← Quay lại trang sách

Chương 6 Khiên Nhỏ Và Khiên Lớn

Mùa đông sau khi Tyler ra đi, Audrey bước sang tuổi mười lăm. Chị lấy được bằng xe do hạt cấp, và trên đường về nhà, chị kiếm được việc làm ở tiệm bánh hamberger. Sau đó chị kiếm được việc làm thứ hai, vắt sữa bò lúc bốn giờ sáng hằng ngày. Trong suốt một năm chị đã đấu tranh với bố, nhảy loạn lên dưới vòng cương tỏa mà bố áp đặt lên chị. Bây giờ chị có tiền; chị có xe riêng; chúng tôi hầu như không thấy mặt chị đâu. Gia đình đang teo nhỏ lại, hệ thống cấp bậc cũ đang bị nén lại.

Bố không có đủ người cho một đội lao động để xây dựng lán trại, vậy nên bố quay lại với việc làm phế liệu. Tyler đi rồi, mấy anh em tôi đều được thăng cấp: Luke, mười sáu tuổi, trở thành con trai lớn nhất trong gia đình, cánh tay phải của bố, còn Richard và tôi thay vị trí của anh, làm lính trơn.

Tôi nhớ buổi sáng đầu tiên tôi bước vào bãi phế liệu như một người lao động thứ thiệt trong đội của bố. Mặt đất đóng băng, thậm chí tôi có cảm giác không khí cũng đông cứng. Chúng tôi ở trong cái bãi phía trên đồng cỏ đã quá tải bởi hàng trăm chiếc xe con và xe tải. Một số chiếc đã cũ kỹ và hỏng hóc, hầu hết đều ọp ẹp và trông chúng méo mó, cong queo, bị xoắn vặn, khiến người ta có cảm giác chúng được làm bằng chất liệu giấy nhàu nhĩ chứ không phải bằng sắt. Ở giữa bãi có một cái hồ phế liệu, rộng mênh mông và sâu: để lộ ra cơ man nào là ắc-quy ô tô, những mớ dây đồng cách điện, những hộp truyền động bị vứt bỏ, những tấm thiếc múi han gỉ, những cái vòi nước cổ lỗ sĩ, những bộ tản nhiệt bị vỡ, những đoạn ống đồng sáng loáng, và nhiều thứ khác. Đó là một đống hổ lốn khổng lồ, vô tận, chẳng ra hình thù gì.

Bố dẫn tôi tới bên rìa của đống phế liệu đó.

“Con biết phân biệt nhôm với thép không gỉ chứ?” Bố hỏi.

“Con nghĩ con biết.”

“Lại đây.” Giọng của bố nôn nóng. Bố đã quen ra lệnh cho những người đàn ông trưởng thành. Phải giải thích việc của mình cho một đứa con gái mười tuổi dẫu sao cũng khiến bố con tôi cảm thấy tủi hổ ít nhiều.

Bố rút mạnh một miếng kim loại sáng lung linh khỏi đám phế liệu. “Đây là nhôm,” bố nói. “Hãy nhìn xem nó sáng như thế nào nhá? Sờ xem nó nhẹ như thế nào.” Bố đặt một miếng kim loại vào tay tôi. Bố nói đúng; nó không nặng như ta tưởng. Tiếp theo bố đưa cho tôi một đoạn ống có răng cưa. “Đây là thép,” bố nói.

Chúng tôi bắt đầu phân loại phế liệu thành các đống – nhôm, sắt, thép, đồng – để có thể bán. Tôi nhặt một miếng sắt lên. Nó đầy gỉ sắt màu đồng thiếc, và các cạnh nham nhở của nó đâm vào lòng bàn tay tôi. Tôi có một đôi găng tay da, nhưng khi bố nhìn thấy tôi đeo găng tay bố bảo rằng chúng sẽ khiến tốc độ làm việc của tôi chậm đi. “Tay con sẽ chai đi rất nhanh,” bố hứa khi tôi nộp đôi găng tay cho bố. Tôi đã tìm được một chiếc mũ cứng ở cửa hàng, nhưng bố cũng tịch thu nốt. “Con sẽ di chuyển chậm chạp hơn khi cứ cố giữ cái thứ ngớ ngẩn này ở trên đầu,” bố nói.

Bố sống trong nỗi sợ thời gian. Bố cảm thấy nó truy đuổi mình. Tôi có thể thấy nỗi sợ đó trong những cái liếc nhìn đầy lo lắng của bố về phía mặt trời khi nó trôi trên bầu trời, trong cách bố định giá từng đoạn ống hoặc từng miếng thép đầy nôn nóng. Bố nhìn mỗi mẩu phế liệu như nhìn số tiền mà nó có thể mang lại cho bố khi bố bán nó, trừ lượng thời gian cần để phân loại, cắt và vận chuyển đi. Mỗi tấm sắt, mỗi khoanh đồng là một xu, một hào, một đô-la – ít hơn thế nếu ta mất hơn hai giây để rút và phân loại – và bố liên tục cân nhắc những khoản lợi nhuận còm này với chi phí cho gia đình tính theo giờ. Bố tính rằng để các bóng điện đều sáng, để ngôi nhà được sưởi ấm, bố cần làm việc với tốc độ cực nhanh. Tôi chưa bao giờ thấy bố chậm rãi mang bất cứ thứ gì tới thùng rác; bố chỉ quăng một phát, bằng tất cả sức lực bố có, từ bất cứ chỗ nào bố đang đứng.

Lần đầu tiên nhìn thấy bố làm thế, tôi cứ nghĩ đó là do vô tình, một lần lỡ tay sẽ được sửa chữa. Tôi chưa nắm được các luật lệ của thế giới mới này. Tôi cúi xuống, và đang đưa tay để nhặt một cuộn dây đồng thì một vật gì đó rất lớn bay sạt qua tôi. Khi tôi quay lại nhìn xem vật đó bắt nguồn từ đâu, tôi bị một vật hình trụ bằng thép đập trúng bụng.

Cú đập đó khiến tôi ngã lăn xuống đất. “Ối!” Bố kêu lên. Tôi lăn lộn trên mặt đất đóng băng, quằn quại. Tôi vừa mới lồm cồm bò dậy thì bố đã lại quăng một vật khác. Tôi vội cúi xuống nhưng trượt chân ngã nhoài. Lần này tôi cứ nằm đó. Tôi run nhưng không phải vì lạnh. Da tôi vẫn còn cảm giác và nhoi nhói vì mối nguy hiểm sờ sờ, tuy nhiên khi tôi tìm người gây ra mối nguy hiểm đó, tất cả những gì tôi có thể thấy là một người đàn ông luống tuổi mệt mỏi, đang giật một bộ đèn điện vỡ.

Tôi nhớ tất cả những lần tôi nhìn thấy một trong những người anh của mình lao vào nhà qua cửa sau, hú lên, ôm một phần nào đó của cơ thể bị rách, bị bầm dập hoặc gãy, bỏng. Tôi nhớ hai năm trước, một người đàn ông tên là Robert làm việc cho bố đã bị mất một ngón tay. Tôi nhớ tiếng kêu man dại chói gắt mà ông phát ra khi ông chạy bổ vào nhà. Tôi nhớ mình đã nhìn trừng trừng vào cái mẩu ngón tay cụt đầy máu, và sau đó, vào ngón tay giập nát mà Luke mang vào nhà, đặt lên bàn bếp. Nó trông giống như một đạo cụ dành cho trò ảo thuật. Mẹ tôi lập tức đặt nó vào khay đá và vội vã đưa Robert tới thị trấn để các bác sĩ khâu nối lại ngón tay cho ông ta. Ngón tay của Robert không phải là ngón tay duy nhất mà bãi phế liệu đã làm đứt. Một năm trước vụ tai nạn của Robert, bạn gái của Shawn, Emma, cũng lao vào nhà qua cửa sau, gào thét. Chị đang giúp Shawn thì bị mất nửa ngón trỏ. Mẹ cũng vội vàng đưa Emma vào thị trấn, nhưng thịt trên ngón tay chị đã bị dập nát đến mức các bác sĩ chẳng thể làm gì được.

Tôi nhìn những ngón tay hồng hào của mình, và giờ đây bãi phế liệu đã khác. Khi còn nhỏ, Richard và tôi đã ở bãi phế liệu này hàng giờ vô tận, nhảy từ chiếc xe hỏng này tới chiếc xe hỏng khác, lấy thứ này, bỏ lại thứ khác. Bãi phế liệu là chiến địa cho cả nghìn cuộc chiến được tưởng tượng ra – giữa những con quỷ và các pháp sư, những nàng tiên và những kẻ khủng bố thuê, những chú lùn ranh mãnh và những người khổng lồ. Giờ đây nó đã thay đổi. Nó không còn là sân chơi tuổi thơ của tôi nữa mà đã trở về hiện thực vốn có của nó, một hiện thực với các quy luật vật chất đầy huyền bí, thù địch.

Tôi đang nhớ lại cái vệt lạ lùng mà máu đã tạo ra khi nó chảy xuống từ cổ tay của Emma, dây dớp dọc cánh tay chị, khi tôi đứng đó và, vẫn còn run, cố nhìn xem cái cuộn dây đồng ban nãy ở đâu. Tôi gần như đã nhặt được nó lên thì bố quẳng một bộ xúc tác khí thải. Tôi vội nhảy sang bên để tránh, khiến bàn tay bị cạnh có răng cưa của một thùng phi thủng cứa rách. Tôi lau máu vào quần và kêu lên, “Đừng ném chúng sang đây! Con đang ở đây!”

Bố nhìn lên, ngạc nhiên. Bố đã quên tôi đang ở đó. Nhìn thấy máu, bố bước tới chỗ tôi và đặt tay lên vai tôi. “Đừng lo, con ạ,” bố nói, “Chúa và các thiên thần của Người ở đây, làm việc ngay bên cạnh chúng ta. Chúa không để con bị thương đâu mà lo.”

Tôi chẳng phải là người duy nhất đang tìm mặt đất vững chắc cho đôi chân của mình. Sau vụ tai nạn, trong sáu tháng, mẹ tôi đã dần dần khá lên và chúng tôi cứ nghĩ mẹ sẽ hoàn toàn bình phục. Những cơn đau đầu của mẹ thưa hơn, vậy nên mẹ chỉ giam mình dưới tầng hầm hai hoặc ba ngày một tuần. Sau đó quá trình phục hồi chậm lại. Bấy giờ đã là chín tháng. Những cơn đau đầu vẫn dai dẳng, và mẹ lúc nhớ lúc quên. Ít nhất hai lần một tuần, sau khi mọi người đã ăn sáng được một lúc và bát đĩa đã được dọn sạch, mẹ lại bảo tôi nấu bữa sáng. Mẹ bảo tôi cân một cân cỏ thi cho một khách hàng, và tôi nhắc mẹ rằng chúng tôi đã mang cỏ thi đến cho người ấy từ ngày hôm trước rồi. Mẹ bắt đầu pha chế thảo dược, rồi chỉ một phút sau, không thể nhớ nổi các thành phần mẹ đã bổ sung, để rồi toàn bộ mẻ thuốc đó bị quẳng đi. Thỉnh thoảng mẹ bảo tôi đứng bên cạnh mẹ và theo dõi mẹ làm để nhắc, “Mẹ đã cho lobelia vào rồi mà. Tiếp theo là cỏ đuôi ngựa xanh.”

Mẹ bắt đầu hoài nghi không biết mình có còn làm bà đỡ được nữa không, và trong khi mẹ buồn thiu vì điều đó, bố thất vọng. Mặt bố xị ra mỗi lần mẹ từ chối đỡ đẻ cho một người phụ nữ. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu em lên cơn đau nửa đầu đúng lúc cô ta đẻ chứ?” Mẹ nói với bố. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu em không thể nhớ mình đã cho cô ta uống những thứ thảo dược gì, hoặc không thể nhớ nhịp tim của đứa bé có bình thường hay không?”

Cuối cùng không phải bố là người đã thuyết phục mẹ đi đỡ đẻ trở lại. Chính mẹ tự thuyết phục mình, có lẽ bởi đó là một phần trong con người mẹ mà mẹ chẳng thể nhượng bộ mà không đấu tranh. Mùa đông ấy, tôi nhớ mẹ đã đỡ cho hai đứa trẻ chào đời. Sau ca thứ nhất mẹ về nhà, yếu lả và nhợt nhạt, như thể việc giúp sinh linh ấy đến với thế giới này đã lấy đi toàn bộ sinh lực của mẹ. Mẹ giam mình trong tầng hầm khi cuộc gọi thứ hai đến. Mẹ lái xe đi đỡ đẻ với đôi kính đen, cố nhìn qua những vân sóng gây biến dạng tầm nhìn của mẹ. Khi mẹ đến nơi, cơn đau đầu khiến mẹ mụ mị, áp đảo và xua đuổi toàn bộ suy nghĩ của mẹ. Mẹ giam mình ở phòng trong và người phụ tá của mẹ đỡ đẻ ca đó. Sau đó, mẹ không làm bà đỡ nữa. Trong ca tiếp theo, mẹ dùng phần lớn số tiền thù lao mà mẹ được trả để thuê một bà đỡ phụ giúp và giám sát mình. Dường như giờ đây tất cả mọi người đều giám sát mẹ.

Mẹ đã từng là một chuyên gia, một người có năng lực không thể phủ nhận; giờ đây mẹ phải hỏi đứa con gái mười tuổi của mình để biết mẹ đã ăn trưa chưa. Mùa đông năm ấy dài lê thê, đầy u ám, và tôi tự hỏi phải chăng có những hôm chẳng đau đầu mẹ cũng nằm lì trên giường.

Vào Giáng sinh, ai đó tặng mẹ một lọ tinh dầu hỗn hợp đắt tiền. Nó giúp mẹ giảm đau đầu, nhưng với giá năm mươi đô-la cho khoảng bảy gram thì chúng tôi không có tiền để mua loại dầu đó. Mẹ quyết định tự làm tinh dầu. Mẹ bắt đầu mua những loại tinh dầu riêng biệt chưa pha trộn – khuynh diệp, và cúc bất tử, tinh dầu gỗ đàn hương và tinh dầu ravensara và ngôi nhà của chúng tôi, trong nhiều năm đã sực mùi vỏ cây và mùi của những loại lá đắng, bỗng nhiên đầy mùi oải hương và cúc La Mã. Mẹ dành nhiều ngày pha các loại tinh dầu, điều chỉnh để đạt được thuộc tính và mùi thơm đặc biệt. Mẹ dùng giấy bút để ghi lại từng bước mình đã thực hiện. Các loại tinh dầu đắt hơn thảo dược ngâm rượu nhiều; sẽ thật tai hại nếu mẹ phải ném cả một mẻ tinh dầu đi vì không thể nhớ đã cho tinh dầu vân sam vào hay chưa. Mẹ làm một loại tinh dầu đành cho chứng đau nửa đầu và một loại dành cho chứng thống kinh, một loại trị đau cơ và một loại để trị chứng tim đập nhanh, hồi hộp. Trong những năm sau mẹ chế thêm hàng chục loại nữa.

Để tạo ra các công thức, mẹ bắt đầu “thử nghiệm cơ bắp,” việc mẹ giải thích với tôi là “hỏi cơ thể xem nó cần gì và để nó trả lời.” Mẹ nói với chính mình, nói to, “Mình bị chứng đau nửa đầu. Thứ gì sẽ làm cho bệnh đỡ hơn?” Sau đó mẹ cầm một lọ tinh dầu lên, áp nó vào ngực và, với đôi mắt nhắm nghiền, mẹ nói, “Mình cần thứ này đúng không nhỉ?” Nếu người mẹ lắc lư về phía trước thì như thế có nghĩa là đúng, lọ tinh dầu ấy sẽ giúp mẹ trị chứng đau đầu. Nếu người mẹ lắc lư về phía sau thì như thế có nghĩa là không, và mẹ sẽ thử loại khác.

Khi đã trở nên thành thạo hơn, mẹ không cần lấy cả thân người để thử nữa mà chỉ dùng các ngón tay. Mẹ vắt chéo ngón giữa và ngón trỏ, sau đó hơi cong ngón tay lại để chúng không vắt chéo nữa, và tự hỏi mình một câu. Nếu các ngón tay vẫn cứ bện vào nhau thì như thế có nghĩa là đúng; nếu chúng tách ra thì có nghĩa là không. Âm thanh phát ra từ phương pháp thử này nghe không rõ, nhưng không thể lẫn được: mỗi lần đầu ngón giữa của mẹ trượt qua móng của ngón trỏ, lại có một tiếng tách khe khẽ.

Mẹ dùng phương pháp thử nghiệm cơ bắp để thí nghiệm những cách chữa bệnh khác. Khắp nhà chúng tôi chỗ nào cũng có biểu đồ luân xa và sơ đồ huyệt đạo, và mẹ bắt đầu thu tiền các khách hàng được “truyền năng lượng”. Tôi không biết đó là gì cho đến một buổi trưa khi mẹ gọi tôi và Richard vào phòng trong. Một người phụ nữ tên là Susan đang ở đó. Đôi mắt mẹ nhắm lại và bàn tay trái của mẹ đặt trên bàn tay trái của Susan. Các ngón tay thuộc bàn tay kia của mẹ vắt chéo nhau, và mẹ thì thầm những câu hỏi với chính mình. Sau vài câu hỏi mẹ quay sang người phụ nữ đó và nói, “Mối quan hệ của cô với cha cô đang làm hại thận của cô. Hãy nghĩ đến ông ấy trong khi chúng ta điều chỉnh luân xa.” Mẹ giải thích rằng việc truyền năng lượng đạt được hiệu quả cao nhất khi có vài người hiện diện ở đó. “Để chúng ta có thể thu năng lượng của mọi người,” mẹ nói. Mẹ chỉ tay vào trán tôi và bảo tôi gõ vào điểm chính giữa hai lông mày, trong khi dùng tay kia nắm lấy cánh tay Susan. Richard gõ vào một huyệt đạo trên ngực anh trong khi tay kia của anh chạm vào tôi, còn mẹ ấn một huyệt trên lòng bàn tay mẹ trong khi để chân mẹ và chân Richard chạm nhau. “Nó đấy,” mẹ nói khi Richard nắm tay tôi. Chúng tôi đứng im lặng trong mười phút, làm một sợi xích bằng người.

Khi nghĩ đến buổi trưa hôm ấy, những gì tôi nhớ trước tiên là nỗi ngượng nghịu: mẹ nói mẹ có thể cảm nhận được nguồn năng lượng nóng ấm truyền qua người chúng tôi, nhưng tôi chẳng cảm thấy gì hết. Mẹ và Richard đứng im, mắt nhắm nghiền, thở nông. Mẹ và anh có thể cảm nhận được năng lượng và sự truyền năng lượng. Tôi bồn chồn, ngọ nguậy. Tôi cố tập trung, sau đó lo rằng mình sẽ làm hỏng những điều dành cho Susan, rằng tôi sẽ làm gián đoạn đường truyền, rằng năng lượng chữa bệnh của mẹ và Richard sẽ chẳng thể đến được với Susan chỉ vì tôi không dẫn truyền nó. Hết mười phút Susan đưa cho mẹ hai mươi đô-la và khách hàng tiếp theo của mẹ bước vào phòng.

Nếu tôi hoài nghi thì mối hoài nghi đó không hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nó là kết quả của việc tôi không thể quyết định người mẹ nào của tôi đáng tin cậy. Một năm trước vụ tai nạn, khi lần đầu tiên mẹ nghe về thử nghiệm cơ bắp và truyền năng lượng, mẹ gạt toẹt cả hai, coi đó là những suy nghĩ hão huyền. “Người ta muốn một phép màu,” khi đó mẹ nói với tôi. “Họ sẽ uống bất cứ thứ gì nếu nó mang đến cho họ hy vọng, nếu nó khiến họ tin rằng họ sẽ khỏe lên. Nhưng làm gì có phép màu cơ chứ. Nghiên cứu dinh dưỡng, tập luyện và nghiên cứu cẩn thận về các đặc tính của thảo dược, đó là tất cả. Nhưng khi người ta đau ốm, họ không thể chấp nhận điều đó.”

Bây giờ mẹ nói việc chữa bệnh thuộc về thế giới tâm linh và là vô hạn. Mẹ giải thích với tôi rằng thử nghiệm cơ bắp là một kiểu cầu nguyện, một sự khẩn cầu thánh thần. Một hành động của đức tin mà trong đó Chúa nói qua những ngón tay của mẹ. Đôi lúc tôi tin mẹ, người phụ nữ khôn ngoan với một câu trả lời cho mọi câu hỏi; nhưng tôi không bao giờ có thể hoàn toàn quên những lời nói của người phụ nữ khác trong mẹ, cái người cũng khôn ngoan chẳng kém. Làm gì có phép màu cơ chứ.

Một hôm mẹ thông báo rằng mẹ đã đạt đến một trình độ mới. “Mẹ không cần phải đặt câu hỏi thành lời nữa,” mẹ nói. “Mẹ chỉ cần nghĩ câu hỏi trong đầu.”

Đó là khi tôi bắt đầu để ý thấy mẹ đi lại quanh nhà, khẽ đặt tay lên các vật rồi lẩm bẩm một mình, các ngón tay mẹ uốn cong theo một nhịp đều đặn. Nếu mẹ đang làm bánh mì và không chắc mình đã cho bao nhiêu bột. Tách tách tách. Nếu mẹ đang pha các loại tinh dầu với nhau và không thể nhớ mẹ đã thêm hương trầm hay chưa. Tách tách tách. Mẹ ngồi xuống đọc Kinh Thánh ba mươi phút, quên khuấy mình đã bắt đầu đọc lúc mấy giờ, cuộc thử nghiệm cơ bắp đã kéo dài bao lâu. Tách tách tách.

Mẹ bắt đầu làm thử nghiệm cơ bắp như chẳng thể đừng được, không ý thức được mình đang làm điều đó, bất cứ khi nào mẹ mệt mỏi vì một cuộc trò chuyện, bất cứ khi nào trí nhớ lơ mơ của mẹ, hoặc thậm chí những chuyện vặt của cuộc sống đời thường, khiến mẹ không hài lòng. Vẻ mặt mẹ trở nên trống rỗng, và những ngón tay mẹ bật tanh tách như những con dế trong đêm tối.

Bố rất khoái. “Chỉ chạm vào người ta thôi, lũ bác sĩ không thể nói được cái gì không ổn,” bố hăng hái nói. “Nhưng mẹ con có thể!”

Mùa đông ấy ký ức về Tyler cứ ám ảnh tôi. Tôi nhớ hôm anh ra đi, nhớ cảm giác lạ lùng khi nhìn chiếc xe của anh với những cái hộp lỉnh kỉnh xóc nảy trên đường xuống đồi. Tôi không thể hình dung nổi bây giờ anh đang ở đâu, nhưng thỉnh thoảng tôi tự hỏi phải chăng trường học không xấu xa như bố nghĩ, bởi vì Tyler là người ít xấu xa nhất mà tôi biết, và anh yêu trường học – dường như yêu trường học hơn yêu chúng tôi.

Hạt giống của tò mò đã được gieo; nó chẳng cần gì hơn ngoài thời gian và nỗi buồn chán để nảy nở. Thỉnh thoảng, khi tôi tháo đồng từ một bộ tản nhiệt hoặc ném cục sắt thứ năm trăm vào thùng, tôi nhận thấy mình đang tưởng tượng ra những tiết học mà Tyler dành cho hết ngày này tới ngày khác của anh.

Mối quan tâm của tôi ngày càng trở nên sâu sắc theo từng giờ trôi qua trong bãi phế liệu, cho tới một ngày tôi có một ý nghĩ lạ lùng: rằng tôi sẽ đăng ký vào trường công.

Mẹ luôn nói chúng tôi có thể đến trường nếu muốn. Mẹ nói chúng tôi chỉ phải hỏi bố. Sau đó có thể đi.

Nhưng tôi không hỏi. Có điều gì đó trong vẻ mặt nghiêm nghị, trong tiếng thở dài lặng lẽ của bố vào mỗi buổi sáng trước khi bố bắt đầu lời cầu nguyện của gia đình, khiến tôi nghĩ nỗi tò mò của mình là láo toét, là sự lăng mạ đối với tất cả những gì bố đã hy sinh để nuôi nấng tôi.

Tôi cố gắng duy trì việc học vào khoảng thời gian rảnh rỗi mà tôi có được giữa lúc gom phế liệu và thời gian giúp mẹ chế rượu thảo dược và tinh dầu hỗn hợp. Cho đến lúc đó mẹ đã bỏ hẳn việc dạy học tại nhà, nhưng vẫn có một chiếc máy tính, và những cuốn sách trong tầng hầm. Tôi tìm được cuốn sách khoa học, với những hình minh họa đầy màu sắc, và cuốn sách toán mà tôi nhớ đã có ở đó từ nhiều năm trước. Tôi thậm chí tìm được một cuốn sách lịch sử có bìa màu xanh lá đã bạc phếch. Nhưng khi tôi ngồi xuống để học gần như lần nào tôi cũng buồn ngủ rũ mắt. Những trang sách bóng loáng và nhẵn nhụi bị những giờ tôi dùng để gom phế liệu làm cho nhẵn nhụi hơn.

Khi bố nhìn thấy tôi cầm một trong những quyển sách đó, bố cố tách tôi ra khỏi chúng. Có lẽ bố nhớ đến Tyler. Có lẽ bố nghĩ nếu bố có thể khiến tôi sao lãng trong vài năm thì nguy cơ sẽ trôi qua. Vậy nên bố vẽ việc ra cho tôi làm, dù đó là những việc cần làm hay không. Một buổi trưa, sau khi bắt gặp tôi đang lúi húi với cuốn sách toán, bố và tôi dùng một giờ chở những xô nước qua cánh đồng tới đám cây ăn quả của bố, một việc sẽ không bất thường chút nào trừ một điều rằng lúc đó đang có mưa giông.

Nhưng nếu bố cố ngăn các con mình quan tâm thái quá đến trường học và sách vở – không bị hội Illuminati dụ dỗ, như Tyler đã bị – thì đáng lẽ bố nên dồn sự chú ý sang Richard. Richard đáng lý cũng phải dành các buổi trưa làm rượu thuốc cho mẹ, nhưng anh hầu như không làm. Thay vì thế, anh biến mất. Tôi không chắc mẹ biết anh đi đâu, nhưng tôi biết. Vào các buổi trưa, Richard gần như luôn được tìm thấy trong căn hầm tối, nhét mình trong khoảng trống chật hẹp giữa cái trường kỷ và bức tường, một cuốn bách khoa thư để mở trước mặt anh. Nếu bố tình cờ xuất hiện ở đó, bố sẽ tắt đèn, làu bàu về thói lãng phí điện.

Sau đó tôi sẽ kiếm cớ đi xuống hầm để có thể bật điện lại. Nếu bố lại xuống dưới đó thì tiếng gầm sẽ vang khắp nhà, và mẹ sẽ phải ngồi nghe một bài lên lớp về việc để đèn điện sáng trong các phòng không người. Mẹ chẳng bao giờ mắng tôi, và điều đó khiến tôi tự hỏi liệu mẹ có biết Richard ở đâu không. Nếu tôi không thể xuống tầng hầm để bật đèn thì Richard ghé sát mắt vào cuốn sách và đọc trong bóng tối; anh ham đọc quá. Anh muốn đọc cuốn bách khoa thư đó quá.

Tyler đi rồi. Hầu như không có dấu vết nào cho thấy anh đã từng sống trong ngôi nhà của chúng tôi, trừ một thứ: đêm nào cũng vậy, sau bữa tối, tôi đóng cửa phòng riêng và lôi chiếc máy nghe nhạc cũ của Tyler từ dưới gầm giường ra. Tôi kéo cái bàn của anh sang phòng tôi, và trong khi tiếng đồng ca vang lên tôi ngồi vào chiếc ghế của anh và học, giống y như tôi đã thấy anh học trong cả trăm buổi tối. Tôi không học lịch sử hay toán. Tôi học tôn giáo.

Tôi đã đọc cuốn Sách Mặc Môn hai lần. Tôi đã đọc Kinh Tân Ước, một lần đọc nhanh, sau đó lần thứ hai đọc chậm, dừng lại để ghi những điều đáng lưu ý, để tham khảo chéo, và thậm chí viết những bài luận ngắn về các học thuyết như đức tin và sự hy sinh. Không ai đọc các bài luận ấy của tôi; tôi viết chúng cho chính mình, như tôi hình dung ra Tyler đã học cho chính anh và chỉ cho anh mà thôi. Tiếp theo tôi đọc trọn cuốn Kinh Cựu Ước, sau đó tôi đọc các cuốn sách của bố, mà phần lớn là những tài liệu sưu tập gồm bài diễn thuyết, các bức thư và bài báo của các nhà tiên tri Mặc Môn tiên phong. Ngôn ngữ của họ được dùng trong thế kỷ mười chín – cứng nhắc, khó nắm bắt, nhưng chính xác – và thoạt đầu tôi chẳng hiểu mô tê gì. Nhưng qua thời gian mắt và tai tôi đã thích nghi, để tôi bắt đầu cảm thấy quen thuộc với những đoạn lịch sử của người Mặc Môn chúng tôi: những câu chuyện về những người tiên phong, tổ tiên của tôi, bôn ba khắp xứ Mỹ thời kỳ hoang dã. Những câu chuyện sao mà sống động, còn những bài giảng thì đến là trừu tượng, thường xoay quanh các chủ đề triết học mơ hồ, và tôi lại phải dành hết thời gian mà nghiền ngẫm cái mơ hồ ấy.

Hồi tưởng quá khứ, tôi thấy đây là cách mà tôi học, và nó rất quan trọng: những giờ tôi ngồi tại chiếc bàn đi mượn, cố phân tích những phần nhỏ của học thuyết Mặc Môn khi bắt chước một người anh đã bỏ tôi mà di. Kỹ năng tôi học là một kỹ năng cốt yếu, tính kiên nhẫn để đọc những gì mà mình chưa thể hiểu được.

Khi tuyết trên núi bắt đầu tan, tay tôi bị chai thành lớp dày. Một mùa ở bãi phế liệu đã mài giũa các phản xạ của tôi: tôi đã học nghe tiếng gầm gừ khe khẽ thoát ra từ miệng bố mỗi khi bố quăng một vật nặng, và khi tôi nghe thấy âm thanh đó tôi vội nằm ép người xuống mặt đất. Tôi mất nhiều thời gian nằm trong bùn đến nỗi tôi chẳng kiếm được bao nhiêu phế liệu. Bố nói đùa rằng tôi chậm như mật đường chảy ngược lên đồi [1]. Ký ức về Tyler đã nhạt nhòa, và cùng với nó âm nhạc của anh cũng nhạt đi, bị nhấn chìm bởi tiếng loảng xoảng của kim loại va đập. Giờ đây đó là những âm thanh vang vang trong đầu tôi vào buổi tối – tiếng leng keng của thiếc múi, tiếng tách cụt ngủn của dây đồng, tiếng rầm rầm như sấm nổ của sắt.

Tôi đã bước vào một hiện thực mới. Tôi nhìn thế giới qua con mắt của bố mình. Tôi thấy những thiên thần, hoặc ít nhất tôi đã tưởng tượng rằng mình nhìn thấy thiên thần, đang dõi theo chúng tôi, gom phế liệu, bước về phía trước, chộp lấy những bộ ắc-quy ô tô hoặc cắt nham nhở những đoạn ống thép mà bố để chềnh ềnh trong bãi. Tôi đã thôi gào lên với bố vì đã quăng chúng. Thay vì thế, tôi cầu nguyện.

Khi gom phế liệu một mình, tôi làm việc nhanh hơn, vậy nên một buổi sáng khi bố đang ở đầu phía bắc của bãi, gần núi, tôi bước về đầu phía nam, gần đồng cỏ. Tôi lượm được đầy một thùng hai nghìn cân [2] sắt; sau đó hai cánh tay tôi đau mỏi, tôi chạy đi tìm bố. Thùng chứa cần được giải phóng, mà tôi thì không biết điều khiển thiết bị xếp đỡ – một cái xe nâng khổng lồ với cần cẩu di động và bánh xe màu đen rộng và cao hơn cả tôi. Thiết bị xếp dỡ đó sẽ nâng cái thùng lên độ cao khoảng tám mét rưỡi trong không khí, sau đó, với cần trục vươn ra, làm nghiêng cái chạc cần cẩu để phế liệu có thể trượt ra ngoài, rơi xuống xe đầu kéo với tiếng ồn khủng khiếp. Cái xe đầu kéo ấy là một xe rơ-moóc dài hơn mười sáu mét được thiết kế để chở phế liệu, về cơ bản là một cái thùng khổng lồ. Thành của rơ-moóc được tạo bằng các tấm sắt dày cao khoảng hai mét rưỡi tính từ sàn xe. Cái rơ-moóc ấy có thể chứa được từ mười lăm đến hai mươi thùng phế liệu, hoặc khoảng bốn mươi nghìn cân sắt.

Tôi tìm thấy bố trên cánh đồng, đang nhóm lửa để đốt lớp cách nhiệt từ một mớ dây đồng. Tôi nói với bố rằng thùng phế liệu đã đầy, và bố đi cùng tôi trở lại chỗ đó, trèo vào trong xe nâng. Bố phẩy tay trước cái rơ-moóc. “Chúng ta sẽ chở được nhiều hơn, nếu con sắp xếp chỗ sắt sau khi nó được đổ. Nhảy lên đi.”

Tôi không hiểu. Bố muốn đổ cái thùng phế liệu có tôi ở bên trong ư? “Con sẽ trèo lên đó sau khi bố đổ thùng phế liệu này,” tôi nói.

“Không, làm thế này sẽ nhanh hơn,” bố nói. “Bố sẽ dừng cần cẩu lại khi cái thùng ngang bằng với rơ-moóc để con có thể trèo ra. Sau đó, con có thể chạy dọc thành rơ-moóc và ngồi trên nóc ca-bin cho đến khi bố đổ xong.

Tôi ngồi trên một đoạn sắt. Bố nhồi chạc cần cẩu xuống bên dưới thùng phế liệu, sau đó nhấc tôi và cả khối phế liệu đó lên và bắt đầu lái cần cẩu, với tốc độ cao nhất, về phía xe kéo. Tôi gần như không thể bám chặt. Ở khúc ngoặt cuối cùng, cái thùng lắc lư mạnh đến nỗi một thanh sắt nhọn lao về phía tôi. Nó xuyên vào chân tôi, phía dưới đầu gối khoảng hơn hai phân, trượt thành một đường như một lưỡi dao bập xuống tảng bơ còn ấm. Tôi cố rút nó ra nhưng cái khối phế liệu đó chuyển động, mà một phần thanh sắt ấy lại bị những thứ khác đè lên. Tôi nghe thấy tiếng rì rì của máy bơm thủy lực khi cần cẩu vươn ra. Tiếng rì rì đó chấm dứt khi thùng phế liệu cao ngang bằng với sàn rơ-moóc. Bố cho tôi thời gian để trèo lên thành rơ-moóc nhưng tôi đã bị thanh sắt đó ghim lại. “Con bị kẹt!” Tôi gào lên, chỉ có điều tiếng gầm của động cơ xe nâng quá ồn. Tôi tự hỏi liệu bố có đợi cho tới khi bố nhìn thấy tôi ngồi an toàn trên nóc ca-bin rồi mới đổ thùng phế liệu xuống hay không, nhưng đồng thời tôi biết bố sẽ không đợi. Thời gian vẫn róng riết truy đuổi bố.

Tiếng rì rì như tiếng máy bơm lại vang lên và thùng phế liệu được nâng lên thêm tám phút nữa. Vị trí để đồ phế liệu. Tôi lại gào lên, giọng cao hơn lần trước, sau đó thấp hơn, cố tìm một cường độ có thể xuyên qua tiếng ồn đều đều của động cơ. Thùng phế liệu bắt đầu nghiêng, thoạt đầu chậm, sau đó nhanh. Tôi bị ghim ở gần phía trong thùng. Tay tôi đặt trên mép thùng, biết rằng bằng cách này tôi sẽ có một chỗ để bám khi thùng thẳng đứng. Khi thùng phế liệu tiếp tục được đổ, đám phế liệu ở trên bắt đầu trượt về phía trước, từng chút từng chút, một sông bằng sắt bắt đầu vỡ ra. Thanh sắt nhọn kia vẫn cắm trong chân tôi, ghìm tôi xuống phía dưới. Tay tôi bị trượt khỏi chỗ bám và người tôi bắt đầu trượt khi thanh sắt đó cuối cùng cũng rút khỏi chân tôi, rơi xuống, đập mạnh vào rơ-moóc tạo ra âm thanh ghê tai. Bây giờ tôi tự do, nhưng tôi đang rơi. Tôi đập đập cánh tay, ước gì chúng túm được thứ gì đó không đang trên đà lao xuống. Lòng bàn tay tôi bám được vào cạnh của thành thùng, giờ đây gần như ở vị trí thẳng đứng. Tôi cố rướn người về phía đó, đẩy người lên mép thùng, sau đó tiếp tục cú rơi. Bởi vì giờ đây tôi đang rơi từ cạnh thùng chứ không phải từ miệng thùng, tôi hy vọng – tôi cầu nguyện – rằng mình đang rơi về phía mặt đất chứ không phải về phía chiếc xe nâng mà lúc này đang nghiến kim loại ken két. Tôi chìm xuống, chìm xuống chỉ nhìn thấy bầu trời xanh thẳm, đợi để cảm nhận cú đâm thọc của một thanh sắt nhọn hoặc cú xóc nảy từ mặt đất cứng.

Lưng tôi đập vào sắt: thành của rơ-moóc. Hai bàn chân tôi gập lên phía trên đầu và tôi tiếp tục cú rơi vô duyên xuống đất. Cú rơi đầu tiên là khoảng hơn hai mét hoặc hai mét rưỡi, cú rơi thứ hai có lẽ là từ độ cao khoảng hơn ba mét. Tôi nhẹ cả người khi cuối cùng mình cũng cảm nhận thấy mặt đất.

Tôi nằm ngửa, có lẽ trong khoảng mười lăm giây trước khi động cơ xe gầm gừ để trở về im lặng và tôi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của bố.

“Chuyện gì thế?” Bố hỏi, quỳ xuống bên tôi.

“Con bị ngã,” tôi vừa thở khò khè vừa nói. Gió đã quật tôi, và lưng tôi nhói đau, như thể người tôi bị cắt ra làm đôi.

“Làm thế nào con xoay xở được như thế này?” Bố nói. Giọng bố có cảm thông nhưng cũng có nỗi thất vọng. Tôi cảm thấy mình thật ngu xuẩn. Đáng lẽ ra mình có thể làm được, tôi nghĩ. Đó là một việc đơn giản kia mà.

Bố kiểm tra vết rách sâu ở chân tôi, một vết rạch rộng hoác khi thanh sắt nhọn tự rút khỏi chân tôi, rơi ra xa. Vết thương trông giống như một cái hố trên mặt đường; mô cơ đã lún xuống chẳng nhìn thấy đâu cả. Bố cởi chiếc áo sơ mi bằng vải nỉ mỏng của ông ra và ấn nó vào chân tôi. “Về nhà đi,” bố nói. “Mẹ sẽ cầm máu cho.”

Tôi đi cà nhắc qua đồng cỏ cho tới khi bố ở ngoài tầm nhìn, sau đó tôi đổ gục xuống đám cỏ lúa mì mọc cao. Tôi run rẩy, ngớp những ngụm không khí mà chẳng thể khiến nó tràn vào buồng phổi của mình. Tôi không hiểu tại sao mình lại khóc. Tôi còn sống. Tôi sẽ ổn. Các thiên thần đã làm phần việc của họ. Vậy tại sao tôi không thể ngừng run?

Đầu óc tôi quay cuồng khi tôi vượt qua cánh đồng cuối cùng và về đến nhà, nhưng tôi lao vào nhà bằng cửa sau, như tôi từng thấy các anh tôi, như Robert và Emma đã làm, gào lên gọi mẹ. Khi mẹ nhìn thấy những dấu chân đỏ lòm trên lớp vải sơn trải sàn, mẹ chạy đi lấy thuốc vi lượng đồng căn mà mẹ thường dùng để trị xuất huyết và sốc, loại thuốc mà mẹ gọi là Phương Thuốc Giải Cứu, và nhỏ mười hai giọt chất lỏng trong suốt, không mùi vị xuống dưới lưỡi tôi. Mẹ đặt nhẹ bàn tay trái lên vết thương và vắt chéo những ngón tay của bàn tay phải mẹ. Mẹ nhắm mắt lại. Tách tách tách. “Không có trùng uốn ván,” mẹ nói. “Vết thương sẽ liền miệng. Sớm muộn cũng sẽ liền miệng. Nhưng nó sẽ để lại sẹo xấu đấy.”

Mẹ chuyển sang kiểm tra bụng tôi và các vết bầm tím – một mảng thâm tím cỡ bằng đầu người – đã hình thành phía trên hông tôi vài phân. Ngón tay mẹ lại vắt chéo và mắt mẹ nhắm lại. Tách tách tách.

“Con bị tổn thương thận rồi,” mẹ nói. “Chúng ta nên làm một mẻ thuốc mới từ cây bách xù và hoa thảo bản.”

Vết thương phía dưới đầu gối tôi đã thành sẹo – một dòng sông đen bóng chảy qua lớp da màu hồng – khi tôi đi đến một quyết định.

Tôi chọn một buổi tối Chủ nhật khi bố đang nằm nghỉ trên sofa với cuốn Kinh Thánh mở sẵn trong lòng. Tôi đứng trước mặt bố trong một khoảng thời gian mà tôi có cảm giác như kéo dài nhiều giờ, nhưng bố không nhìn lên, vậy nên tôi thốt ra những điều tôi quyết định nói: “Con muốn đến trường.” Bố dường như không nghe thấy tôi nói. “Con đã cầu nguyện, và con muốn đến trường,” tôi nói. Cuối cùng, bố ngước lên nhìn, nhìn thẳng về phía trước, dán mắt vào thứ gì đó phía sau tôi. Nỗi im lặng bao trùm, không khí thật nặng nề. “Trong gia đình này,” bố nói, “chúng ta tuân theo các mệnh lệnh của Chúa.”

Bố cầm cuốn Kinh Thánh lên và mắt bố giật giật khi chúng nhảy từ dòng này tới dòng khác. Tôi quay gót để đi, nhưng trước khi tôi bước ra tới cửa bố lại nói. “Con nhớ Jacob và Esau [3] chứ!”

“Con nhớ,” tôi nói.

Bố đọc tiếp Kinh Thánh, và tôi lặng lẽ bước ra khỏi nhà. Tôi không cần bất cứ sự giảng giải nào; tôi biết câu chuyện đó có nghĩa gì. Nó có nghĩa rằng tôi không phải là đứa con gái mà bố đã nuôi nấng, đứa con gái của đức tin. Tôi đã cố bán quyền con trưởng của mình để lấy món súp hổ lốn.

Chú thích:

[1] Thành ngữ tương tự “Chậm như rùa”.

[2] Cân ở đây là cân Anh (pound), bằng 0,373kg.

[3] Một câu chuyện trong Kinh Thánh. Esau là anh, Jacob là em. Một ngày nọ, khi Jacob đang nấu súp thì Esau bước vào với cái bụng đói cồn cào. Người anh xin ăn súp và đã chấp nhận nhường quyền trưởng nam cho người em.