phụ đỡ đẻ, mẹ tôi đi liền hai ngày. Sau đó mẹ lướt vào nhà qua cửa sau, nhợt nhạt đến mức dường như mặt mẹ trong suốt, và lao tới sofa, ở yên đó, run rẩy. “Khiếp quá,” mẹ thều thào. “Ngay cả Judy cũng nói bà ấy sợ.” Mẹ nhắm mắt lại. “Mà bề ngoài trông bà ấy không có vẻ sợ hãi gì cả.”

Mẹ nghỉ vài phút, cho đến khi sắc mặt mẹ khá hơn, rồi mẹ kể chuyện đã xảy ra. Ca đẻ đó kéo dài, mệt nhọc, và khi đứa bé cuối cùng cũng ra, người mẹ bị rách và tình trạng rất tệ. Có máu ở khắp mọi nơi. Thuốc vi lượng đồng căn không cầm máu được. Đó là khi mẹ hiểu ra rằng dây rốn quấn quanh cổ đứa bé. Thằng bé tím tái, vậy nên mẹ cứ nghĩ nó đã chết. Khi mẹ kể lại những chi tiết đó, mặt mẹ cắt không còn hột máu cho tới khi mẹ ngồi đó, mặt trắng bệch như một quả trứng, hai tay mẹ ôm quanh người.

Audrey pha trà cúc La Mã và chúng tôi dìu mẹ vào giường ngủ. Tối hôm đó khi bố về nhà, mẹ kể chuyện ấy cho bố nghe. “Em không thể làm việc đó,” mẹ nói. “Judy có thể, nhưng em thì không.” Bố ôm vai mẹ. “Đây là nhiệm vụ mà Chúa giao cho,” bố nói. “Đôi khi Chúa yêu cầu chúng ta làm những việc khó.”

Mẹ không muốn làm bà đỡ. Mẹ học đỡ đẻ là ý tưởng của bố tôi, một trong những kế hoạch cho sự tự lực cánh sinh mà bố vạch ra. Chẳng gì bố ghét hơn là sống phụ thuộc vào Chính phủ. Bố nói một ngày nào đó chúng tôi sẽ sống mà hoàn toàn không kết nối với những hạ tầng của Chính phủ, như điện, nước. Ngay khi kiếm đủ tiền, bố sẽ lập kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn nước từ trên núi xuống, và sau đó lắp những tấm pin mặt trời trên khắp trang trại. Đó sẽ là cách để chúng tôi có điện và nước trong Ngày Tận Thế, khi tất cả những người khác uống nước từ những vũng nước bẩn và sống trong bóng tối. Mẹ là một thầy thuốc đông y, vậy nên mẹ có thể chăm sóc sức khỏe cho chúng tôi, và nếu mẹ học kỹ thuật đỡ đẻ thì mẹ sẽ có thể đỡ các cháu gọi mình bằng bà khi chúng ra đời.

Vài ngày sau ca đỡ đẻ đầu tiên ấy, bà đỡ đến gặp mẹ. Bà dẫn Maria đến và nó lại theo tôi tới phòng riêng. “Thật tệ là mẹ mày mới lần đầu tiên đã gặp phải ca nặng,” nó mỉm cười, nói. “Ca tới đây sẽ dễ hơn.”

Vài tuần sau, phỏng đoán này được kiểm chứng. Lúc đó là nửa đêm. Vì chúng tôi không có điện thoại, bà đỡ gọi tới nhà bà-ở-chân-đồi, và bà tôi cuốc bộ lên đồi, mệt lử, cáu bẳn, la toáng lên rằng đã đến lúc mẹ đi “chơi trò bác sĩ”. Bà chỉ ở lại vài phút nhưng đánh thức cả nhà. “Tôi không hiểu nổi tại sao các người không thể đi bệnh viện như mọi người khác,” bà gào lên, đóng sập cửa đánh rầm trong khi bước ra khỏi nhà chúng tôi.

Mẹ tôi tìm cái túi dùng cho những chuyến đi ngắn và cái hộp dụng cụ mà mẹ đã nhét đầy những lọ cồn thuốc màu đen vào, rồi chậm chạp bước ra cửa. Tôi lo lắng, ngủ chập chờn, nhưng sáng hôm sau, khi mẹ về, tóc rối bù, mắt thâm quầng, môi hé nụ cười nhẹ nhõm. “Là con gái,” mẹ nói. Rồi mẹ lên giường ngủ cả ngày.

Nhiều tháng trôi qua như thế, mẹ rời khỏi nhà và trở về vào bất cứ giờ nào, run rẩy, thở phào vì việc đã xong. Trước khi lá bắt đầu rụng mẹ đã trợ giúp hơn chục ca đỡ đẻ. Đến hết mùa đông, vài chục ca. Vào mùa xuân mẹ nói với bố rằng mẹ đi đỡ đẻ như thế đủ rồi, rằng nếu buộc phải làm việc đó, nếu đó là Ngày Tận Thế, thì mẹ có thể đỡ đẻ được rồi. Bây giờ mẹ có thể dừng.

Nghe mẹ nói thế mặt bố xị ra. Bố nhắc nhở mẹ rằng đây là ý Chúa, rằng điều đó sẽ mang lại phước lành cho gia đình chúng tôi, “Em cần phải làm bà đỡ,” bố nói. “Em cần phải tự mình đỡ đẻ.”

Mẹ lắc đầu. “Em chịu,” mẹ nói. “Vả lại, ai sẽ thuê em khi mà họ có thể thuê Judy?”

Mẹ nguyền rủa bản thân, ném cái găng tay dài của mẹ trước Chúa. Chẳng bao lâu sau, Maria nói với tôi rằng bố nó đã có việc làm mới ở Wyoming. “Mẹ tao nói mẹ mày sẽ thế chân bà ấy,” Maria nói. Một hình ảnh xúc động hình thành trong trí tưởng tượng của tôi, về tôi trong vai của Maria, con gái bà đỡ, tự tin, đầy hiểu biết. Nhưng khi tôi quay sang để nhìn mẹ đang đứng cạnh mình, hình ảnh đó biến mất ngay tắp lự.

Đỡ đẻ không phải là việc bất hợp pháp ở bang Idaho, nhưng nó chưa được phê chuẩn. Nếu một ca đỡ đẻ không thành công, bà đỡ có thể phải đối mặt với tội danh hành nghề y không có giấy phép; nếu nhiều sai sót xảy ra, bà đỡ có thể bị buộc tội ngộ sát, thậm chí phải ngồi tù. Chỉ vài phụ nữ chấp nhận loại rủi ro ấy, vậy nên ở đó hiếm có các bà đỡ: khi Judy chuyển tới Wyoming, mẹ tôi trở thành bà đỡ duy nhất trong suốt một trăm dặm.

Những người phụ nữ bụng mang dạ chửa bắt đầu tới nhà tôi, nài xin mẹ đỡ đẻ cho họ. Mẹ co rúm người lại khi nghĩ đến việc đó. Một phụ nữ ngồi trên thành ghế sofa màu vàng nhạt bạc phếch của chúng tôi, nhìn trân trân xuống sàn, khi cô giải thích rằng chồng cô đang thất nghiệp và họ không có tiền để đăng ký sinh ở bệnh viện. Mẹ ngồi yên lặng, mắt nhìn tập trung vào một điểm, môi mím chặt, vẻ mặt mẹ rắn đanh trong chốc lát. Sau đó vẻ rắn đanh ấy tan biến và mẹ nói bằng giọng nhỏ nhẹ: “Tôi không phải là bà đỡ, tôi chỉ là người phụ giúp thôi.”

Người phụ nữ ấy quay trở lại nhà tôi vài lần, ngồi vắt vẻo trên thành sofa hết lần này đến lần khác, miêu tả những lần sinh nở dễ như trở bàn tay mà cô đã trải qua. Mỗi khi bố tôi nhìn thấy xe hơi của người phụ nữ ấy từ bãi phế liệu, bố lặng lẽ vào nhà bằng cửa sau, giả vờ vào lấy nước; sau đó bố đứng trong bếp khẽ khàng và chậm rãi uống từng ngụm nước, trong khi dỏng tai nghe cuộc chuyện trò từ phòng khách. Mỗi lần người phụ nữ ấy rời khỏi nhà chúng tôi, bố hầu như không thể kiểm chế nổi cơn phấn khích, vậy nên cuối cùng, hoặc vì không chịu nổi nỗi tuyệt vọng của người phụ nữ ấy hoặc niềm sung sướng của bố, hoặc vì cả hai, mẹ nhượng bộ.

Ca sinh nở ấy diễn ra suôn sẻ. Sau đó, người phụ nữ ấy có một người bạn cũng mang bầu, và mẹ đỡ đẻ cho cô ta êm xuôi. Thế rồi cô kia có một người bạn. Mẹ lại đỡ đẻ tiếp. Chẳng bao lâu sau mẹ đã đỡ nhiều đứa trẻ ra đời đến mức nhiều ngày trời Audrey và tôi lái xe quanh thung lũng cùng mẹ, theo dõi mẹ thăm khám cho các sản phụ trước khi sinh và kê đơn thảo dược. Mẹ trở thành cô giáo của chúng tôi theo một cách mà mẹ chưa từng, bởi vì trước đó chúng tôi hiếm khi tổ chức học tại nhà. Mẹ giải thích từng bài thuốc và phương pháp giảm đau. Nếu là trường hợp huyết áp cao, người đó sẽ được cho dùng thảo dược làm từ cây táo gai để ổn định collagen và làm giãn mạch. Nếu bà-nào-đó có hiện tượng co thắt sớm thì bà ta cần tắm nước gừng để tăng lượng oxy cho tử cung.

Việc đỡ đẻ đã làm con người mẹ thay đổi. Mẹ là một người phụ nữ trưởng thành có bảy đứa con, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời, mẹ là người chịu trách nhiệm, mà không có sự ướm hỏi hay báo trước. Thỉnh thoảng, vào những ngày sau một ca sinh nở, tôi phát hiện thấy ở mẹ bộ dạng nặng nề của bà đỡ Judy, trong động tác quay ngoắt lại, hoặc qua đường cong hống hách của một bên lông mày mẹ. Mẹ ngừng trang điểm, sau đó mẹ ngừng xin lỗi vì không trang điểm.

Mẹ lấy khoảng năm trăm đô-la cho mỗi ca đỡ đẻ, và đây là một cách khác mà việc đỡ đẻ làm thay đổi mẹ: bỗng nhiên mẹ có tiền.

Bố không tin phụ nữ nên làm việc để kiếm tiền, nhưng tôi cho rằng bố nghĩ mẹ được trả tiền cho việc đỡ đẻ là đúng, bởi vì nó làm suy yếu Chính phủ. Vả lại, chúng tôi cần tiền. Bố làm việc vất vả hơn bất cứ người đàn ông nào mà tôi biết, nhưng việc gom phế liệu, xây lán trại chẳng mang lại nhiều tiền, và thật hữu ích khi mẹ có thể dùng những phong bì chứa tiền lẻ mà mẹ cất trong ví để mua tạp phẩm. Đôi khi, nếu chúng tôi bận di chuyển trong thung lũng cả ngày, giao thảo dược và thăm khám cho sản phụ trước khi sinh, mẹ dùng tiền đó đưa tôi và Audrey đi ăn tiệm. Bà-trong-thị-trấn đã cho tôi một cuốn sổ ghi chép được trang trí hình chú gấu Teddy màu nâu trên bìa, và tôi ghi vào đó trải nghiệm lần đầu mẹ đưa chị em tôi tới một nhà hàng mà tôi miêu tả là “thật sự tuyệt vời với thực đơn và mọi thứ.” Theo như ghi chép, bữa ăn của tôi tốn tận 3,3 đô-la.

Mẹ cũng dùng tiền kiếm được để cải thiện việc đỡ đẻ của mình. Mẹ mua một bình oxy phòng khi đứa trẻ nào đó ra đời không thể thở được, và mẹ theo một khóa học khâu vết thương để có thể khâu cho những phụ nữ bị rách khi sinh nở. Judy luôn chuyển những phụ nữ cần phải khâu đến bệnh viện, nhưng mẹ quyết tâm học kỹ năng đó. Tôi hình dung mẹ nghĩ, phải tự lực cánh sinh. Với số tiền còn lại, mẹ lắp máy điện thoại [1]. Một hôm một chiếc xe tải nhỏ màu trắng xuất hiện và một nhóm đàn ông mặc đồ bảo hộ lao động bắt đầu trèo lên những cột điện bên đường cao tốc. Bố hầm hầm lao vào nhà bằng cửa sau đòi được biết chuyện quái quỷ gì đang xảy ra. “Em nghĩ anh muốn có một chiếc điện thoại,” mẹ nói, đôi mắt mẹ đầy ngạc nhiên đến mức không thể chê vào đâu được. Mẹ tiếp tục nói liến thoắng. “Anh đã nói có thể sẽ gay go nếu ai đó đau đẻ mà em không ở nhà để nhận điện thoại. Em nghĩ, Bố nó nói đúng, chúng ta cần một cái máy điện thoại! Em ngốc quá! Em đã hiểu sai ý anh chăng?”

Bố đứng đó vài giây, miệng há hốc. Bố nói, tất nhiên làm bà đỡ thì cần có điện thoại. Rồi bố quay trở lại bãi phế liệu và không càm ràm về chuyện ấy nữa. Chúng tôi không có điện thoại từ bao lâu rồi tôi không nhớ nữa, nhưng ngay hôm sau cái máy điện thoại đã ở đó, nằm trên cái giá để ống nghe màu vỏ chanh, cái đế bóng loáng của nó trông thật lạc lõng bên cạnh những lọ thảo dược thiên ma và bán chỉ liên xám xịt và tẻ nhạt.

Mười lăm tuổi Luke hỏi mẹ liệu anh có thể lấy giấy khai sinh được không. Anh muốn đăng ký học lái xe bởi vì Tony, anh cả của chúng tôi, đang kiếm ra tiền từ việc chở vật liệu mà anh có thể làm vì anh có bằng lái. Shawn và Tyler, hai anh kế Tony đều có giấy khai sinh; chỉ bốn đứa con sinh sau của mẹ – Luke, Audrey, Richard và tôi – không có.

Mẹ bắt đầu soạn giấy tờ. Tôi không biết mẹ có nói chuyện ấy với bố trước hay không. Nếu mẹ đã nói thì tôi không thể giải thích nổi điều gì đã làm bố tôi thay đổi – tại sao bỗng nhiên chính sách mười năm không đăng ký với Chính phủ lại kết thúc mà không hề có sự đấu tranh – nhưng tôi nghĩ có lẽ đó là từ cái điện thoại. Cứ như thể bố đã chấp nhận rằng nếu bố thực sự đối đầu với Chính phủ thì bố buộc phải chấp nhận những rủi ro nhất định. Việc mẹ làm bà đỡ sẽ lật đổ hệ thống Y tế công, nhưng để làm bà đỡ mẹ lại cần một chiếc điện thoại. Có lẽ logic tương tự được mở rộng tới Luke: Luke cần có thu nhập để nuôi sống một gia đình, để mua nhu yếu phẩm chuẩn bị cho Ngày Tận Thế, vậy nên anh cần có giấy chứng sinh. Một khả năng khác là, mẹ đã không hỏi bố. Có lẽ mẹ cứ quyết định thôi, và bố chấp nhận quyết định của mẹ. Có lẽ, thậm chí bố – vốn là người đàn ông quyền lực – tạm thời bị sức mạnh của mẹ gạt sang một bên.

Khi mẹ bắt đầu làm giấy tờ cho Luke, mẹ quyết định mẹ cũng sẽ lấy giấy khai sinh cho tất cả chúng tôi. Việc đó khó khăn hơn mẹ tưởng. Mẹ lục tung cả nhà lên để tìm các giấy tờ chứng minh chúng tôi là con của mẹ. Mẹ chẳng tìm thấy gì hết. Trong trường hợp của tôi, chẳng ai nhớ một cách chính xác ngày tháng năm sinh. Mẹ nhớ một ngày, bố nhớ một ngày khác, bà-ở-chân-đồi, đã từng vào thị trấn làm một bản khai có tuyên thệ rằng tôi là cháu gái của bà, đưa ra một ngày khác.

Mẹ gọi điện tới trụ sở của giáo hội ở thành phố Salt Lake. Một người thư ký ở đó tìm thấy một giấy chứng nhận từ lễ đặt tên thánh của tôi, khi tôi còn là một đứa trẻ sơ sinh, và một giấy khác từ lễ rửa tội của tôi, và cũng giống như mọi đứa trẻ theo giáo phái Mặc Môn, nghi lễ đó diễn ra khi tôi tám tuổi. Mẹ đề nghị họ gửi bản sao của các giấy tờ đó cho chúng tôi. Vài ngày sau họ gửi chúng đến bằng đường bưu điện. “Chao ôi!” Mẹ nói khi mẹ mở phong bì ra. Mỗi giấy tờ đó cho biết một ngày sinh khác, và chẳng ngày nào khớp với ngày bà tôi đã ghi trong bản khai có tuyên thệ.

Tuần đó ngày nào mẹ cũng nói chuyện điện thoại hàng giờ. Với cái ống nghe được kẹp trên vai, dây điện thoại vắt ngang phòng bếp, mẹ nấu nướng, lau dọn, và lọc tinh chất cây mao lương hoa vàng và cây kế sữa, trong khi nói đi nói lại qua điện thoại chuyện đó.

“Hẳn rồi, đáng lẽ tôi nên khai sinh cho con bé, khi nó ra đời, nhưng tôi đã không làm, vậy nên giờ chúng tôi mới phiền các vị.”

Những giọng nói lẩm bẩm ở đầu dây bên kia.

“Tôi đã nói với bà rồi – và cấp dưới của bà, và cấp dưới của cấp dưới của bà, và năm mươi người trong tuần này – con bé không đến trường, cũng chẳng có sổ khám chữa bệnh. Nó không có những thứ đó! Bị mất cả rồi. Tôi không thể xin bản sao được. Làm gì có mà xin!”

“Ngày sinh của con bé ứ? Cứ cho là ngày hai mươi bảy.”

“Không, tôi không chắc đâu.”

“Không, tôi không có giấy tờ làm bằng chứng.”

“Được, tôi sẽ giữ máy.”

Những giọng nói ấy luôn khiến mẹ giữ máy khi mẹ thừa nhận rằng mẹ không biết ngày sinh của tôi, và chuyển máy tới cấp cao hơn của họ, như thể việc không biết tôi sinh vào ngày mấy đã khiến toàn bộ khái niệm có danh tính của tôi trở nên bất hợp pháp. Dường như người ta nói, bạn không thể là người mà không có ngày sinh được. Tôi không hiểu tại sao lại không. Việc không ai biết ngày sinh của tôi dường như chưa bao giờ là chuyện lạ lùng cho tới khi mẹ quyết định làm giấy khai sinh cho tôi. Tôi biết mình chào đời gần cuối tháng Chín, và mỗi năm tôi chọn một ngày không rơi vào Chủ nhật bởi vì chẳng thú vị chút nào khi bạn dùng cả ngày sinh nhật ở nhà thờ.

Thỉnh thoảng tôi ước gì mẹ đưa máy điện thoại cho tôi để tôi có thể giải thích. “Cháu cũng có ngày sinh nhật, như các ông bà,” tôi muốn nói với những giọng nói kia. “ Chỉ là ngày đó thay đổi. Các ông bà không muốn thay đổi ngày sinh nhật của mình sao?”

Cuối cùng, mẹ thuyết phục được bà-ở-chân-đồi làm một bản khai có tuyên thệ mới tuyên bố rằng tôi sinh vào ngày hai mươi bảy, mặc dù bà vẫn tin đó là ngày hai mươi chín, và bang Idaho cấp một giấy khai sinh cho tôi theo trường hợp khai sinh chậm trễ. Tôi nhớ hôm cái giấy đó đến qua bưu điện. Được trao cho cái giấy chứng nhận hợp pháp đầu tiên về bản thể của mình, tôi có cảm giác bị truất quyền sở hữu rất kỳ cục: trước đó tôi chưa bao giờ chợt nghĩ cái giấy chứng nhận đó là cần thiết.

Vậy là tôi đã có giấy khai sinh rất lâu trước khi Luke có giấy khai sinh của anh ấy. Khi mẹ bảo với những giọng nói trên điện thoại rằng mẹ ngờ rằng tôi sinh vào khoảng cuối tháng Chín, họ im lặng. Nhưng khi mẹ bảo họ rằng mẹ không biết chính xác Luke sinh vào tháng Năm hay tháng Sáu thì điều đó khiến những giọng nói ở đầu đầy bên kia om xòm cả lên.

Mùa thu ấy, khi tôi chín tuổi, tôi đi đỡ đẻ cùng mẹ. Nhiều tháng, tôi đã mè nheo đòi đi, nhắc mẹ rằng bằng tuổi tôi Maria đã được xem cả tá ca đẻ. “Mẹ không phải là bà mẹ đang nuôi con bú,” mẹ nói. “Mẹ không có lý do để đưa con theo. Vả lại, con sẽ không thích việc đó đâu.”

Cuối cùng, mẹ được một người đàn bà có mấy đứa con nhỏ thuê đỡ đẻ. Việc được thu xếp: tôi sẽ trông mấy đứa nhỏ trong khi ca đẻ diễn ra.

Cuộc điện thoại đến vào lúc nửa đêm. Chuông điện thoại réo vang khắp hành lang, và tôi nín thở, hy vọng không phải người ta gọi nhầm số. Một phút sau mẹ có mặt bên giường tôi. “Đến lúc rồi,” mẹ nói, và chúng tôi cùng chạy ra xe.

Trong suốt mười dặm đường mẹ diễn tập với tôi những gì tôi sẽ nói nếu điều tồi tệ nhất xảy ra và nếu người của Liên bang tới. Trong bất kỳ trường hợp nào tôi cũng sẽ không được nói với họ rằng mẹ là một bà đỡ. Nếu họ hỏi tại sao chúng tôi lại ở đó, tôi sẽ không nói gì. Mẹ gọi đó là “nghệ thuật im lặng.” “Con cứ nói rằng con đang ngủ và con chẳng nhìn thấy gì hết và con không biết bất cứ điều gì, và con chẳng thể nhớ nổi tại sao chúng ta lại ở đó,” mẹ nói. “Chớ có đưa cho họ thêm bất cứ sợi dây thừng nào để họ treo cổ mẹ ngoài những sợi dây họ đã có sẵn.”

Mẹ rơi vào im lặng. Tôi chăm chú nhìn mẹ trong khi mẹ lái xe. Khuôn mặt mẹ được đèn trong bảng đồng hồ soi sáng, và nó trông trắng bệch như ma trên cái nền đen như mực của những con đường nông thôn. Nỗi sợ hãi khắc sâu vào những đường nét trên mặt mẹ, trong nét chau mày và đôi môi mím chặt. Chỉ có một mình tôi ở bên, mẹ dẹp bỏ con người mà mẹ phô ra cho người khác thấy. Mẹ trở về là chính mình, mệt mỏi, thở hổn hển.

Tôi nghe thấy những tiếng thì thầm khe khẽ và hiểu rằng tiếng thì thầm đó phát ra từ mẹ. Mẹ đang lẩm bẩm cái gọi là “điều gì sẽ xảy ra nếu” với chính bản thân. Điều gì sẽ xảy ra nếu có sự cố? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu trong bệnh sử của họ có điều gì đó phức tạp, mà họ không nói trước với mẹ? Hoặc điều gì sẽ xảy ra nếu đó là một điều bình thường, một khủng hoảng thông thường, và mẹ hoảng sợ, đờ người ra, không cầm máu kịp thời? Vài phút nữa thôi chúng tôi sẽ đến nơi, và mẹ nắm giữ hai mạng sống trong đôi tay bé nhỏ, run rẩy của mình. Tôi chưa bao giờ hiểu được rủi ro mà mẹ đối mặt cho đến phút đó. “Người ta chết trong bệnh viện,” mẹ thì thầm, những ngón tay mẹ bám chặt bánh lái, như hồn ma. “Đôi khi Chúa gọi họ về nhà, và chẳng ai có thể làm gì được. Nhưng nếu điều đó xảy ra với một bà đỡ…” Mẹ quay sang, nói thẳng với tôi. “Chỉ cần một sơ suất thôi, là con sẽ thăm mẹ ở nhà tù.”

Chúng tôi đến nơi và mẹ biến thành người khác. Mẹ đưa ra một loạt mệnh lệnh, cho ông bố, cho bà mẹ và cho tôi. Tôi gần như quên làm những gì mẹ bảo, tôi không thể rời mắt khỏi mẹ. Tôi hiểu rằng đêm đó tôi sẽ thấy mẹ lần đầu tiên, thấy sức mạnh bí ẩn của mẹ.

Mẹ ra lệnh bằng những tiếng quát tháo và chúng tôi lặng lẽ làm theo lệnh của mẹ. Đứa trẻ chào đời mà không có bất kỳ biến chứng nào. Thật hoang đường và huyễn tưởng khi làm người chứng kiến kín đáo bước ngoặt này trong vòng đời, nhưng mẹ nói đúng, tôi không thích việc đó. Nó kéo dài và mệt mỏi, và toàn mùi mồ hôi háng.

Tôi không nằng nặc đòi theo mẹ đến cuộc đỡ đẻ tiếp theo. Mẹ trở về nhà, nhợt nhạt và run rẩy. Giọng mẹ run run khi mẹ kể cho tôi và chị tôi nghe chuyện: nhịp tim của đứa trẻ chậm đi một cách đáng ngại, tới mức chỉ rung rung; mẹ gọi xe cứu thương, sau đó quyết định họ không thể đợi được nữa nên liền đưa sản phụ tới bệnh viện bằng xe của mẹ. Mẹ lái xe với tốc độ cao đến mức trước khi mẹ tới bệnh viện mẹ bị cảnh sát truy đuổi. Trong phòng cấp cứu, mẹ cố cung cấp cho các bác sĩ thông tin họ cần mà không tỏ ra quá rành rẽ, để họ khỏi nghi ngờ mẹ là bà đỡ chui.

Một ca mổ đẻ cấp cứu đã diễn ra. Người mẹ và đứa bé phải nằm viện vài ngày, và trước khi mẹ con họ được ra viện mẹ đã hết run. Thực ra, mẹ dường như đã vui vẻ và bắt đầu kể chuyện ấy theo cách khác, nêm vào đó chi tiết mẹ bị viên cảnh sát bắt phải tấp vào lề đường, và ông ta ngạc nhiên khi thấy một người phụ nữ đang rên rỉ, rõ là đang đau đẻ, ở băng ghế sau. “Mẹ dựa ngay vào cái tật hay quên của đàn bà con gái chúng mình,” mẹ kể với Audrey và tôi, giọng mẹ oang oang, gấp gáp. “Đàn ông thích nghĩ rằng mình đang giải cứu một phụ nữ đãng trí gặp khó khăn. Tất cả những gì mẹ phải làm là đứng sang một bên và để ông ta đóng vai anh hùng!”

Thời điểm nguy hiểm nhất đối với mẹ đến vài phút sau đó, trong bệnh viện, sau khi người phụ nữ ấy được đẩy đi bằng cáng. Một bác sĩ chặn mẹ lại và hỏi tại sao mẹ lại có mặt đầu tiên tại hiện trường. Mẹ mỉm cười khi nhớ lại khoảnh khắc ấy. “Mẹ hỏi ông ấy những câu hỏi ngớ ngẩn nhất mà mẹ có thể nghĩ ra.” Mẹ giả giọng quyến rũ, véo von chẳng giống giọng mẹ chút nào. “Ôi, là đầu đứa bé ư? Chẳng phải chân ra trước sao?” Vị bác sĩ đó tin rằng không thể có chuyện mẹ là một bà đỡ được.

Chẳng có người chế thảo dược nào ở Wyoming giỏi như mẹ, vậy nên vài tháng sau sự cố ở bệnh viện, Judy đến núi Buck để lấy hàng. Hai người phụ nữ tán chuyện trong bếp, Judy ngồi trên chiếc ghế đẩu, mẹ rướn người qua bàn quầy, tựa đầu vào bàn tay. Tôi mang danh sách các loại thảo dược vào buồng kho. Maria, bế cắp nách một đứa bé khác, lẽo đẽo theo sau. Tôi lôi những túi lá khô và những lọ chất lỏng đục ngầu từ trên các giá gác xuống, trong khi thao thao bất tuyệt về kỳ tích của mẹ, kết thúc bằng cuộc chạm trán của mẹ ở bệnh viện. Maria cũng có những câu chuyện của nó về cuộc lẩn tránh người của Liên bang, nhưng khi nó bắt đầu kể một chuyện tôi bèn ngắt lời nó.

“Mẹ cậu là một bà đỡ giỏi,” tôi nói, ưỡn ngực ra. “Nhưng khi đương đầu với bác sĩ và cảnh sát, thì không ai đóng vai ngốc giống như mẹ tớ.”

Chú thích:

[1] Trong khi mọi người đều đồng ý rằng đã nhiều năm bố mẹ tôi không lắp điện thoại, vẫn có những ý kiến khác nhau về số năm bố mẹ không dùng điện thoại. Tôi đã hỏi các anh trai, các cô dì, chú bác của tôi, nhưng vẫn không xác định được thời gian chính xác, vậy nên tôi dựa vào trí nhớ của mình — TG