← Quay lại trang sách

Chương 7 Chúa Sẽ Đáp Ứng

Đó là một mùa hè vắng những cơn mưa. Mỗi buổi trưa mặt trời chiếu nắng chói chang trên bầu trời, làm cháy xém ngọn núi bằng cái nóng khô khan và thiêu đốt, để mỗi sáng khi tôi đi qua cánh đồng tới khu chuồng trại, tôi cảm thấy những thân lúa mì mọc hoang kêu răng rắc và ngã rạp dưới chân tôi.

Tôi dành một buổi sáng nắng vàng như hổ phách làm Thuốc Giải Cứu cho mẹ. Tôi đã lấy mười lăm giọt từ chỗ thuốc gốc – được cất trong tủ đựng đồ khâu vá của mẹ, nơi nó sẽ không được sử dụng hoặc bị làm bẩn – và đựng chúng vào một lọ nước cất nhỏ. Sau đó, tôi dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái tạo thành một vòng tròn, và đưa cái lọ qua vòng tròn đó. Mẹ nói rằng sức mạnh của thuốc vi lượng đồng căn phụ thuộc vào việc lọ thuốc được đưa qua các ngón tay tôi bao nhiêu lần, hút năng lượng của tôi bao nhiêu lần. Thường thì đến lần thứ năm mươi tôi dừng.

Bố và Luke đang ở trên núi, trong bãi phế liệu phía trên đồng cỏ, cách nhà một phần tư dặm. Bố và anh tôi đang chuẩn bị những chiếc ô tô thải cho cái máy nghiền phế liệu mà bố đã thuê vào cuối tuần đó. Luke mười bảy tuổi. Anh có thân hình rắn chắc và nụ cười thoải mái khi ở ngoài trời. Luke và bố đang rút xăng từ các bình xăng. Cái máy nghiền đó sẽ không nghiền một chiếc ô tô có gắn bình xăng, bởi nguy cơ cháy nổ nên mỗi bình xăng phải được rút cạn và tháo rời. Việc ấy tốn thời gian, phải dùng búa và đe để chọc thủng bình, sau đó đợi nhiên liệu chảy ra rồi mới dùng đèn cắt để tháo bình, như vậy mới an toàn. Bố đã nghĩ ra một cách, làm tắt: một cái xiên to tướng, cao hai mét rưỡi bằng sắt dày. Bố sẽ nhấc chiếc xe lên bằng xe nâng, còn Luke sẽ hướng dẫn bố cho tới khi bình nhiên liệu của xe lơ lửng ngay phía trên cái xiên. Sau đó bố sẽ nhả chạc nâng. Nếu tất cả diễn ra suôn sẻ thì chiếc xe sẽ bị cái xiên đâm thủng và nhiên liệu sẽ chảy ra khỏi bình, chảy dọc cái xiên xuống thùng chứa đáy phẳng mà bố đã gắn đúng vị trí để hứng nhiên liệu.

Đến trưa, bố và Luke đã rút hết nhiên liệu từ khoảng ba mươi đến bốn mươi ô tô. Luke đã thu được nhiên liệu vào những cái thùng năm gallon [1] mà anh bắt đầu chở qua bãi phế liệu tới chỗ chiếc xe chuyên chở của bố. Trong một chuyến chở nhiên liệu anh bị trượt chân, làm ướt sũng chiếc quần bò của anh bằng một gallon xăng. Mặt trời mùa hè làm khô lớp vải denim trong vài phút. Anh chuyển xong những thùng xăng, sau đó về nhà ăn trưa.

Tôi nhớ bữa trưa hôm đó rõ đến mức đáng ngại. Tôi nhớ mùi của món thịt bò hầm khoai tây sền sệt, và tiếng leng keng của đá lạnh rơi vào những chiếc ly cao, với những giọt nước ngưng đọng trong cái nóng mùa hè. Tôi nhớ mẹ bảo tôi rửa bát, bởi vì sau bữa ăn mẹ sẽ lên đường đi Utah để tư vấn cho một bà đỡ khác trong một ca mang bầu phức tạp. Mẹ nói có thể mẹ không kịp về nấu bữa tối nhưng có hamburger trong tủ trữ đông.

Tôi nhớ đã cười suốt cả tiếng đồng hồ. Bố nằm trên sàn phòng bếp buông những câu bông đùa về một sắc lệnh gần đây đã được thông qua trong cái làng nhỏ của chúng tôi. Một con chó hoang đã cắn một cậu bé và tất cả mọi người đều nổi giận. Thị trưởng quyết định mỗi gia đình chỉ được sở hữu tối đa hai con mặc dù con chó cắn người đó không thuộc về bất cứ ai.

“Các nhà xã hội chủ nghĩa thiên tài,” bố nói. “Nếu con không dựng mái che trên đầu họ thì họ cứ mải mê ngắm mưa đến chết đuối mất.” Tôi cười đau cả bụng.

Khi Luke và bố quay lên núi chuẩn bị đèn cắt, anh đã hoàn toàn quên chuyện thùng xăng đổ vào quần mình, nhưng khi anh giắt cái đèn cắt vào cạp quần bên hông, làm cho đèn đánh lửa, tia lửa nhỏ bùng lên, nhấn chìm bên chân đó của anh.

Những gì chúng tôi nhớ, được kể đi kể lại nhiều lần đến nỗi nó trở thành giai thoại của gia đình, là Luke không thể thoát ra khỏi chiếc quần bò tẩm xăng của anh. Buổi sáng hôm đó, giống như mọi sáng, anh đã vớ vội chiếc quần bò có dây buộc bằng sợi se dài cả thước, nhẵn và trơn, và cần phải thắt một nút thật chặt để cố định cạp quần.

Giày của anh chẳng giúp ích gì: đôi giày ống mũi thép quá tã đến nỗi trong nhiều tuần sáng nào anh cũng phải dùng băng keo để dán giày, và tối nào cũng phải dùng con dao bỏ túi cắt lớp băng keo đó ra. Luke có thể đã cắt dây buộc giày và thoát khỏi nó trong nháy mắt, nhưng anh quẫn trí vì hoảng sợ, cứ cắm đầu chạy, lao như một con hoẵng bị phát hiện, khiến lửa lan ra đám ngải đắng và cỏ lúa mì vốn đã bị mùa hè khô nẻ làm cho khô giòn.

Tôi đang xếp những chồng bát đĩa bẩn và chất chúng vào bồn rửa thì nghe thấy âm thanh đó – tiếng kêu lạ lùng, chói tai bắt đầu bằng một âm điệu và kết thúc bằng một âm điệu khác. Không thể nào đó lại là tiếng người. Tôi chưa bao giờ nghe thấy một con thú hú lên như thế, với âm thanh và cường độ thay đổi bất thường như vậy.

Tôi chạy ra ngoài và nhìn thấy Luke đang đi cà nhắc qua bãi cỏ. Anh gào gọi mẹ, sau đó đổ sập xuống. Khi tôi nhìn thấy anh, ống quần bò ở một bên chân của anh đã biến mất. Các phần của cẳng chân anh có màu xám chì, đỏ và đẫm máu; những phần khác trắng bệch, như chết. Lớp da như những sợi dây thừng bằng giấy mỏng tinh xảo quấn quanh đùi xuống tới tận bắp chân anh, giống như sáp đang chảy nhỏ giọt từ một ngọn nến rẻ tiền.

Mắt anh trợn ngược.

Tôi lao vào nhà. Tôi đã xếp vào hộp vài lọ thuốc giải cứu, nhưng lúc đó tôi lấy lọ thuốc gốc vẫn để trong tủ ra. Tôi chộp lấy nó và chạy ra ngoài, sau đó đổ nửa lọ vào giữa hai bờ môi méo mó của Luke. Chẳng có gì thay đổi. Mắt anh vẫn trắng như cẩm thạch.

Thế rồi con ngươi màu nâu xuất hiện, sau đó là con ngươi còn lại. Anh bắt đầu lẩm bẩm, rồi gào lên. “Cháy! Cháy!” Anh rống lên, Một cơn ớn lạnh lan khắp người anh và răng anh va vào nhau cầm cập; anh đang run.

Tôi mới mười tuổi, và vào lúc đó tôi cảm thấy mình mới trẻ con làm sao. Luke là anh trai tôi; tôi cứ nghĩ anh sẽ biết phải làm gì, vậy nên tôi nắm lấy vai anh lay mạnh. “Em nên làm anh mát hay làm cho anh nóng người lên?” Tôi gào lên. Anh trả lời bằng tiếng thở hắt ra.

Tôi suy luận rằng chỗ bỏng là một vết thương. Sẽ hợp lý nếu điều trị vết bỏng trước tiên. Tôi lấy một khay đá từ trong ngăn tủ trữ đông để ở trong hiên ra, nhưng khi khay đá đó chạm vào chân anh, anh thét lên – một tiếng thét kinh dị khiến tôi long óc. Tôi cần một cách khác để làm mát chân của anh. Tôi tính dỡ đồ trong tủ trữ đông ra và để Luke nằm vào trong đó, nhưng cái tủ ấy chỉ hoạt động nếu nắp tủ được đóng lại, và như vậy anh sẽ chết ngạt.

Tôi cuống cuồng tìm kiếm khắp nhà, Chúng tôi có một thùng rác, một cái thùng to như cá voi xanh. Chúng tôi ném vào đó tung tóe những mẩu thức ăn thiu có mùi khó chịu đến mức phải cất nó trong buồng kho. Tôi lao vào nhà, đổ rác lên lớp vải sơn lót sàn, để ý thấy con chuột chết mà hôm trước Richard đã ném vào đó, rồi bê cái thùng đó ra ngoài, dùng vòi tưới cây phun nước rửa. Tôi biết tôi nên rửa sạch nó cẩn thận hơn, có lẽ bằng nước rửa bát, nhưng nhìn Luke, cảnh tượng anh quần quại trên cỏ, tôi cảm thấy mình không có thời gian. Sau khi đổ chỗ nước bẩn cuối cùng ra khỏi thùng, tôi dựng thùng lên, bơm nước vào đầy thùng.

Luke đang bò về phía tôi để cho chân vào thùng thì tôi nghe thấy tiếng nói của mẹ vang vọng trong đầu. Mẹ đang nói với ai đó rằng điều đáng lo ngại thực sự đối với một vết bỏng không phải là mô bị thương tổn, mà là nhiễm trùng.

“Luke!” Tôi kêu lên. “Đừng! Đừng cho chân vào thùng!” Anh phớt lờ tôi, tiếp tục bò đến chỗ cái thùng. Cái nhìn lạnh lùng từ đôi mắt anh nói rằng trong đầu anh chẳng có gì quan trọng ngoài lửa thiêu đốt chân anh. Tôi lao đến thật nhanh. Tôi đẩy mạnh cái thùng, và nước sánh ra khỏi thùng dội lên cỏ. Luke bật ra một âm thanh khủng khiếp, như thể anh đang ngộp thở.

Tôi chạy trở lại bếp và tìm thấy những cái túi vừa với cái thùng rác, sau đó mở một chiếc ra và bảo Luke cho chân vào. Anh không nhúc nhích nhưng cho phép tôi lồng cái túi ra ngoài lớp da thịt bị bỏng của anh. Tôi dựng thẳng cái thùng lên và nhồi cái vòi nước tưới cây vào. Trong khi cái thùng được làm đầy, tôi giúp Luke đứng bằng một chân và đưa cái chân bị bỏng đã được bọc trong cái túi giấy bóng vào thùng. Không khí buổi trưa ngột ngạt; nước sẽ nhanh chóng ấm lên; tôi ném một túi đá vào đó.

Không mất nhiều thời gian – hai mươi phút, có lẽ là ba mươi – Luke dường như đã bình tĩnh trở lại và có thể tự đứng được. Sau đó Richard từ dưới hầm đi lên. Cái thùng rác ở giữa bãi cỏ, cạnh chỗ bóng râm gần nhất ba mét, mà mặt trời buổi trưa thì quá gay gắt. Chứa đấy nước, cái thùng ấy quá nặng nên chúng tôi đâu thể chuyển nó ra chỗ khác, và Luke thì không chịu bỏ chân ra khỏi thùng, dù chỉ một phút. Tôi chạy đi lấy cái mũ rộng vành mà bà nội đã cho chúng tôi hồi ở Arizona. Răng của Luke vẫn va vào nhau cầm cập vậy nên tôi cũng mang ra một tấm chăn len. Và anh đứng đó, với chiếc mũ rộng vành trên đầu, chiếc chăn len quấn quanh vai, một chân để ở trong thùng rác. Anh trông vừa giống một người vô gia cư vừa giống một người đang đi nghỉ mát.

Mặt trời làm nước trong thùng ấm lên; Luke bắt đầu cựa quậy một cách khó chịu. Tôi quay trở lại chỗ tủ trữ đông, nhưng không còn đá nữa, chỉ còn hơn chục túi rau để trong ngăn đông, vậy nên tôi trút những cái túi đó vào thùng. Kết quả là một món súp đục ngầu với vài mẩu đậu và cà rốt.

Một lúc sau, tôi không thể nói chính xác là bao lâu, bố về nhà, trông có vẻ hốc hác và thất vọng. Luke đã bình tĩnh lại, và đang nghỉ, hoặc gần như đang nghỉ như anh có thể trong tư thế đứng. Bố đẩy thùng rác vào chỗ có bóng râm, bởi vì, dù đã đội mũ, hai tay Luke vẫn đỏ ửng lên vì cháy nắng. Bố nói tốt nhất nên để yên cái chân như thế cho tới khi mẹ về.

Khoảng sáu giờ xe của mẹ xuất hiện trên đường cao tốc. Tôi đón mẹ ở giữa đường lên đồi và kể cho mẹ nghe chuyện đã xảy ra. Mẹ vội chạy đến với Luke và nói mẹ cần xem cái chân, Vậy nên anh nhấc cái chân đang nhỏ nước ròng ròng ra khỏi thùng. Cái túi bóng dính vào vết thương. Mẹ không muốn làm rách những mô cơ dễ tổn thương của anh, nên mẹ thận trọng cắt cái túi giấy bóng ấy, cho tới khi chân anh lộ ra. Có rất ít máu và thậm chí có ít chỗ bỏng rộp hơn, bởi vì cả hai cái đó đều cần da mà Luke thì chẳng còn nhiều da. Mặt mẹ chuyển sang vàng tái, nhưng mẹ bình tĩnh. Mẹ nhắm mắt lại, vắt chéo ngón tay, sau đó hỏi to liệu vết thương có bị nhiễm trùng không. Tách tách tách.

“Lần này con may đấy, Tara,” mẹ nói, “Nhưng con nghĩ gì mà lại cho cái chân bị bỏng của anh con vào thùng rác hả?” Bố đưa Luke vào trong nhà và mẹ đi lấy con dao mổ của mẹ. Bố mẹ phải mất gần như cả buổi tối để cắt bỏ những chỗ thịt không còn sự sống ở chân Luke. Luke cố không thét lên, nhưng khi họ nâng và kéo căng những mảng da của anh lên cố xem chỗ thịt chết kết thúc ở đâu và đâu là điểm bắt đầu có máu nuôi, anh trút ra những tiếng nức nở và những giọt lệ ứa ra từ mắt anh. Mẹ băng chân anh trong lớp thảo dược chế từ cây thảo bản hoa vàng và thuốc mỡ chế từ cây liên mộc, bài thuốc của mẹ.

Mẹ giỏi điều trị các vết bỏng – đó là chuyên môn của mẹ – nhưng tôi có thể thấy mẹ lo lắng. Mẹ nói mẹ chưa từng thấy vết bỏng nào tệ như vết bỏng của Luke. Mẹ không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Đêm đầu tiên đó mẹ và tôi túc trực bên giường của Luke. Anh hầu như không ngủ, anh mê sảng vì sốt và đau. Để giảm sốt cho anh chúng tôi chườm đá lên trán và ngực anh; chúng tôi cho anh dùng thảo dược lobelia, cỏ đuôi ngựa xanh và bán chỉ liên. Đây là một bài thuốc khác của mẹ. Tôi đã dùng bài thuốc đó khi tôi bị ngã khỏi thùng phế liệu, để giảm đau ở chân trong khi đợi vết thương liền miệng, nhưng tôi gần như có thể nói nó chẳng có tác dụng gì.

Tôi đã tin các loại thuốc ở bệnh viện là thứ kinh tởm đối với Chúa, nhưng nếu đêm hôm đó tôi có morphine thì tôi đã cho Luke dùng. Đau đớn đã cướp đoạt hơi thở của anh. Anh nằm kê cao đầu trên giường, những giọt mồ hôi từ trên trán lăn xuống ngực anh, nín thở cho tới khi mặt anh đỏ ửng, rồi tím tái, như thể tước oxy của não là cách duy nhất anh có thể làm để sống đến phút tiếp theo. Khi cái đau trong phổi anh át cả cái đau từ vết bỏng, anh bật ra một tiếng kêu rõ to – một tiếng kêu nhằm giải phóng buồng phổi và cảm giác đau đớn ở chân anh.

Đêm thứ hai, một mình tôi chăm sóc anh để mẹ có thể nghỉ ngơi. Tôi ngủ lơ mơ, choàng tỉnh trước tiếng rên đầu tiên, trước cái cựa quậy nhẹ nhất, để tôi có thể lấy đá chườm và thảo dược trước khi Luke trở nên tỉnh hẳn và bị đau đớn hành hạ. Trong đêm thứ ba mẹ trông anh và tôi đứng ở cửa, nghe tiếng thở hổn hển của anh, nhìn mẹ theo dõi anh, nhìn khuôn mặt hóp vào, đôi mắt căng ra vì lo lắng và kiệt sức của mẹ.

Khi tôi ngủ, tôi mơ. Tôi mơ về ngọn lửa mà tôi không nhìn thấy. Tôi mơ chính tôi nằm trên cái giường đó, người tôi được quấn trong những lớp băng lỏng, khô héo như xác ướp. Mẹ quỳ trên sàn bên cạnh tôi, ấn tay lên bàn tay bó bột của tôi theo cái cách mẹ đã làm với Luke, vỗ nhẹ lên trán tôi và cầu nguyện.

Chủ nhật đó Luke không đi lễ nhà thờ, Chủ nhật sau đó, sau đó nữa cũng vậy. Bố bảo chúng tôi nói với mọi người rằng Luke bị ốm. Bố nói sẽ có rầy rà nếu Chính phủ phát hiện ra chuyện về cái chân của Luke, rằng người của Liên bang sẽ bắt cả lũ chúng tôi đi. Rằng họ sẽ tống Luke vào một bệnh viện, nơi chân của anh sẽ bị nhiễm trùng và anh sẽ chết.

Khoảng ba tuần sau vụ cháy, mẹ thông báo rằng vết bỏng của anh bắt đầu lên da non, và rằng mẹ có hy vọng cho thậm chí cả những chỗ bị tổn thương nặng nề nhất. Cho đến khi Luke ngồi dậy, và một tuần sau, khi đợt lạnh đầu tiên tràn tới, anh đã có thể đứng được một hoặc hai phút trên đôi nạng. Không lâu sau, anh chống nạng đi quanh nhà, gầy như quả đậu, ăn như thuồng luồng để bù lại trọng lượng mà anh đã mất. Cho đến lúc đó cái dây quần trở thành truyền thuyết của gia đình.

“Một người đàn ông thì phải có một cái thắt lưng tử tế chứ,” hôm Luke đủ khỏe để trở lại bãi phế liệu, bố nói và đưa cho anh một chiếc thắt lưng da có khóa thép.

“Luke thì không,” Richard nói. “Luke thích dây quần bện hơn, bố biết anh ấy sành điệu như thế nào mà.”

Luke cười ngoác miệng. “Đẹp là tất cả,” anh nói.

Trong mười tám năm tôi chưa bao giờ nghĩ về ngày hôm đó, theo bất cứ lối dò xét nào. Vài lần dòng hồi tưởng đưa tôi trở lại cái buổi trưa nóng như thiêu đốt ấy, và điều đầu tiên tôi nhớ đến là cái dây quần. Luke, tôi nghĩ. Anh gan lì như chó hoang. Em tự hỏi liệu bây giờ anh có còn mang dây quần như thế không?

Bây giờ, ở tuổi hai mươi chín, tôi ngồi viết, mường tượng vụ tai nạn đó từ những tiếng kêu gào vọng lại của một ký ức mệt nhoài. Tôi cào bới nó. Đến đoạn cuối tôi dừng lại. Có điều gì đó không ổn, một bóng ma trong câu chuyện này.

Tôi đã đọc nó. Rồi tôi đọc lại lần nữa. Và nó ở đó.

Ai đã dập lửa?

Một giọng nói âm ỉ kéo dài vang lên, bố đã làm điều đó.

Nhưng khi tôi phát hiện ra Luke, anh ấy chỉ có một mình. Nếu bố ở cùng Luke trên núi thì bố đã đưa anh ấy về nhà, sẽ xử lý vết bỏng cho anh ấy. Bố mải làm việc ở chỗ nào đó, đó là lý do tại sao Luke tự xoay xở để xuống núi. Tại sao chân anh lại được một đứa trẻ mười tuổi sơ cứu. Tại sao kết cục việc sơ cứu lại diễn ra trong một thùng rác.

Tôi quyết định hỏi Richard. Anh nhiều tuổi hơn tôi, và có trí nhớ tốt hơn. Vả lại, gần đây tôi nghe nói Luke không dùng điện thoại nữa.

Tôi gọi điện. Điều đầu tiên Richard nhớ là cái dây quần, có sao nói vậy, anh nhắc đến “cái dây sợi xe.” Sau đó anh nhớ đến chi tiết xăng bị đổ. Tôi hỏi làm thế nào Luke có thể dập lửa và tự mình xuống núi, khi mà thực tế cho thấy anh bị sốc khi tôi phát hiện ra anh. Richard nói dứt khoát rằng bố đã ở bên cạnh Luke.

Đúng vậy.

Vậy thì tại sao khi đó bố không có mặt ở nhà?

Richard nói, bởi vì Luke đã chạy qua đám cỏ lúa mì và khiến núi bị cháy. Tôi nhớ mùa hè đó. Khô hạn, nóng như thiêu đốt. Bạn không được châm ngòi cho những vụ cháy rừng ở vùng nông trang trong một mùa hè khô hạn. Vậy nên bố đưa Luke lên xe tải và bảo anh lái xe về nhà, về với mẹ. Chỉ có điều mẹ đi vắng.

Đúng.

Tôi nghĩ về chuyện ấy trong vài ngày, sau đó ngồi viết ra. Lúc đầu bố ở đó – bố với những câu bông đùa về đám người xã hội chủ nghĩa, về lũ chó và cái mái che giúp cho những người theo chủ nghĩa tự do khỏi chết đuối. Sau đó bố và Luke trở lại núi, mẹ lái xe đi, còn tôi chất bát đĩa bẩn vào bồn rửa. Tôi viết lại một lần nữa. Lần thứ ba tôi cảm thấy chuyện xảy ra như thế này.

Ở trên núi có chuyện gì đó đang xảy ra. Tôi chỉ có thể mường tượng ra nó nhưng tôi có thể nhìn thấy nó rõ ràng, rõ hơn, nếu nó là một ký ức. Những chiếc ô tô được chất đống, nằm đợi bình xăng của chúng bị chọc thủng và rút hết nhiên liệu. Bố phẩy tay trước cả một đống xe và nói, “Luke, cắt những cái bình xăng này ra, được chứ?” Và Luke nói, “Được, bố.” Anh nhét cái đèn hàn cắt vào cạp quần và vô tình làm nó đánh lửa. Lửa bùng lên từ chỗ nào đó và bén vào anh. Anh kêu lên, sờ soạng tìm dây buộc cạp quần, rồi lại kêu lên, và bỏ chạy qua đám cỏ lúa mì.

Bố đuổi theo anh, bắt anh phải đứng yên. Có thể đó là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời mình Luke không làm những gì mà bố bảo anh phải làm. Luke nhanh như cắt nhưng bố thông minh. Bố chạy theo đường tắt qua cả núi xe và chặn đầu Luke, đánh anh ngã xuống đất.

Tôi không thể hình dung ra những gì xảy ra tiếp theo, bởi vì không ai kể cho tôi biết bố đã dập lửa ở chân Luke như thế nào. Sau đó một ký ức hiện lên trong đầu tôi – về bố, đêm hôm đó ở trong bếp, nhăn mặt khi mẹ bôi thuốc mỡ vô tội vạ lên hai bàn tay đỏ ửng và bỏng rộp của bố – và tôi biết chắc bố đã làm gì.

Luke không bị lửa đốt nữa.

Tôi cố mường tượng ra khoảnh khắc quyết định ấy. Bố nhìn đám cỏ lúa mì, đang cháy rất nhanh, khát lửa trong cái nóng thiêu đốt ấy. Bố nhìn con trai mình. Bố nghĩ nếu bố có thể khống chế những ngọn lửa khi chúng còn nhỏ, thì bố có thể ngăn được đám cháy lan rộng, có thể cứu được ngôi nhà của chúng tôi. Luke dường như tỉnh táo. Não của anh chưa kịp hiểu điều gì đã xảy ra; cơn đau chưa bắt đầu. Chúa sẽ đáp ứng, tôi mường tượng bố nghĩ vậy. Chúa để thằng bé tỉnh táo. Tôi mường tượng bố cầu nguyện thành lời, đôi mắt bố hướng lên trời, khi bố mang con trai mình tới chiếc xe tải và đặt anh vào ghế lái. Bố vào số một, và chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Bây giờ nó sẽ chạy nhờ may mắn và Luke sẽ cầm lái. Bố nhảy ra khỏi chiếc xe đang chuyển động, ngã xuống đất đánh uỵch và lăn ra xa, sau đó chạy trở lại phía những đám cỏ đang cháy lan. Bố cầu nguyện, Chúa sẽ đáp ứng, rồi bố cởi áo và bắt đầu dập lửa [2].

Chú thích:

[1] Đơn vị đo chất lỏng tương đương 4,54 lít ở Anh và 3,78 lít ở Mỹ.

[2] Khi kể lại chuyện này tôi đã nói chuyện với Luke về vụ tai nạn. Lời kể của anh khác với của tôi và của Richard. Trong trí nhớ của Luke, bố đưa Luke về nhà, cho anh dùng thuốc vi lượng đồng căn để trị sốc, sau đó đặt anh vào một chậu nước lạnh, rồi để anh trong đó đi đập lửa. Lời kể này trái ngược hẳn với ký ức của tôi, và của Richard. Tuy nhiên, có lẽ trí nhớ của chúng tôi đều không chính xác. Có lẽ tôi đã phát hiện ra Luke một mình trong chậu nước, hơn là trên bãi cỏ. Thật lạ lùng, điều mà tất cả mọi người đều nhất trí là Luke xuất hiện ở bãi cỏ trước nhà với một bên chân để trong cái thùng rác. — TG